Trần Diễn (chữ Hán: 陈演, ? – 1644), tự Phát Thánh, hiệu Tán Hoàng, người Tỉnh Nghiên , một trong những Nội các thủ phụ thời Sùng Trinh cuối đời Minh.
Tiểu sử
Ông nội là Trần Hiệu, thời Minh Thần Tông tham gia chiến tranh Nhâm thìn, làm Ngự sử giám chinh Uy quân, mất ở Triều Tiên, được tặng Quang lộc khanh. Năm Thiên Khải thứ 2 (1622) thời Minh Hy Tông, Diễn đỗ tiến sĩ, được gia nhập Hàn lâm viện, làm Thứ cát sĩ, thụ chức Biên tu. Thời Sùng Trinh, Diễn đã trải qua các chức vụ: Thiếu chiêm sự, Chưởng Hàn Lâm viện, Trực giảng diên. Tháng giêng ÂL năm Sùng Trinh thứ 13 (1640), Diễn được thăng làm Lễ bộ hữu thị lang, Hiệp lý chiêm sự phủ.
Tháng 4 ÂL năm ấy, Diễn đối đáp vừa ý Sùng Trinh đế, được thăng làm Lễ bộ tả thị lang kiêm Đông các đại học sĩ, tiến vào Nội các. Năm thứ 14 (1641), Diễn được thăng làm Lễ bộ thượng thư, đổi làm Văn Uyên các đại học sĩ. Năm thứ 15 (1642), Diễn nhờ trấn áp nghĩa quân ở Sơn Đông, được gia hàm Thái tử thiếu bảo, đổi làm Hộ bộ thượng thư, Vũ Anh điện đại học sĩ. Tháng 5 ÂL năm thứ 16 (1643), Diễn được thay Chu Duyên Nho làm Thủ phụ của Nội các. Tháng giêng ÂL năm sau (1644), Diễn có kết quả khảo sát tốt, được gia Thiếu bảo, đổi làm Lại bộ thượng thư, Kiến Cực điện đại học sĩ.
Tháng 2 ÂL cùng năm, nghĩa quân Lý Tự Thành uy hiếp kinh thành, Diễn xin từ chức, Sùng Trinh đế đồng ý. Tháng 3 ÂL, nghĩa quân chiếm được thành, Diễn bị giam trong doanh trại của tướng nghĩa quân là Lưu Tông Mẫn. Sử cũ chép: nhờ giao nộp rất nhiều bạc, Diễn được tha chết; dã sử chép: tên đầy tớ của Diễn oán chủ, tố cáo với nghĩa quân nơi ông chôn giấu kho tàng, khiến nghĩa quân tức giận, tra tấn ông rất tàn bạo. Ngày 12 tháng 4 ÂL, Lý Tự Thành rút chạy khỏi Bắc Kinh, e ngại quan viên nhà Minh sẽ là hậu hoạn, bèn giết sạch bọn họ, Diễn cũng bị hại.
Tính cách
Diễn kém tài, ít học, nhưng khéo thiết lập quan hệ. Mới gia nhập Hàn Lâm viện, Diễn đã cấu kết với hoạn quan. Nhờ hoạn quan dò biết câu hỏi, Diễn trả lời vừa ý hoàng đế, được gia nhập Nội các. Về sau Diễn thay Chu Duyên Nho làm thủ phụ, nhờ hoạn quan súc siểm với hoàng đế, đuổi khéo Vương Ứng Hùng – đồng minh chánh trị của Duyên Nho.
Diễn tính hèn hạ, lại cay nghiệt; ghét Phó đô ngự sử Phòng Khả Tráng, Hà Nam đạo Trương Huyên không ăn cánh với mình, gièm pha với Sùng Trinh đế, đẩy họ vào ngục.
Đánh giá
Diễn thay Chu Duyên Nho làm Nội các thủ phụ, trở thành người được Sùng Trinh đế tín nhiệm nhất, quan viên trong triều kéo nhau nương tựa ông. Nhưng đương lúc nước nhà nguy cấp, Diễn chẳng những không đóng góp gì cho chánh sự, mà còn vơ vét tài sản cho riêng mình, tìm cách xoa dịu hoàng đế cho qua mọi việc.
Nghĩa quân Lý Tự Thành ngày càng đến gần Bắc Kinh, mọi người đề nghị Ngô Tam Quế ở mặt bắc lui về hỗ trợ, Diễn kiên trì phản đối. Đến khi tình hình nguy ngập, Sùng Trinh đế đồng ý gọi Ngô Tam Quế, Diễn không an lòng, xin từ chức, mà đế vẫn u mê, đãi ngộ ông trọng hậu. Đến khi quan viên đua nhau kể tội Diễn, đế mới tỉnh ngộ.
Diễn đã rời chức, nhưng chưa thể rời khỏi kinh thành, vì khối tài sản trong nhà quá lớn, bỏ lại thì đáng tiếc, chuyển đi thì e ngại khắp nơi loạn lạc. Cứ lần lữa mãi cho đến khi nghĩa quân tiến vào Bắc Kinh, Diễn trở thành tù nhân, hối hận đã muộn. Dã sử kể rằng vào lúc kinh thành thất thủ, Diễn ảo tưởng vẫn được an lành sau khi nhà Minh sụp đổ.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Diễn** (chữ Hán: 陈演, ? – 1644), tự **Phát Thánh**, hiệu **Tán Hoàng**, người Tỉnh Nghiên , một trong những Nội các thủ phụ thời Sùng Trinh cuối đời Minh. ## Tiểu sử Ông
**Trần Hoàn** (chữ Hán: 陈桓, ? – 1393), người Hào Châu , tướng lãnh đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời và sự nghiệp Ban đầu Hoàn hưởng ứng nghĩa quân
**Trần Sâm** (chữ Hán: 陈琛, 1477 – 1545), tên tự là **Tư Hiến**, hiệu là **Tử Phong**, người huyện Tấn Giang, phủ Tuyền Châu , là quan viên, học giả, ẩn sĩ đời Minh trong
**Trần Diễn** (sinh 14 tháng 10 năm 1944) là một nhà văn công an Việt Nam, Đại tá Công an nhân dân Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam và Hội Nhà văn
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
**Quan chế nhà Minh** liệt kê chức vụ chính thức trong triều đại nhà Minh, không đầy đủ. ## Tước hiệu ### Ngoại thích * Công * Hầu * Bá * Quận công * Quận
**Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ty** (chữ Hán: 交趾等處承宣布政使司), gọi tắt là **Giao Chỉ Bố chính sứ** (交趾布政司), là cơ quan hành chính cấp tỉnh mà nhà Minh thiết lập tại
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龙, 1555 – 1624), tên tự là **Vu Điền**, người huyện Trường Viên, phủ Đại Danh, hành tỉnh Bắc Trực Lệ , là quan viên, tướng lãnh trung kỳ đời
**Phạm Thông** (chữ Hán: 范鏓, ? – ?) tự **Bình Phủ**, người Thẩm Dương vệ , quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp và thăng tiến Tổ tiên của Thông
**Thái Phúc** (chữ Hán: 蔡福; ?-1428) là một tướng nhà Minh, sang tham chiến tại Việt Nam, từng đầu hàng nghĩa quân Lam Sơn. ## Sang Việt Nam lần đầu Thái Phúc là tướng nhà
**Huyết án Ngọ môn nhà Minh** () là một sự kiện xảy ra vào ngày 12 tháng 9 năm 1449 (ngày 26 tháng 8 năm Chính Thống thứ 14 dưới triều Minh Anh Tông) tại
**Niên biểu Nội Các đại thần nhà Minh** bao gồm tất cả thành viên Nội Các nhà Minh bắt đầu từ năm Hồng Vũ thứ 35 (1402) kéo dài đến năm Sùng Trinh thứ 17
Quy mô nền kinh tế Trung Quốc vào thời nhà Minh là lớn nhất thế giới đương thời. Nhà Minh cùng với nhà Hán và nhà Đường, được xem như ba kỷ nguyên hoàng kim
**Hoàng tộc nhà Minh** của người Hán xuất hiện khi nhà Minh được thành lập nên ở Trung Quốc năm 1368 do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương thành lập và lực lượng khởi nghĩa
**Kim Thanh** (chữ Hán: 金声, ? – 1645), tự **Chánh Hy**, người huyện Hưu Ninh, phủ Huy Châu , quan viên cuối đời Minh, kháng Thanh thất bại mà chết. ## Phục vụ nhà Minh
**Hoàng Việt** (chữ Hán: 黄钺, ? – 1402), tự **Thúc Dương**, người châu Thường Thục, lộ Bình Giang, hành tỉnh Giang Nam , quan viên nhà Minh. ## Cuộc đời Việt từ nhỏ hiếu học.
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志), tướng lãnh đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Tham gia khởi nghĩa Chí (sanh năm ngày 9 tháng 1 ÂL năm 1335 – mất ngày 17 tháng
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1376 – 1450), tự **Thì Ngạn**, người Kim Khê, Giang Tây, quan viên nhà Minh. ## Sự nghiệp ### Thời Thành Tổ Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404), Anh đỗ
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
**Mãn Châu dưới sự cai trị của nhà Minh** đề cập đến sự thống trị của nhà Minh trên lãnh thổ Mãn Châu, kể cả vùng Đông Bắc Trung Quốc và Priamurye hiện nay. Sự
**Trận phục kích đoàn xe quân sự của Pháp ở Điền Xá** là trận đánh mở đầu cho chiến dịch Đông Bắc II, được mở ra nhằm mục đích phối hợp với chiến dịch Cao-Bắc-Lạng.
**Thị trấn của Liên minh Hanseatic tại Visby** là thị trấn liên minh Hanseatic ngày nay nằm ở thành phố Visby, Thụy Điển. Được công nhận là Di sản thế giới vào năm 1995, nó
**Trần Lâm** tên thật là **Trần Quảng Vận** (1922–2011), nhà báo, một trong những người sáng lập và là người đầu tiên lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, liên
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Chiến tranh Minh-Việt** diễn ra từ năm 1407 đến khoảng những năm 1413-1414 là cuộc chiến tranh giữa dân tộc Đại Việt dưới sự lãnh đạo của các vị vua nhà Hậu Trần cùng tông
**Trần Viên Viên** (1624-?) là một kỹ nữ nổi danh trong lịch sử Trung Quốc có tự **Uyển Phân** (畹芬), vợ lẽ của danh tướng Sơn Hải quan Ngô Tam Quế. Đồng thời cũng bị
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Trận hồ Bà Dương** (; Hán Việt: Bà Dương hồ chi chiến) là một trận thủy chiến diễn ra trên hồ Bà Dương từ ngày 30 tháng 8 tới ngày 4 tháng 10 năm 1363
**Nam Minh** (, 1644–1662) là một Triều đại Trung Quốc được chính dòng dõi con cháu và các quan lại trung thành của nhà Minh thành lập ở phía Nam Trung Quốc ngay sau khi
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
nhỏ|Lược đồ chiến dịch Thổ Mộc bảo **Trận bảo vệ kinh sư**, còn gọi là **Trận bảo vệ Bắc Kinh**, diễn ra vào tháng 10 năm Chính Thống thứ 14 (1449) dưới thời Minh Anh
**Trần Điền** (1911 - 1968) là một thượng nghị sĩ trong Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Ông cũng là một trong các trưởng thế hệ sáng lập Hướng đạo Việt Nam. Ông bị phía
**Trần Vũ** là một nhà văn tại hải ngoại, từng là chủ biên báo Hợp Lưu và nổi tiếng với lối viết văn táo bạo, thách thức, kết hợp giữa bạo lực và tình dục
**Minh Vũ Tông** (chữ Hán: 明武宗; 26 tháng 10, 1491 - 20 tháng 4, 1521) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1505 đến
**Minh Hiếu Tông** (chữ Hán: 明孝宗, 30 tháng 7, 1470 – 8 tháng 6, 1505), là vị Hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì 18
**Tư Lăng** (chữ Hán: 思陵) là nơi an táng Minh Tư Tông (hay **Sùng Trinh**) – Hoàng đế thứ 17 và cuối cùng của nhà Minh cùng hai người vợ ông là Chu Hoàng hậu
**Trận Diên Tân** (chữ Hán: 延津之戰, _Diên Tân chi chiến_) là một trận chiến diễn ra dọc theo bờ nam của sông Hoàng Hà vào cuối thời Đông Hán. Đây là trận chiến diễn ra
**Trần Lân** (chữ Hán: 陈璘, 1543 – 1607), tự **Triều Giác(朝爵)**, hiệu **Long Nha** , Ông sinh ra ở huyện Văn Nguyên, phủ Thiều Châu (nay là huyện Văn Nguyên, thành phố Thiều Quan, tỉnh
nhỏ|phải|Chân dung Lý Thời Trân Tượng bán thân Lý Thời Trân trong vườn thuốc tại Kỳ Châu. **Lý Thời Trân** (, 1518–1593), tự là **Đông Bích** (東璧), lúc già có hiệu là **Tần Hồ sơn
**Minh Hiến Tông** (chữ Hán: 明憲宗, 9 tháng 12, 1446 – 19 tháng 9, 1487), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 1464
**Giang Bắc tứ trấn** (chữ Hán: 江北四鎮), dân gian quen gọi là **Nam Minh tứ trấn** (南明四鎮), là 4 quân khu trọng yếu của chính quyền Nam Minh, nhưng thường được hiểu là 4 cánh
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**_Hoàng Minh Tổ huấn_** là một bộ di chiếu gồm những lời khuyên răn của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế khai quốc của nhà Minh, dành cho con cháu của ông. Bộ
**Minh Tuyên Tông** (chữ Hán: 明宣宗, 25 tháng 2, 1398 – 31 tháng 1, 1435), là vị Hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ