✨Mạc Phúc Tư

Mạc Phúc Tư

Mạc Phúc Tư (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là Phúc Triệu, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân vương khác như Khiêm vương Mạc Kính Điển và Ứng vương Mạc Đôn Nhượng, Ninh vương Mạc Phúc Tư giữ vai trò là những phụ chính đại thần có uy tín và đức độ trong triều Mạc, giúp nhà Mạc đứng vững trong hơn 50 năm, trải qua những biến động lớn trong triều đình và sự lớn mạnh không ngừng của nhà Lê Trung Hưng ở phía Nam.

Thân thế

Mạc Phúc Tư là con thứ của Thái Tông Mạc Đăng Doanh, cháu nội của Thái tổ Mạc Đăng Dung, sinh năm Giáp Thân (1524). Ông quê gốc ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương xưa (nay thuộc xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng), là đất phát tích của nhà Mạc. Còn đất khởi tổ của dòng họ Mạc ở xã Cao Đôi, huyện Bình Hà, tỉnh Hải Dương xưa, nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.

Sự nghiệp

Tuổi niên thiếu của Mạc Phúc Tư ở vào thời kỳ hưng thịnh của triều Mạc nên được hưởng sự giáo huấn đầy đủ. Ông thông minh, hiếu học, tính khoan hòa, đức độ, được sĩ thứ (trong đó có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm) mến mộ. Năm Canh Tý (1540) Thái Tông Mạc Đăng Doanh qua đời, con cả là Thái tử Mạc Phúc Hải lên làm vua, tức là Mạc Hiến Tông. Sau khi lên ngôi, Hiến tông Mạc Phúc Hải đã phong cho em mình là Mạc Phúc Tư tước Ninh vương. Ông còn tham gia vào công việc triều chính với vai trò của một quan chức đầu triều là Thái tể.

Năm 1545, ông làm tướng chỉ huy quân năm phủ đô đốc và các trấn đánh vào bản doanh của Lê Trang Tông Duy Ninh ở hạt Yên Mô (nay thuộc tỉnh Ninh Bình). Khi quân đến sông Phù Chẩn, đội quân tiên phong do chủ quan khinh địch, nên bị phục quân của Lê Trang Tông và cánh quân do Trịnh Kiểm chỉ huy vây đánh. Trận này quân nhà Mạc bị thất thế phải rút về.

Năm Bính Ngọ (1546), Hiến tông Mạc Phúc Hải qua đời, tôn thất và triều thần tôn Thái tử Mạc Phúc Nguyên còn ít tuổi lên ngôi. Lúc ấy, Tứ Dương Hầu Phạm Tử Nghi vì muốn lập Hoằng vương Mạc Chính Trung (con trai thứ của Mạc Thái Tổ) làm vua nên dấy binh gây biến loạn triều chính rồi rút quân về chiếm cứ vùng Yên Quảng. Mạc Phúc Tư nhận thấy người em kế mình là Mạc Kính Điển có tài thao lược liền xin nhường chức Phụ chính đại thần cho Mạc Kính Điển rồi xin đi trấn thủ vùng Hải Đông.

Trong những năm trấn thủ ở vùng biên ải trọng yếu này, ông ra sức vỗ về dân chúng và tướng sĩ. Ngoài ra, ông còn đốc thúc việc đắp đê, đào sông, khơi ngòi, khai khẩn đất hoang, trồng cây gây rừng, khuyến khích nghề đánh cá, nghề làm muối, mở chợ Chanh ở Yên Quảng, chợ Thưa, chợ Đá, Bia và phố Khách Long Mã ở Thủy Đường (Thủy Nguyên) để dân an lạc nghiệp. Những công trình do ông chỉ đạo với tên gọi dân gian như đê nhà Mạc, bãi nhà Mạc hay rừng nhà Mạc ngày nay vẫn còn dấu tích và được coi như những chứng tích về công lao của nhà Mạc đối với nhân dân vùng Đông Bắc (Hải Đông) đất nước. Suốt mấy chục năm chiến tranh Lê-Mạc, quân Lê-Trịnh nhiều lần đem quân cướp phá Thăng Long và một số vùng khác, riêng xứ Hải Đông do Mạc Phúc Tư cai quản đời sống nhân dân vẫn giữ được ổn định.

Năm 1561, Tuyên tông Mạc Phúc Nguyên qua đời, Thái tử Mạc Mậu Hợp nhỏ tuổi lên nối ngôi. Các hoàng thân như Mạc Kính Điển,Mạc Đôn Nhượng cùng phụ chính. Mạc Phúc Tư vẫn lo liệu công việc trấn giữ miền đất phên dậu của nhà Mạc.

Năm Canh Thìn (1580), Mạc Kính Điển bị bệnh qua đời, em út của Phúc Tư là Mạc Đôn Nhượng làm phụ chính, giữ chức Trung doanh tổng sứ nhưng một mình Mạc Đôn Nhượng không đủ sức gánh vác việc lớn quốc gia. Thế lực nhà Lê-Trịnh ngày một mạnh mà triều thần nhà Mạc lúc ấy chia rẽ, vua ít tuổi lại ham chơi, chính sự ngày càng hỗn loạn.

Năm Nhâm Thìn (1592) vua nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp (Mạc Hồng Ninh) bị quân Lê-Trịnh bắt và xử tử khi đang chạy loạn. Lúc đó, thân vương Mạc Phúc Tư vẫn kiên trì trấn thủ vùng Hải Đông. Đầu năm Quý Tỵ (1593), sau khi đánh chiếm được Thăng Long, Dương Kinh và nhiều vùng đất khác của nhà Mạc, quân Lê-Trịnh chia đường tiến đánh Hải Đông. Mạc Phúc Tư cùng hai thân vương khác sau nhiều ngày đêm chống trả quyết liệt với quân đội Lê-Trịnh cuối cùng cũng bị vỡ trận và buộc phải tuẫn tiết. Con cả của Mạc Phúc Tư là Mạc Thuần Trực cùng tôn thất Mạc Huệ Khánh cố thủ trong thành Dền được 5 tháng, sau hết lương thực phải mở đường máu rút chạy, Mạc Thuần Trực cũng tử trận. Mạc Huệ Khánh cùng con cháu thoát được về vùng Giáp Sơn, dấu họ đổi tên lập ra làng Mai Sơn, nay thuộc chùa Trại Sơn, xã An Sơn, huyện Thủy Nguyên.

Phần mộ

Phần mộ của Ninh vương và hai thân vương khác tại cánh đồng làng Thiểm Khê được dân làng gọi là Mả Ba Vua - Nghè Đồng dưới, vì lúc đầu an táng ba người tại đây và ở khu đồng dưới của làng, dân lập nghè thờ ba vị. Sau phu nhân của Ninh Vương là Đoàn Thị Từ Linh chuyển hài cốt của vương và của con trai cả là Mạc Thuần Trực ở thành Dền về an táng tại phường Câu Tử, huyện Thủy Đường (sau này đổi tên thành Thủy Nguyên). Năm 1993, phần mộ của Ninh vương Mạc Phúc Tư đã được con cháu chi họ Mạc ở Câu Tử trùng tu lại.

Gia quyến

Ninh vương Mạc Phúc Tư được coi là thủy tổ của chi họ Mạc ở Câu Tử Nội, xã Hợp Thành, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Gia phả họ Mạc ở Câu Tử có ghi chép về một người phu nhân của ông là Đoàn Thị Từ Linh, là người xã Hợp Thành, Thủy Nguyên, Hải Phòng. Bà có với ông ba người con trai là Mạc Thuần Trực, Mạc Đạo Trai và Mạc Tảo An. Con trưởng Mạc Thuần Trực được phong tước, mất năm 1593 khi chống cự với quân nhà Lê-Trịnh. Mạc Đạo Trai là võ tướng, năm 1573 theo Khiêm vương Mạc Kính Điển hành quân vào Thanh Hóa, bị bắt ở lũy Phúc Bồi, Thái úy Trịnh Tùng mến tài, gả con gái là Quận chúa Trịnh Thị Nhân (có sách ghi là Trịnh Thị Nhâm) cho. Mười năm sống ở Thanh Hóa, đến khi nhà Lê-Trịnh muốn dùng ông chống lại nhà Mạc, Mạc Đạo Trai đã tự sát. Bà Trịnh Thị Nhân vợ ông cảm thương tình cảnh đã xin với cha mình là Bình An Vương Trịnh Tùng nhận Mạc Hữu Đạo, con của Mạc Thuần Trực về nuôi dạy thành tài. Lớn lên Mạc Hữu Đạo thi đỗ làm quan và được phong tước Thượng Xá Hầu dưới triều Lê-Trịnh (Lê Trung Hưng).

Bạn vong niên với Nguyễn Bỉnh Khiêm

Ninh vương Mạc Phúc Tư ít hơn Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm 33 tuổi. Trong Bạch Vân Am thi tập, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có hai bài thơ với tiêu đề là Lưu đề Ninh Quốc côngBộ Ninh Quốc công thi vận. Nội dung hai bài thơ thể hiện mối quan hệ gần gũi giữa Trạng Trình và Mạc Phúc Tư, đồng thời cũng cho thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh giá cao tài năng và đức độ của người bạn vong niên.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mạc Phúc Tư** (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là **Phúc Triệu**, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
**Thành cổ cao bằng ** hay thường gọi là **thành nhà Mạc**, là một di tích lịch sử văn hóa nằm ở huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Lịch sử Thành Phục
**Dương Phúc Tư** (chữ Hán: 楊福滋, 1505–1564), người làng Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Văn Lâm, Hưng Yên). Đỗ trạng nguyên khoa Đinh Mùi, niên hiệu
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Mạc Cảnh Huống** (莫景貺, 1542-1677) là người xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, em của Khiêm vương Mạc Kính Điển và đồng thời là chú của Quận chúa Mạc Thị Giai (người sau này
**Mạc Hiến Tông** (chữ Hán: 莫憲宗 1517 – 1546) là vị hoàng đế thứ ba của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1540 đến 1546 và chỉ dùng một niên
**Mạc Đôn Nhượng** (1540-1593) là hoàng tử và là tướng nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc chiến tranh Lê-Mạc cho tới khi kết thúc thời Nam Bắc triều. ## Thân
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Mạc Tuyên Tông** (chữ Hán: 莫宣宗 1540 - 1561) tên thật là **Mạc Phúc Nguyên** (莫福源), là hoàng đế thứ tư nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1546 đến 1561,
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
**Mạc Tử Dung** (鄚子溶, ?-1780), là võ tướng trải hai triều chúa Nguyễn: Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Mạc Tử Dung là
**Phạm Tử Nghi** (范子儀, 1509 -1551) là một võ tướng dưới triều đại nhà Mạc. Phạm Tử Nghi là con ông Phạm Hành (mất sớm) và bà Nguyễn Thị Bèo, (bà người huyện Nghi Dương,
**Mạc** là một họ của người, có ở các quốc gia Á Đông như Trung Quốc, Việt Nam,... Riêng ở Việt Nam, có cả một triều đại phong kiến do những ông vua mang họ
**Mạc Cửu** (鄚玖), hay **Mạc Kính Cửu** (鄚敬玖): 1655 – 1735); là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang) vào khoảng đầu thế kỷ XVII
nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara tại Algérie]] nhỏ|Sa mạc [[Sa mạc Gobi|Gobi, chụp từ vệ tinh]] [[Ốc đảo tại Texas, Hoa Kỳ]] Một cảnh [[sa mạc Sahara]] **Hoang mạc** là vùng có lượng mưa rất
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Mạc ở Việt Nam với nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới
**Mạc Tử Sanh** (鄚子泩, 1769- 1788), là nhà cai trị trấn Hà Tiên - Mueang Phutthai Mat; một vùng lãnh thổ nay thuộc cực Nam Việt Nam và một phần Campuchia. ## Thân thế &
**Mạc Tử Hoàng** (鄚子潢, ? – 1780) là Hiệp trấn của Hà Tiên - Mueang Phutthai Mat; một vùng lãnh thổ nay thuộc cực Nam Việt Nam và một phần Campuchia. Ông là con trai
** Khiêm Vương** **Mạc Kính Điển** (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự **Kinh Phủ**, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong
**Mạc Chính Trung** (chữ Hán: 莫正中; ?-?) là hoàng tử nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia tranh chấp ngôi báu nhà Mạc giữa thời Nam-Bắc triều và cuối cùng thất bại.
**Mạc Tử Thảng** (hay **Mạc Tử Thăng**, chữ Hán: 鄚子淌; ? – 1780), là thuộc tướng của chúa Nguyễn. Mạc Tử Thảng là con trai thứ hai của Mạc Thiên Tứ – nhà cai trị
**Mạc Kính Quang** (莫敬光) hay **Mạc Kính Tiêu** (莫敬蕭) hoặc **Mạc Kính Hoảng** (莫敬晃), là vị vua cuối cùng của Nhà Mạc thời hậu kỳ. Nguyên quán Mạc Kính Quang là người xã Cao Đôi,
Đặc Trị Viêm Lộ Tuyến Cổ Tử CungVIÊN ĐẶT PHỤ KHOA XMViêm lộ tuyến cổ tử cung là một trong những căn bệnh của phụ nữ, ở Việt Nam khoảng 60% phụ nữ đã có
**Mạc Thái Tông** (chữ Hán: 莫太宗 ? – 25 tháng 1 năm 1540 / 3 tháng 3 năm 1540) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông ở
nhỏ|Trang phục của nam và nữ thuộc các giai cấp khác nhau. Ảnh trên tường mộ của tư tế Nakht (thời vua [[Thutmosis IV|Thutmose IV)]] **Trang phục Ai Cập cổ đại** chỉ đến những trang
** Đoan Mộc Tứ ** (; 520–459 TCN),, người Hoa Hạ, họ Đoan Mộc, sống vào thời kỳ cuối Xuân Thu , người nước Vệ (huyện Tuấn, Hạc Bích, tỉnh Hà Nam), tự ** Tử
**Dương Văn An** (chữ Hán: 楊文安) (1514 – 1591), biểu tự là **Tĩnh Phủ** (靜甫); là quan nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, và là tác giả của quyển sách địa lý-lịch sử nổi
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Tôn Tư Khắc** (chữ Hán: 孫思克, 1628 – 1700), tên tự là **Tẫn Thần** (藎臣), hiệu là **Phục Trai** (復齋), thuộc Hán quân Chính Bạch kỳ, nguyên quán Quảng Ninh, Liêu Ninh , con trai
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
Vào ngày 20 tháng 3 năm 2024, truyền thông nhà nước Việt Nam đưa tin về việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định cho phép Võ Văn Thưởng, người giữ chức Ủy viên
**Phức hợp kim tự tháp Unas** là một khu phức hợp nằm ở nghĩa trang Saqqara, nằm ở phía nam kim tự tháp của Djoser. Đây là nơi yên nghỉ của pharaon Unas, vị vua
**Mạc Kính Cung** (chữ Hán: 莫敬恭 ? - 1625) là vua nhà Mạc thời hậu kỳ, khi Bắc triều chấm dứt với cái chết của cha con Mạc Mậu Hợp và Mạc Toàn. ## Khôi
**Hiếu Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文皇后; 1578 - 1630), hay **Huy Cung Từ Thận Thuận phi** (徽恭慈慎順妃), nguyên là Chính thất của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Lan. Theo
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Mạc Kính Vũ** (chữ Hán: 莫敬宇) là vua nhà Mạc thứ 10 và là vua Mạc thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Vũ là người xã Cao Đôi,
**Mạc Ngọc Liễn** (chữ Hán: 莫玉璉, 1528-1594) là một quan chức triều Mạc, người xã Dị Nậu, huyện Thạch Thất, Hà Nội, Việt Nam. ## Tiểu sử Mạc Ngọc Liễn nguyên có tên là Nguyễn
**Chiến dịch Sa mạc Tây** hay **Chiến tranh Sa mạc** diễn ra tại Sa mạc Tây thuộc Ai Cập và Libya là giai đoạn đầu của Mặt trận Bắc Phi thuộc Chiến tranh thế giới
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Mạc Kính Khoan** (chữ Hán: 莫敬寬 ? - 1638) là vua nhà Mạc thứ 3 thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Khoan là người xã Cao Đôi, huyện
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Mạc Đình Phúc** hay **Mạc Đĩnh Phúc**, tên thật là **Nguyễn Khắc Tình** (hoặc **Tĩnh**) (1849-1897), là thủ lĩnh nghĩa quân kháng Pháp tại một số tỉnh thuộc miền Bắc Việt Nam vào cuối thế
Chân đèn trang trí họa tiết rồng thời Mạc **Nghệ thuật Đại Việt thời Mạc** phản ánh các thành tựu về nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời nhà Mạc từ năm 1527 đến
**Mạc phủ Tokugawa** (Tiếng Nhật: 徳川幕府, _Tokugawa bakufu_; Hán Việt: _Đức Xuyên Mạc phủ_), hay còn gọi là **Mạc phủ Edo** (江戸幕府, _Giang Hộ Mạc phủ_), là chính quyền Mạc phủ ở Nhật Bản do
[[Hồ Tchad trong một bức ảnh vệ tinh năm 2001, với vùng nước màu xanh lam. Từ thập kỷ 1960, hồ đã co lại, giảm 95% diện tích.]] **Sa mạc hóa** hay **hoang mạc hóa**
**Mạc Kính Chỉ** (chữ Hán: 莫敬止 ? - 1593) là vị vua đầu tiên nhà Mạc thời hậu kỳ, sau khi quân Nam triều chiếm được thành Thăng Long với cái chết của cha con