✨Phạm Tử Nghi

Phạm Tử Nghi

Phạm Tử Nghi (范子儀, 1509 -1551) là một võ tướng dưới triều đại nhà Mạc.

Phạm Tử Nghi là con ông Phạm Hành (mất sớm) và bà Nguyễn Thị Bèo, (bà người huyện Nghi Dương, nay là Kiến Thụy); tên húy là Thành, người giáp Tứ Dương, xã An Dương, tổng An Dương. Sang thời Mạc tách ra thành Niệm Xá (tức hương Niệm), tổng An Dương, đến cuối thời Lê trung hưng đủ cơ số dân thành xã Vĩnh Niệm, tổng An Dương, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Vào thời nhà Nguyễn thì phát triển thành 4 giáp, sau là 4 xã (làng): Niệm Nghĩa, Nghĩa Xá, Đôn Nghĩa và giáp chính Vĩnh Niệm – nay là phường Niệm Nghĩa, Nghĩa Xá và Vĩnh Niệm thuộc quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Ông sinh ra tại giáp Nghĩa Xá, an táng tại giáp Đôn Nghĩa.

Thiên lôi

Phạm Tử Nghi là người có sức khoẻ phi thường, được dân làng gọi là Thiên lôi.

Phạm Tử Nghi từng đắp con đê dài khoảng 3 dặm, lại đặt 2 ụ đất cao 5 thước ở hai đầu trên mặt đê; sau đó ông cầm gậy chạy đến chỗ ụ đất hét đánh một cái thì quét sạch đất. Đến thời Nguyễn, đê vẫn còn, hằng năm dân sở tại bồi đắp đê để ngăn nước mặn. Theo Đại Nam nhất thống chí, con đường gần chỗ Phạm Tử Nghi đắp đê xưa kia, ở địa phận xã An Dương và Niệm Xá, gọi là đường Thiên Lôi mang biệt hiệu của ông. Đường Thiên Lôi hiện nay kéo dài từ ngã ba Trần Nguyên Hãn - đến tận Cầu Rào với chiều dài hơn 4 km.

Phò Mạc Chính Trung

Phạm Tử Nghi lớn lên giữa lúc nhà Hậu Lê đổ nát vì chính trường và loạn lạc. Năm 1527, Mạc Đăng Dung giành ngôi nhà Hậu Lê. Đầu thời Mạc ông đỗ khoa thi võ quan và nhờ vào tài năng xuất chúng, Phạm Tử Nghi được nhà Mạc thu dụng, là võ tướng có tài, sau làm phò mã vua Mạc Đăng Doanh, được ban tước Tứ Dương hầu và dần dần được cất nhắc làm tới chức Thái uý.

Năm 1533, Nguyễn Kim tái lập nhà Hậu Lê, tạo thành thế đối lập Nam – Bắc với nhà Mạc.

Tháng 6 năm 1546, Mạc Hiến Tông mất, con ruột là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi. Hoàng thân Mạc Kính Điển (em Hiến Tông) cùng thái sư Nguyễn Kính muốn tôn lập Mạc Phúc Nguyên nhưng Phạm Tử Nghi phản đối. Ông cho rằng: :Hiện nay trong nước đang lúc nhiều nạn, nên lập vua lớn tuổi. Hoằng vương Chính Trung đã nhiều phen cầm quân và thường thắng trận, vậy xin dựng lên ngôi. (Theo Gia phả nhà Mạc được khắc trên bia đá tại Cổ Trai thì bố Mạc Chính Trung mới là con của Mạc Đăng Dung)

Phe Mạc Kính Điển và Nguyễn Kính không chấp thuận ý đó của ông, bởi thế trong triều nảy sinh mâu thuẫn. Phạm Tử Nghi bèn cùng Mạc Văn Minh (cháu Mạc Đăng Dung) đưa Mạc Chính Trung về Hoa Dương, huyện Ngự Thiên, đạo Hải Dương, nay thuộc huyện Hưng Hà (nay là Thái Bình) sinh sống. Sau thời gian ngắn Mạc Chính Trung không thể cạnh tranh với ngôi vương được, phải chuyển ra đạo An Bang (Quảng Ninh ngày nay) sinh sống.

Đánh phá Trung Quốc

Vì bất đồng với triều đình, Mạc Chính Trung và Mạc Văn Minh cùng gia thuộc chạy sang đất Khâm châu quy phục nhà Minh, còn Tử Nghi thu thập quân ra châu Vạn Ninh và Vân Đồn. Chính Trung muốn nương nhờ Trung Quốc nhưng Tử Nghi phản đối chủ trương dựa vào Trung Quốc, ông bèn nảy ý định đánh phá Lưỡng Quảng và đòi lại Chính Trung.

Trước tình thế Chính Trung đã ở trong tay người Minh, ông bèn phao tin rằng Mạc Phúc Nguyên đã chết và muốn đón Chính Trung về nối ngôi. Sau đó Phạm Tử Nghi mang quân đánh phá Khâm châu và Liêm châu.

Minh sử ghi nhận: "Mạn Lĩnh Hải náo động". Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: "Tử Nghi trốn vào đất Minh, thả quân đi bắt người cướp của ở Quảng Đông, Quảng Tây, người Minh không thể kìm chế được"

Kết cục

Sử sách chép về cái chết của ông khá sơ lược. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, việc Phạm Tử Nghi đánh phá Trung Quốc khiến nhà Minh sai người sang trách nhà Mạc.

Theo danh sỹ Phan Kế Bính thời nhà Nguyễn thì: "Tử Nghi ở trấn vài năm, dẹp tan đám giặc cỏ, có tiếng lừng lẫy cả Bắc triều. Sau này nhân dẹp giặc, phá lây đến các tỉnh ven Tàu. Tàu đưa hịch sang trách đến triều đình nước Nam. Tử Nghi đến dinh quan Tổng đốc Quảng Đông, xin chịu tội để cho yên tâm vua nước mình. Người Tàu đem Tử Nghi ra hành tội, rồi bỏ đầu lâu và thây vào một cái hòm, che một cái lọng, thả xuống sông cho trôi về nước Nam"

Sử sách chép không thống nhất về thời gian chết của Phạm Tử Nghi. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, ông bị hại vào năm 1551; theo Đại Việt thông sử thì ông mất năm 1549.

Theo Ngọc phả Nam Hải đại vương thì ông mất ngày 14 tháng 9 âm lịch niên hiệu Diên Thành đời Mạc Mậu Hợp (1578-1585). Dân làng quê hương ông vẫn lấy ngày 14 tháng 9 âm lịch là ngày giỗ Phạm Tử Nghi.

Theo Minh thực lục, đầu tháng 11 năm 1551, quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Âu Dương Tất Tiến (Ou-yang Bi-jin - (歐陽必進) theo lệnh đã tặng thưởng cho người của Mạc Phúc Nguyên vì giúp bắt giữ Phạm Tử Nghi. Sử nhà Minh cũng cho biết Mạc Phúc Nguyên giết và mang đầu Tử Nghi mang sang cho nhà Minh.

Tưởng nhớ

Dù là tướng phục vụ nhà Mạc, vương triều đối nghịch với nhà Lê thắng trận sau này và bị coi là nguỵ triều, Phạm Tử Nghi vẫn được các triều đại Lê, Nguyễn sắc phong.

Phạm Tử Nghi được một số xã (làng) tại thành phố Hải Phòng thờ là thành hoàng gồm: Vĩnh Niệm, Đôn Nghĩa, Nghĩa Xá, Niệm Nghĩa (quận Lê Chân), An Dương,…

Ngoài ra ông còn được thờ tại đền Kiến Ốc, xã Khánh Trung, đền Hải Đức trên bờ đê sông Đáy thuộc xã Khánh Thiện, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Khi đang làm tướng quân, Phạm Tử Nghi thường cho quân sỹ giúp nhân dân khai sông, đắp đê nên sau khi nghe tin ông mất, dân làng Kiến Ốc lập đền thờ trên khu đất ông đóng quân khi xưa, tôn ông làm Phúc thần bản cảnh, duệ hiệu... Tương truyền, ông thường hiển linh giúp nhân dân nơi đây chống đỡ thiên tai lũ lụt. Tại Đền Kiến Ốc còn lưu giữ câu đối ca ngợi ông:

Tứ Dương truyền ngọc tích thiên thu từ miếu túc thanh cao

Lưỡng Quảng phân kim qua bách chiến sơn hà dư tráng liệt.

Tạm dịch là:

Tứ Dương truyền dấu ngọc nghìn năm, đền miếu cung kính thanh cao

Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) động giáo vàng trăm trận non sông còn vang tráng liệt.

Hay tại miếu Phạm Tử Nghi tại cống Lưu Khê, xã Liên Hòa, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Hay tại miếu Vu Linh (làng Yên Đông, phường Yên Hải), phối thờ tại đình Quỳnh Biểu (phường Liên Hòa), đình làng Hải Yến (phường Phong Hải), đình làng Động Linh (xã Minh Thành). Tại miếu Vu Linh hiện còn các đôi câu đối ca ngợi Phạm Tử Nghi như: Thánh đức linh thiêng, Đông Hải núi sông thiên cổ miếu/ Thần thông chính trực/ xã tắc vững bền bốn mùa hương hay Đức lớn yên dân thiên cổ thịnh/ Công cao hộ quốc vạn niên thường.

Thời Lê trung hưng, thần Phạm Tử Nghi được phong tặng 43 mỹ tự: Linh ứng, Dực vận, Tế nghiệp, Hậu đức, Khuông quốc, Dương uy, Cương nghị, Hùng lược, Quốc an, Dân hùng, Vĩ lược, Phong công, Kình thiên, Pháp tổ, Chính trực, Thông tích, Minh đạt, Cương trực, Uy dũng, Long thịnh, Linh thông, Dũng quả, Thần đoán, Khoan hòa, Anh danh, Phù ứng đại vương, Thượng đẳng phúc thần.

Còn thời Nguyễn, ông được sắc phong với các mỹ tự: Quảng đại, Hoàng Thâm, Chiêu Linh, Hoành Mô, Khuông Hựu, Quang Ý, Dực Bảo Trung Hưng tôn thần

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Tử Nghi** (范子儀, 1509 -1551) là một võ tướng dưới triều đại nhà Mạc. Phạm Tử Nghi là con ông Phạm Hành (mất sớm) và bà Nguyễn Thị Bèo, (bà người huyện Nghi Dương,
**Phạm Hữu Nghi** (; 1797 – 1862) tự **Trọng Vũ** (), hiệu **Đạm Trai** (), là một quan viên dưới triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng làm quan qua 3 triều
**Phạm Quang Nghị** (sinh ngày 2 tháng 9 năm 1949) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII nhiệm kì 2011-2016 thuộc đoàn đại biểu Hà
**Phạm Ngọc Nghị** (sinh năm 1965) là chính khách Việt Nam. Ông từng là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk khóa IX và khóa X nhiệm kỳ
**Vũ Phạm Từ** (30 tháng 5 năm 1926 – 2006) là một đạo diễn điện ảnh Việt Nam. Ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú và là 1
nhỏ|phải|Nội và ngoại thất đền thờ Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị **Phạm Văn Nghị** (chữ Hán: _范文誼_, 1805-1884) hiệu **Nghĩa Trai**; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Bất khả tư nghị** hay **không thể nghĩ bàn** (zh. _bùkěsīyì_, 不可思議, sa. _acintya_, pi. _acinteyya_, ja. _fukashigi_), nghĩa là "_không thể nào suy nghĩ bàn luận ra được_", vượt ngoài lý luận; câu này
**Quách Tử Nghi** (chữ Hán: 郭子儀; 5 tháng 9, 697 – 9 tháng 7, 781), là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà
Các dòng họ Phạm – Việt Nam không có một ông tổ duy nhất. Do vậy, theo dòng họ Phạm Việt Nam đề nghị suy tôn Đô Hồ Đại vương Phạm Tu là một Thượng
Ngày 26 tháng 08 năm 2018, tại Hội trường Đông Hồ, số 197 đường Cao Thắng, P 12, Quận 10, Tp Hồ Chí Minh, nhân dịp Hội Đồng Họ Phạm Tp. HCM tổ chức Lễ
- Thời gian: 08h00 Sáng ngày 3/9/2023 (19/7AL) - Địa điểm: tại nhà Thờ Tộc Phạm Cẩm Sa, Điện Nam Bắc- Đại diện chính quyền địa phương, HĐGT các họ trên địa bàn QNĐN như
**Phạm Tử Dương** (1929–2009) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Phó Viện trưởng kiêm Chủ nhiệm khoa A1 Bệnh viện
**Mạc Phúc Tư** (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là **Phúc Triệu**, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân
**Nghị định 168/2024/NĐ–CP** (gọi tắt: **Nghị định 168**) là một nghị định do Chính phủ Việt Nam ban hành về việc "Quy định xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao
Nguyên Trưởng Ban Ban liên lạc họ Phạm toàn quốc Việt Nam TS. Phạm Khắc Di đã có 2 câu thơ khái quát tôn chỉ mục đích hoạt động của Họ Phạm chúng ta,
**Mã Hy Phạm** () (899, và chưa hoàn toàn kiểm soát được Vũ An- sau trở thành trấn trung tâm của nước Sở, song đang dần củng cố quyền lực. Mã Hy Phạm và thứ
**Tự sát** (Hán tự: 自殺, có nghĩa là "tự giết", tiếng Anh: _suicide._ Bắt nguồn từ Tiếng Latinh: _Suicidium, từ_ chữ _sui caedere_ nghĩa là "giết chính mình") hay **tự tử**, **quyên sinh**, **trẫm mình**,
**Phạm Trấn** (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự **Cảnh Nhân**, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị,
**Chủ nghĩa tự do cá nhân** hay **chủ nghĩa tự do ý chí** (tiếng Anh: _libertarianism_, từ tiếng Latinh: _liber_, tự do) là học thuyết triết học chính trị ủng hộ tự do như là
**Phạm Thị Tuyết** (chữ Hán: 范氏雪; ? – 1812), còn có húy là **Hà**, phong hiệu **Nhị giai Gia phi** (二階嘉妃), là một cung tần của vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
nhỏ|Dùi nghị sự là tượng trưng của nghị sự học. **Trình tự nghị sự** là quy tắc kì họp cơ bản được sắp đặt cố định trên tinh thần dân chủ, bình đẳng, tự do
nhỏ|Tín đồ cũng có thể được xức tro trên đầu như trong 1 tranh vẽ của Ba Lan năm 1881 **Thứ tư Lễ Tro** (tiếng Anh: **Ash Wednesday**) là một ngày lễ của Cơ đốc
Tu chính án 1 (Tu chính án I) Hiến pháp Hoa Kỳ cấm việc đưa ra bất kỳ luật nào không tôn trọng việc thiết lập tôn giáo, đảm bảo rằng không có lệnh cấm
**Phạm Văn Phú ** (1928 – 1975) nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân
**Phạm Liệu** (范燎, 1873-1937), tự là **Sư Giám**, hiệu là **Tang Phố** (桑圃), là một danh sĩ Việt Nam. Ông được xem là người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải
**Phạm Văn Dần** là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng (nay là Tổng cục Chính trị, Bộ Công an
**Đại học Sư phạm Quốc gia Moskva** (tiếng Nga: _Московский Педагогический Государственный Университет_ (МПГУ), tiếng Anh: _Moscow State Pedagogical University_ (MSPU)), thành lập năm 1872, là một cơ sở giáo dục và khoa học lớn
**Phạm Huy Thông** (1916–1988) là nhà thơ, nhà giáo, và nhà khoa học xã hội Việt Nam. ## Tiểu sử **Phạm Huy Thông** sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội trong một
**Lưu Nghị** (, ? – 412), tự **Hi Nhạc**, tên lúc nhỏ là **Bàn Long**, người huyện Bái, nước (quận) Bái , tướng lĩnh Bắc phủ binh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
**Khu ủy Khu tự trị Nội Mông Cổ** là khu ủy của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Khu tự trị Nội Mông Cổ. Bí thư Khu ủy là chức vụ cấp cao nhất trong
**Từ Hán Việt** là những từ và ngữ tố tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán và những từ tiếng Việt được người nói tiếng Việt tạo ra bằng cách ghép các từ và/hoặc ngữ
Trong ngôn ngữ học và ngữ pháp, một **đại từ** hay **đại danh từ** (tiếng Latin: **_pronomen_**) là một dạng thế thay thế cho một danh từ (hoặc danh ngữ) có hoặc không có từ
**Từ Hoảng** (chữ Hán: 徐晃; bính âm: _Xu Huang_; (169-228), tự **Công Minh** (公明), là danh tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trong đời binh nghiệp, Từ Hoảng thể
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
nhỏ|phải|Chân dung Vũ Phạm Khải **Vũ Phạm Khải** (chữ Hán: 武范啟, 1807 – 1872), là một vị quan tiến bộ của triều đình nhà Nguyễn, một trong những vị quan tích cực nhất trong phái
**Louis (hay Aloisio hoặc Luy) Phạm Văn Nẫm** (1919–2001) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục phụ tá của Tổng giáo phận Thành phố Hồ
**Phạm Băng Băng** (tiếng Trung: 范冰冰, tiếng Anh: _Fan Bingbing_; sinh ngày 16 tháng 9 năm 1981) là một nữ diễn viên người Trung Quốc. Là chủ nhân của một số giải thưởng lớn, cô
nhỏ|Sư phạm phê phán **Sư phạm phê phán** là một phương pháp giảng dạy nhằm giúp người học đặt câu hỏi đối với và thách thức lại sự thống trị, và những niềm tin và
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,
**Phạm Kỳ Nam** (27 tháng 6 năm 1928 – 3 tháng 3 năm 1984) là đạo diễn phim truyện và phim tài liệu được xem là một trong những cánh chim đầu đàn của nền
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi** (14 tháng 5 năm 190921 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn
Dự luật **Đình chỉ hoạt động vi phạm bản quyền trực tuyến** (tiếng Anh: _Stop Online Piracy Act_, viết tắt tiếng Anh là **SOPA**), còn được gọi là _HR 3261_, là một dự luật được
Dòng họ Phạm làng Ngù từ khi cụ Phạm Văn Bích dời quê cũ ở Tổng Yên Riệt đến lập nghiệp, từ hai bàn tay trắng gây dựng nên dòng họ đã phát triển hơn
Sáng ngày 15/02/2025, tại Nhà khách Bộ Quốc phòng, số 266 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội, Hội đồng Họ Phạm Việt Nam (HĐHPVN) đã tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
** Khiêm Vương** **Mạc Kính Điển** (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự **Kinh Phủ**, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong