✨Phạm Thông (nhà Minh)

Phạm Thông (nhà Minh)

Phạm Thông (chữ Hán: 范鏓, ? – ?) tự Bình Phủ, người Thẩm Dương vệ , quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc.

Khởi nghiệp và thăng tiến

Tổ tiên của Thông là người Lạc Bình, Giang Tây, dời nhà đến Thẩm Dương. Thông đỗ tiến sĩ năm Chính Đức thứ 12 (1517), được thụ chức Công bộ Chủ sự, rồi thăng làm Viên ngoại lang.

Năm Gia Tĩnh thứ 3 (1524), Thông tham dự sự kiện cửa Tả Thuận, chịu giam giữ và phạt đòn, giáng chức Hộ bộ Lang trung xuống làm Trường Lư Diêm vận tư Đồng tri, sau đó được thăng làm Hà Nam Tri phủ. Gặp nạn đói lớn, Tuần phủ Đô ngự sử Phan Huân đè xuống văn điệp xin chẩn tai của các nơi, chờ khám xét là thật thì mới cho phát chẩn. Thông không đợi trả lời, liền mở kho phát lương, cứu sống hơn 10 vạn người, được dân chúng tranh tụng ca tụng, lời khen truyền vào trong cung. Vì thế Minh Thế Tông trách bộ Hộ cùng Phan Huân và Tuần án ngự sử giấu giếm thiên tai. Phan Huân quy tội cho Thông để đùn đẩy trách nhiệm, khiến ông bị hặc và chịu bãi chức, nhưng Thông cũng nhờ vậy mà nổi danh. Sau đó Thông được thăng làm Lưỡng Hoài Diêm vận sứ, tâu lên 10 việc khẩn yếu của ngành muối. Thông đã trải qua các chức vụ Tứ Xuyên Tham chính, Hồ Quảng Án sát sứ, Chiết Giang, Hà Nam Tả/Hữu Bố chính sứ.

Tổ chức phòng ngự bắc biên

Năm thứ 20 (1541), Thông được cất nhắc làm Hữu phó Đô Ngự sử, Tuần phủ Ninh Hạ. Thông làm người trì trọng, có phương lược, sau khi nắm giữ trọng trấn thì không ham muốn lập công trạng, mà một lòng huấn luyện bộ kỵ, mở rộng tích trữ, sửa chữa công sự của quan ải, khiến kẻ địch tránh xa, có 500 tù binh chịu quy thuận. Thông dâng sớ nói: "Biên tướng đều có bổng lộc đều đặn, nên không có chế độ cấp ruộng. Từ khi Vũ Định hầu Quách Huân tâu xin lấy lính dư thừa khai khẩn ruộng vườn để cấp cho tướng lĩnh, ủy thác cho bọn lính gian dối làm trang đầu (tức quản lý), gây hại rất lớn. Nên trả số ruộng ấy cho quân dân, để họ cày cấy là tiện." Gia Tĩnh Đế nghe theo. Qua vài năm, Thông xưng bệnh xin về quê.

Thông được khởi chức cũ là Hữu phó Đô Ngự sử, Tuần phủ Hà Nam. sau đó Thông được triệu làm Binh bộ Hữu Thị lang, rồi chuyển làm Tả Thị lang. Thượng thư Vương Dĩ Kỳ ra làm Đốc tam biên, Thông được tạm coi việc của bộ. Ít lâu sau, Thông phụng chiếu làm Tổng lý Biên quan ách ải. Thông bàn đến việc kinh lược sự vụ ở các nơi Triều Hà xuyên, Cư Dong quan, xin tăng đôn đài ở Phong Oa lĩnh bên ngoài Cổ Môn đạo làm bình phong bên ngoài, đào hào đặt cầu, đề phòng kỵ binh xung kích. Hướng Tây Nam của Triều Hà xuyên có 2 ngọn núi đối diện nhau, Thông đều đặt Địch đài, để khống chế dòng sông ở giữa, chia thú binh thay phiên giữ nơi yếu hại. Còn các nơi Ngũ Lý Đóa, Hoạch Xa, Khai Liên khẩu, Mộ Điền cốc thuộc Kế Trấn, Thông đề nghị đặt Đôn đài. Các nơi Ác cốc, Hồng Thổ cốc, Hương Lô Thạch, Thông đề nghị san bằng chỗ hiểm trở. Các cửa ải bên ngoài Cư Dong quan, vừa thuộc nội địa của Tuyên Phủ, vừa làm phên dậu của Cư Dong, Thông đề nghị giáng sắc cho quan tướng của Đông Trung lộ tu sửa. Thông thăng Triều Hà xuyên Đề đốc làm Thủ bị, thêm phó tướng ở Cư Dong quan, để họ lĩnh Thiên Thọ sơn, Hoàng Hoa trấn; đặt chức Hoành Lĩnh thủ bị, chẹn Hoài Lai lộ; cấp thêm 2000 người cho tân quân, nhờ chế độ Đoàn luyện. Thông lại bàn đến việc kinh lược sự vụ của các quan Tử Kinh, Đảo Mã, Long Tuyền cùng Sơn Hải quan, Cổ Bắc khẩu, xin sửa sang thành – viên, đặt thêm địch lâu, doanh xá của các nơi yếu hại ở Tang cốc thuộc Tử Kinh, Trung Diêu quan dục thuộc Đảo Mã, Đẩu Thạch lĩnh thuộc Long Tuyền. 4 lộ Yến Hà, Thái Bình, Mã Lan, Mật Vân thuộc quyền quản hạt của Kế Châu vẫn chưa tu sửa xong, Thông buộc các tư phải nộp tiền chuộc tội để hoàn thành; còn Phù Đồ dục, Sáp Tiến lĩnh rất xung yếu đối với 2 quan Tử Kinh, Đảo Mã, Thông dời Tham tướng chia trú Thạch Môn, Đỗ gia trang, khiến Bảo Định Tổng binh trú Tử Kinh. Kế, Liêu cách trở ngàn dặm, nên Thông dời Kiến Xương doanh Du kích đến ở Sơn Hải quan; Tam Đồn doanh thiếu lính thì nhanh chóng chiêu mộ, ngựa không đủ thì bổ sung. Lính thú lâu dài không được trang bị đầy đủ, Thông xem xét cấp cho họ quân dụng; những người đi làm nhiệm vụ được mang theo lương thực đi đường, không ai phải vác giáo mà chịu bụng rỗng. Thông lại nói: "Các lộ hoãn gấp, lấy trách nhiệm của Mật Vân làm đầu. Mỗi quan yếu hại, lấy hiểm trở của Mật Vân làm đầu. Như Lãnh khẩu thuộc Yến Hà, Hoàng Nhai thuộc Mã Lan, Du Mộc lĩnh, Sát Nhai Tử thuộc Thái Bình, đều là gấp đấy. Nếu sắc cho phủ trấn đốc chư tướng chia lĩnh ngựa lính các doanh, ở lân cận bày đặt phục binh, thu xếp để chiến thủ." Bộ binh trả lời: "Quân đội ở thú lâu ngày, mến đất. Bất chợt di dời, sợ họ gây biến. Chẳng bằng Sơn Hải quan đặt thêm 1 viên tướng, mộ 3000 quân để đồn trú, đề nghị phủ thần Kế, Liêu điều động, cứu viện Yến Hà." Còn những lời khác của Thông, được giao xuống cho quan tướng trấn thủ bàn bạc.

Những năm cuối đời

Gia Tĩnh Đế rất hài lòng về Thông, gặp lúc Binh bộ Thượng thư Triệu Đình Thụy chịu bãi chức, lập tức mệnh cho vào triều để thay thế. Thông lấy cớ tuổi cao để từ chối, còn nói cứ gặp chuyện mà thay đổi, sẽ chẳng thuận lợi để xong việc đâu (tức là nói mát việc Gia Tĩnh Đế nghe lời gièm pha, lột chức của Triệu Đình Thụy). Đế giận, trách Thông không cung kính, lột quan tịch của ông. Bấy giờ Nghiêm Tung nắm quyền, mà Thông vốn do Từ Giai tiến cử, mọi người đều khen ông là bậc trưởng giả, tiếc cho việc ông phải ra đi, không cho đấy là tội.

Thông đi rồi, Gia Tĩnh Đế triệu Ông Vạn Đạt, nhưng Vạn Đạt vừa đến thì nhà có tang, nên phải quay về. Đế lấy Đinh Nhữ Quỳ thay thế, ngay năm sau Yêm Đáp Hãn của Mông Cổ uy hiếp kinh thành, khiến Nhữ Quỳ bị chịu tội chết. Thông trở về quê nhà rất lâu thì mất, không rõ khi nào. Minh Mục Tông nối ngôi, cho Thông khôi phục quan tịch.

Hậu duệ

Chắt của Thông là Phạm Văn Trình, khai quốc công thần của nhà Thanh.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Thông** (chữ Hán: 范鏓, ? – ?) tự **Bình Phủ**, người Thẩm Dương vệ , quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp và thăng tiến Tổ tiên của Thông
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Lý Hóa Long** (chữ Hán: 李化龙, 1555 – 1624), tên tự là **Vu Điền**, người huyện Trường Viên, phủ Đại Danh, hành tỉnh Bắc Trực Lệ , là quan viên, tướng lãnh trung kỳ đời
**Lý An** (chữ Hán, 李安) là một võ tướng thời nhà Minh, tước An Bình bá. Lý An từng tham gia viễn chinh Đại Việt, sau khi bị quân Lam Sơn đánh bại, được tha
**Trần Thái** (chữ Hán: 陈泰, ? – 1470), tên tự là **Cát Hanh**, người Quang Trạch, Phúc Kiến, quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Chánh Thống Thái từ nhỏ ở
**Công tước** thời nhà Minh thường được phong cho công thần khai quốc như Từ Đạt,Thường Ngộ Xuân,Lý Thiện Trường,Quách Dũ Sau này đây thường là tước truy phong cho công thần.Công thần được phong
**Chu Hoàn** (chữ Hán: 朱纨, 1494 – 1549), tự **Tử Thuần**, hiệu **Thu Nhai**, người huyện Trường Châu, phủ Tô Châu , quan viên nhà Minh, danh thần kháng Oa trong lịch sử Trung Quốc.
**Ứng Thiên phủ** (phồn thể: **應天府**; giản thể: **应天府**), là một phủ được thành lập thời nhà Minh. Ban đầu nơi này là kinh sư của nhà Minh, về sau được trở thành thủ đô
**Mã Vân** (chữ Hán: 马云, ? – 1387 ), người Hợp Phì, An Huy, tướng lãnh đầu đời Minh. Ông cùng Diệp Vượng là tướng lãnh trấn thủ Liêu Đông thuộc thế hệ đầu tiên,
**Vương Vũ** (chữ Hán: 王宇, ? – 1463), tự **Trọng Hoành**, người Tường Phù, Hà Nam , quan viên nhà Minh. ## Tiểu sử Từ khi còn bé, Vũ hằng ngày chép hơn vạn câu,
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
Các quốc gia hợp tác với [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|Cơ quan Tình báo Trung ương trong Chương trình Dẫn độ và Giam cầm Đặc biệt, theo bản báo cáo về tra
**Trần Đức** (chữ Hán: 陈德, ? – 1378), tự **Chí Thiện**, người phủ Hào Châu, hành tỉnh Giang Chiết , tướng lãnh đầu đời Minh. ## Tham gia bình nam Đức sinh ra trong một
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**_Hoàng Minh Tổ huấn_** là một bộ di chiếu gồm những lời khuyên răn của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế khai quốc của nhà Minh, dành cho con cháu của ông. Bộ
**Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh** là đơn vị sự nghiệp báo chí trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đài truyền hình đầu tiên ở Việt
**Minh Vũ Tông** (chữ Hán: 明武宗; 26 tháng 10, 1491 - 20 tháng 4, 1521) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1505 đến
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Minh Tuyên Tông** (chữ Hán: 明宣宗, 25 tháng 2, 1398 – 31 tháng 1, 1435), là vị Hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Án văn tự đầu đời Minh** hay **Ngục văn tự đời Minh** là tên chung dùng để chỉ những vụ án do chữ nghĩa mà ra, ngay sau khi nhà Minh được thành lập ở
nhỏ|trương Thông thời nhà Minh ở Trung Quốc **Trương Thông** (chữ Hán: 张璁; 1475 – 1539), tự **Bỉnh Dụng**, người huyện Vĩnh Gia, phủ Ôn Châu, Thừa Tuyên Bố chánh sứ tư Chiết Giang ,
Hơn 25 năm thành lập, chuỗi Hệ thống Nha khoa Đại Nam không ngừng lớn mạnh, đến thời điểm hiện tại đã có hơn 30 chi nhánh trải dài các thành phố lớn trên cả
**Vương Dương Minh** (phồn thể: 王陽明, giản thể: 王阳明, bính âm: Wang Yangming, 1472-1528), tên thật là **Thủ Nhân** (守仁), tự là **Bá An** (伯安) là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
**Liên minh châu Âu** hay **Liên hiệp châu Âu** (tiếng Anh: _European Union_; viết tắt **EU**), còn được gọi là **Liên Âu** (tiền thân là Cộng đồng Kinh tế châu Âu), là một thực thể
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024 của Donald Trump** là chiến dịch tranh cử tổng thống cho cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2024 đang diễn ra của cựu tổng thống thứ
**Phạm Tử Nghi** (范子儀, 1509 -1551) là một võ tướng dưới triều đại nhà Mạc. Phạm Tử Nghi là con ông Phạm Hành (mất sớm) và bà Nguyễn Thị Bèo, (bà người huyện Nghi Dương,
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nhà Hồ** (chữ Nôm: 茹胡, chữ Hán: 胡朝, Hán Việt: _Hồ triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi
**Phạm Tuyên** (sinh ngày 12 tháng 1 năm 1930) là một nhạc sĩ nổi tiếng người Việt Nam, cựu Chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội, tác giả của bài hát "Như có Bác trong
**Thể chế chính trị nhà Triều Tiên** được vận hành theo chế độ quan liêu tập quyền, dựa trên lý tưởng Nho giáo Tính Lý Học (성리학) làm nền tảng. Về lý thuyết, vua Triều
**Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam** là cơ quan của Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí; xuất bản, in, phát hành; phát thanh và
**Chiến tranh Minh-Việt** diễn ra từ năm 1407 đến khoảng những năm 1413-1414 là cuộc chiến tranh giữa dân tộc Đại Việt dưới sự lãnh đạo của các vị vua nhà Hậu Trần cùng tông
**Phạm Thư** (chữ Hán: 范雎, ?-255 TCN), hay **Phạm Tuy** (范睢), tự là **Thúc** (叔), là thừa tướng nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lúc sinh thời ông được phong đất
**Phạm Tu** (chữ Hán: 范脩, 476-545) là võ tướng, công thần khai quốc nhà Tiền Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công giúp Lý Nam Đế đánh đuổi quân xâm lược