✨Mạc Kính Điển

Mạc Kính Điển

Khiêm Vương Mạc Kính Điển (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự Kinh Phủ, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong tước Khiêm vương.

Tiểu sử

Mạc Kính Điển là người hương Cao Đôi, huyện Bình Hà, Dương Kinh (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông là con thứ ba của Mạc Đăng Doanh (tức vua Mạc Thái Tông).

Mạc Kính Điển thuở nhỏ ốm yếu, dù vua Mạc cho đổi nhiều nhũ mẫu nhưng không kết quả. Gặp lúc vợ đại thần Phạm Quỳnh mới sinh, bèn gọi đến làm nhũ mẫu cho Kính Điển. Từ lúc có nhũ mẫu mới, Kính Điển mạnh khỏe khác hẳn trước. Bởi thế sau này Kính Điển rất sủng ái cha con Phạm Quỳnh và Phạm Dao.

Phụ chính lần thứ nhất

Dẹp loạn Phạm Tử Nghi

Năm 1546, Mạc Hiến Tông mất, con là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông. Khiêm vương Mạc Kính Điển là người được Hiến Tông chọn làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn: Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi muốn lập người em của Mạc Thái Tông là Hoằng vương Mạc Chính Trung (con thứ hai của Mạc Thái Tổ) đã trưởng thành nhưng Mạc Kính Điển không thuận, quyết phò Phúc Nguyên là dòng đích lên ngôi. Tử Nghi bèn cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn.

Ban đầu Phạm Tử Nghi thắng thế, Mạc Kính Điển cùng Tây quận công Nguyễn Kính đi đánh Tử Nghi bị bại trận. Tuy nhiên sau đó Tử Nghi nhiều lần tiến đánh Đông Kinh nhưng đều bị Kính Điển kiên cường chống trả nên Tử Nghi không thể chiếm được thành, hao binh tổn tướng, phải đem Mạc Chính Trung chạy ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng Ninh) và thường kéo về cướp phá Hải Dương. Sau Tử Nghi quay sang đánh phá sang Quảng Đông, Quảng Tây, nhà Minh không kiềm chế nổi, sai người sang trách nhà Mạc.

Sau Tử Nghi lại đem Chính Trung quay về Yên Quảng định đánh Đông Kinh. Năm 1551, Mạc Kính Điển mang quân đi dẹp Phạm Tử Nghi, sai kẻ dưới quyền lừa bắt được Tử Nghi đem chém. Mạc Chính Trung bỏ chạy sang Trung Quốc và bị giết. Có thuyết nói Tử Nghi chết về tay người Minh.

Chuyển nguy thành an

Năm 1550, trong khi chưa dẹp xong Mạc Chính Trung thì trong triều lại xảy ra biến loạn khác. Thái tể Lê Bá Ly quyền thế quá lớn, có phần hống hách. Phạm Quỳnh, Phạm Dao xin Mạc Tuyên Tông vây bắt. Vua Mạc nghe theo. Bá Ly cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm các tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận chạy vào Thanh Hóa hàng theo nhà Lê.

Nhà Mạc bị tổn thất nặng về nhân sự, nhân tâm dao động, lãnh đạo phe Lê là Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm thừa cơ hợp binh với tướng cát cứ ở Tuyên Quang là Vũ Văn Mật tiến đánh. Theo Đại Việt thông sử, lúc đó độc có Mạc Kính Điển tận tụy trung thành phò tá vua Mạc, mang xa giá rời kinh thành sang sông, chạy đến Kim Thành (Hải Dương). Mạc Kính Điển ở lại đốc suất quân sĩ chống cự. Trịnh Kiểm thấy thực lực nhà Mạc còn mạnh, nhân tâm chưa hẳn hướng về nhà Lê, bèn lui quân về.

Tình thế yên ổn trở lại, Kính Điển chủ động mang quân đánh địch trước. Liên tiếp mấy năm mang quân vào Thanh Hóa, dù không thắng lợi nhưng đẩy quân Lê vào thế bị động, kiềm chế sức tấn công của đối phương. Có lần bị tướng Lê là Vũ Lăng hầu Phạm Đức Kỳ đánh thua nặng, Kính Điển phải nhảy xuống sông trốn thoát một mình, ẩn náu trong hang núi 3 ngày, ôm được cây chuối theo dòng nước sông mà thoát về.

Sau khi được con Nguyễn Thiến là Nguyễn Quyện quay về theo nhà Mạc, tình thế quân Mạc phấn chấn hơn, đánh lui được các đợt tấn công của quân Lê.

Phụ chính lần thứ hai

Năm 1561, Mạc Tuyên Tông mất, con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên nối ngôi. Mạc Kính Điển cử người em út là Mạc Đôn Nhượng làm nội phụ chính để lo đỡ việc bên trong để ông tập trung lo việc quân cơ bên ngoài. Quyền quyết định chính sự thực chất đều do Khiêm vương Kính Điển điều hành.

Năm 1570, Thượng tướng Thái quốc công Trịnh Kiểm chết, hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh ngôi. Mạc Kính Điển thừa cơ mang đại quân vào đánh Thanh Hoá. Trịnh Cối bị kẹp giữa hai bên địch quân phải hàng Mạc. Kính Điển thúc quân đánh nhiều tháng nhưng cuối cùng không thắng được quân Trịnh Tùng. Nhờ Trịnh Tùng là người thay thế xứng đáng của Trịnh Kiểm nên nhà Lê vẫn duy trì được thế cân bằng với nhà Mạc.

Nhà Lê tuy đứng vững nhưng chỉ chủ yếu trên địa bàn Thanh Hóa. Mạc Kính Điển nhiều lần đánh Thanh Hóa không thắng nhưng khi đốc suất thủy quân vào đánh Nghệ An, nhờ sức tướng Nguyễn Quyện và Hoàng Quận công Mạc Đăng Lượng, lần nào cũng thắng. Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: "Dân Nghệ An sợ thế giặc (Mạc) đã lâu, quan quân (nhà Lê) xa cách không thể cứu ứng được, phần nhiều hàng họ Mạc". Từ sông Lam vào Nam lại theo nhà Mạc. Sau đó phía nam nhà Mạc bị mất nốt Thuận Hoá, Quảng Nam vì xa cách nên không thể cứu ứng, tướng Mạc Lập Bạo gặp phải địch thủ lớn là Nguyễn Hoàng bị thua trận chết. Mặc dù Nguyễn Quyện và Hoàng quận công Mạc Đăng Lượng đánh thắng quân Lê nhiều lần ở Nghệ An nhưng vì địa thế cách trở, xa Đông Kinh ở Bắc Bộ không tiếp ứng được nên cuối cùng quân chủ lực của Mạc lại phải rút đi, quân Mạc lại yếu thế trước quân Trịnh. Lê Trịnh được yên phía nam nhờ sức của Nguyễn Hoàng. Nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Hà.

Những năm sau đó Mạc Kính Điển tiếp tục vào đánh Thanh Hóa vài lần nhưng vẫn không đánh bại được quân Lê-Trịnh.

Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất, Mạc Đôn Nhượng lên thay làm phụ chính. Nhà Mạc không có ai thay thế xứng đáng vai trò của ông nên chỉ hơn 10 năm sau thì bị Lê-Trịnh đánh bại (1592).

Nhận định

Tài năng, đức độ của Mạc Kính Điển chẳng những khiến người trong triều Mạc tôn kính mà ngay phía đối phương cũng phải nể sợ. Cho dù nhà Mạc là kẻ thù không đội trời chung với nhà Lê trung hưng, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư do các sử gia nhà Lê soạn phải thừa nhận: "Kính Điển là người nhân hậu, dũng lược, thông minh, tài trí, nhạy bén, hiểu đời, từng trải nhiều gian nan nguy hiểm, cần lao, trung thành"; sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn cũng ghi nhận: "Ông tiếp đãi quan liêu có lễ độ, đối với quân sĩ có ân nghĩa, từng trải qua biết bao sự gian hiểm, mà vẫn cần lao trung thành, thời bấy giờ tựa vào ông làm trọng. khi ông chết, lòng người trong nước đều dao động!""Kính Điển là người nhân hậu, linh mẫn, dũng cảm có thừa".

Mặc dù trong những lần mang quân vào đánh Thanh Hoá, Mạc Kính Điển thường không thắng được quân nhà Lê nhưng tài chèo lái của ông với nhà Mạc trước nhiều cơn nguy biến và những cuộc chống trả thành công của ông trước những cuộc tấn công ra bắc của họ Trịnh khiến nhà Mạc vẫn đứng vững.

Sau khi Thái tổ Mạc Đăng Dung mất, ông là trụ cột lớn nhất; và sau khi ông mất không có người thay thế xứng đáng cho nhà Mạc. Cái chết của Mạc Kính Điển là tổn thất không thể bù đắp với nhà Mạc. Bởi vậy không lâu sau sự ra đi của ông, nhà Mạc mất theo.

Ông mất đi nhưng ảnh hưởng của ông đối với người trong nước vẫn còn, người ta nhớ đến ông mà không nhớ Mạc Mậu Hợp. Bởi thế sau khi mất Thăng Long, các gia thuộc khác của họ Mạc nhanh chóng bị dẹp tan, trong khi đó các con ông là Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung còn chiếm cứ nhiều nơi ở Bắc Bộ trong vài chục năm và các cháu, chắt là Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ tiếp tục duy trì cục diện cát cứ ở Cao Bằng thêm gần 1 thế kỷ nữa.

Hậu duệ

Theo Đại Việt thông sử, Mạc Kính Điển có chín người con trai và 9 người con gái

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
** Khiêm Vương** **Mạc Kính Điển** (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự **Kinh Phủ**, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong
**Mạc Kính Khoan** (chữ Hán: 莫敬寬 ? - 1638) là vua nhà Mạc thứ 3 thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Khoan là người xã Cao Đôi, huyện
**Mạc Kính Cung** (chữ Hán: 莫敬恭 ? - 1625) là vua nhà Mạc thời hậu kỳ, khi Bắc triều chấm dứt với cái chết của cha con Mạc Mậu Hợp và Mạc Toàn. ## Khôi
**Mạc Kính Chỉ** (chữ Hán: 莫敬止 ? - 1593) là vị vua đầu tiên nhà Mạc thời hậu kỳ, sau khi quân Nam triều chiếm được thành Thăng Long với cái chết của cha con
**Mạc Kính Quang** (莫敬光) hay **Mạc Kính Tiêu** (莫敬蕭) hoặc **Mạc Kính Hoảng** (莫敬晃), là vị vua cuối cùng của Nhà Mạc thời hậu kỳ. Nguyên quán Mạc Kính Quang là người xã Cao Đôi,
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
**Mạc Ngọc Liễn** (chữ Hán: 莫玉璉, 1528-1594) là một quan chức triều Mạc, người xã Dị Nậu, huyện Thạch Thất, Hà Nội, Việt Nam. ## Tiểu sử Mạc Ngọc Liễn nguyên có tên là Nguyễn
**Mạc Tuyên Tông** (chữ Hán: 莫宣宗 1540 - 1561) tên thật là **Mạc Phúc Nguyên** (莫福源), là hoàng đế thứ tư nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1546 đến 1561,
**Nguyễn Kính** (chữ Hán: 阮敬; 1508 - 1572) tên thường gọi là Nguyễn Thanh Phúc, là một công thần khai quốc nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Kính, cũng còn
**Mạc Phúc Tư** (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là **Phúc Triệu**, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân
**Mạc Chính Trung** (chữ Hán: 莫正中; ?-?) là hoàng tử nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia tranh chấp ngôi báu nhà Mạc giữa thời Nam-Bắc triều và cuối cùng thất bại.
**Mạc Cảnh Huống** (莫景貺, 1542-1677) là người xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, em của Khiêm vương Mạc Kính Điển và đồng thời là chú của Quận chúa Mạc Thị Giai (người sau này
**Hiếu Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文皇后; 1578 - 1630), hay **Huy Cung Từ Thận Thuận phi** (徽恭慈慎順妃), nguyên là Chính thất của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Lan. Theo
**Mạc Đôn Nhượng** (1540-1593) là hoàng tử và là tướng nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc chiến tranh Lê-Mạc cho tới khi kết thúc thời Nam Bắc triều. ## Thân
Phần lãnh thổ nhà Mạc và [[nhà Lê trung hưng quản lý vào năm 1590]] **Ngoại giao Việt Nam thời Mạc** phản ánh những hoạt động ngoại giao dưới triều đại nhà Mạc ở Đại
**Mạc** là một họ của người, có ở các quốc gia Á Đông như Trung Quốc, Việt Nam,... Riêng ở Việt Nam, có cả một triều đại phong kiến do những ông vua mang họ
**Mạc Toàn** (chữ Hán: 莫全 1580 – 1593) là vị vua thứ sáu và là vua cuối cùng của nhà Mạc thời kỳ Nam - Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế
nhỏ|Bản phục dựng [[Bức tranh Kitô giáo trong hang Mạc Cao|bức tranh Chúa Kitô trong hang Mạc Cao. Tác phẩm ban đầu có niên đại từ thế kỷ 9.]] **Kinh điển Cảnh giáo** (, còn
**Mạc Đăng Lượng** (1496-1604) là một võ quan được phong tước Quốc công dưới triều Hậu Lê. Triều Mạc từng được phong chức Phó quốc vương dưới thời nhà Mạc và được Mạc Thái Tổ
**Mạc Hiến Tông** (chữ Hán: 莫憲宗 1517 – 1546) là vị hoàng đế thứ ba của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1540 đến 1546 và chỉ dùng một niên
nhỏ|360x360px|Giá trị điện thế màng _v (t)_ đơn vị milivôn (mV) theo mô hình Hodgkin–Huxley, biểu đồ biểu diễn sự chuyển đổi từ trạng thái tĩnh (điện thế nghỉ) sang trạng thái động (điện thế
**Kinh tế Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế trong thời Nam Bắc triều (1527-1592) trên lãnh thổ nước Đại Việt đương thời. Thời
phải|nhỏ|634x634px| Sơ đồ thể hiện tiến trình của chu kỳ kinh nguyệt và các hormone có tác động đến tiến trình này. **Chu kỳ kinh nguyệt** là sự biến đổi tự nhiên thường xuyên xảy
**Nông nghiệp Đại Việt thời Mạc** phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp nước Đại Việt dưới quyền cai quản của nhà Mạc trong khoảng thời gian từ 1527 đến 1592.
**Sân vận động Quốc gia Bắc Kinh**, tên chính thức là **Sân vận động Quốc gia** Sân vận động được thiết kế để sử dụng trong suốt Thế vận hội Mùa hè 2008 và Thế
**Mạc Cửu** (鄚玖), hay **Mạc Kính Cửu** (鄚敬玖): 1655 – 1735); là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang) vào khoảng đầu thế kỷ XVII
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
**Thành nhà Mạc** ở tỉnh Lạng Sơn là một di tích lịch sử văn hóa ở phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Đây là một trong số khá ít
**Lễ khai mạc Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021** được diễn ra vào tối thứ năm ngày 12 tháng 5 năm 2022 tại Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình ở thủ đô
**Thành cổ cao bằng ** hay thường gọi là **thành nhà Mạc**, là một di tích lịch sử văn hóa nằm ở huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Lịch sử Thành Phục
**Điền kinh** tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á năm 1977 diễn ra từ ngày 19 đến 26 tháng 11 năm 1977 tại Kuala Lumpur, Malaysia. Phần thi điền kinh được tổ chức tại
nhỏ|Tiến trình của Đoạn chính 2 **Đoạn chính 2** của Tàu điện ngầm München là một trong ba đoạn chính trong mạng lưới tàu điện ngầm của thủ phủ München, bang Bayern. Nó chạy từ
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Bắc Kinh** (Tiếng Trung Quốc: **北京市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Běijīng shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Bắc Kinh thị Nhân dân Chính phủ
**Trận Nam Kinh** diễn ra vào đầu tháng 12 năm 1937, là một phần của cuộc chiến tranh Trung – Nhật. Quốc dân Cách mệnh quân và Lục quân Đế quốc Nhật Bản giao chiến
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
**Điện ảnh Thái Lan** khởi nguồn từ nền điện ảnh những ngày đầu, khi chuyến viếng thăm đến Bern, Thụy Sĩ của vua Chulalongkorn vào năm 1897 được François-Henri Lavancy-Clarke ghi hình lại. Bộ phim
nhỏ|263x263px|Một hiện vật kinh Diệu Pháp Liên Hoa bằng tiếng Phạn ([[Thế kỷ 5|thế kỉ V) được lưu giữ ở bảo tàng Lăng mộ Triệu Văn Đế]] **Kinh Diệu Pháp Liên Hoa** (sa. Saddharma Puṇḍarīka
Bản Kinh Thánh viết tay [[tiếng La Tinh, được trưng bày ở Tu viện Malmesbury, Wiltshire, Anh. Quyển Kinh Thánh này được viết tại Bỉ vào năm 1407 CN, dùng để xướng đọc trong tu
**_Tam quốc diễn nghĩa_** () là một bộ phim truyền hình sử thi cổ trang của Trung Quốc được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên (một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc)
**Dây thần kinh** là một bó sợi **thần kinh** được bao bọc giống như dây cáp gọi là sợi trục, trong hệ thần kinh ngoại biên. Một dây thần kinh cung cấp một con đường
**Dương Dương** (, tiếng Latinh: Yang Yang, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1991) là một nam diễn viên Trung Quốc. Anh được khán giả biết đến với vai diễn Tào Thực trong phim truyền
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Nguyễn Quyện** (chữ Hán: 阮倦; 1511-1593) là danh tướng trụ cột của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam, tước Văn Phái hầu sau được phong làm Thường quận công, Chưởng
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
**Lê Bá Ly** (黎伯驪, 1476-1557) là tướng nhà Lê sơ và nhà Mạc và nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc chiến tranh Lê-Mạc lần lượt phục vụ cho
**Liên hoan phim quốc tế Bắc Kinh** (Tiếng Trung: 北京国际电影节) là một liên hoan phim diễn ra ở Bắc Kinh, Trung Quốc, thành lập năm 2011, liên hoan phim này được hỗ trợ và tài
phải|Chu kỳ kinh nguyệt **Kinh nguyệt** là tập hợp các thay đổi sinh lý lặp đi lặp lại ở cơ thể phụ nữ dưới sự điều khiển của hệ hormone sinh dục và cần thiết