✨Mạc Kính Cung

Mạc Kính Cung

Mạc Kính Cung (chữ Hán: 莫敬恭 ? - 1625) là vua nhà Mạc thời hậu kỳ, khi Bắc triều chấm dứt với cái chết của cha con Mạc Mậu Hợp và Mạc Toàn.

Khôi phục nhà Mạc

Mạc Kính Cung là con trai thứ 7 của Mạc Kính Điển (trong tổng số 18 người con: 9 trai, 9 gái). Nguyên quán Mạc Kính Cung là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Khi cha con Mạc Mậu Hợp thất thế, trong lúc con cả của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Chỉ thu thập tàn quân chiếm cứ vùng Thanh Lâm và xưng vua ở Nam Giản thuộc Chí Linh, Hải Dương, lấy niên hiệu Bảo Định thứ nhất (1592) thì Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn chạy về phía bắc tìm dòng dõi nhà Mạc (Mạc Ngọc Liễn vốn không phải người họ Mạc mà được ban họ của vua), tìm thấy Mạc Kính Cung ở Văn Châu. Vào tháng 3 năm 1593, Ngọc Liễn lập Mạc Kính Cung làm vua, lấy niên hiệu là Càn Thống thứ nhất.

Lúc này lòng người còn hướng về nhà Mạc, được tin Mạc Kính Cung lên ngôi, đều dẫn nhau đến qui phục. Những người nhà Mạc cũng tìm đến và đi vận động các nơi. Thanh thế nhà Mạc được phục hồi nhanh chóng, có khoảng hơn 30 nhóm, nhóm nhỏ khoảng 700-800 người, nhóm lớn vài ngàn người. Lực lượng nhà Mạc lại chiếm được nhiều vùng suốt từ phương Bắc tới sông Nhị Hà, toàn bộ trấn Kinh Bắc và Hải Dương, quân nhà Mạc về tới đâu khắp nơi đều quy phục dựng cờ vương triều Mạc hưởng ứng.

Nhớ lời dặn của Mạc Ngọc Liễn

Để tranh thủ nhân tâm, tháng 4 năm 1593 Lê Thế Tông phải ban chiếu đại xá thiên hạ để tranh lấy lòng người, đồng thời sai Nguyễn Hoàng tổng đốc bản doanh xuất quân đánh lực lượng nhà Mạc còn lại ở vùng Sơn Nam, Hải Dương. Quân Mạc bị thua, Mạc Kính Cung cùng một số tông thất bỏ chạy.

Đầu năm 1594, Hoàng Đình Ái được Trịnh Tùng sai đi đánh Mạc Kính Cung ở vùng Đại Từ, Phổ Yên, Thái Nguyên cũng chưa dẹp hết được quân Mạc.

Tháng 5 năm 1594 Mạc Kính Cung phong Mạc Ngọc Liễn làm Thái phó và sai đem quân chiếm lại vùng Yên Tử, nhưng tháng 7 năm ấy Mạc Ngọc Liễn ốm chết. Thấy nhà Lê ra sức tìm diệt, trước khi mất Ngọc Liễn viết sớ tâu lên Mạc Kính Cung: :“… Nhà Mạc khí vận đã hết, nhà Lê phục hưng đó là số trời vậy, nên hãy tạm lánh, chịu khuất đợi thời, khi nào mệnh trời trở lại mới làm được. Chớ nên lấy lực chọi lực, khi hai hổ tranh nhau tất sẽ có một bị thương, lại chớ nên mời Minh vào nước ta để dân phải lầm than, đó là cái tội không gì lớn hơn…”

Rồi Ngọc Liễn mất vào tháng 7 năm 1594.

Năm 1598, Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái và Trịnh Đỗ đi đánh Kính Cung. Đình Ái sai bộ tướng là cha con Trần Phúc, Trần Thiết ra đánh trước. Tướng Trần Thiết được lệnh phục ở biên giới. Làm theo lời Mạc Ngọc Liễn, khi thấy triều Lê mạnh, Kính Cung giấu binh ở các vùng, hết sức tránh đụng độ. Ông sai Phúc vương mang gia quyến chạy trước sang Long châu tránh. Trần Thiết ra chặn đường Phúc vương, nghe nhắc đến vua Càn Thống sắp đến không dám đánh nữa mà lui về bản địa. Mạc Kính Cung nhổ trại rút theo sau, tướng Trần Phúc truy kích. Vua Càn Thống mang vài ngàn quân chạy thoát, sắp đến biên giới lại gặp Trần Thiết, đánh lui Trần Thiết và thoát sang Long châu.

Cầm cự với quân Lê-Trịnh

Tháng 5 năm Canh Tý (1600) ba viên Quận công Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình Nga chạy về hàng nhà Mạc, Nguyễn Hoàng giả thác là đuổi bắt 3 viên Quận công phóng hỏa đốt sạch doanh trại rồi xuống thuyền kéo quân vào Quảng Nam. Kinh thành rối loạn, triều chính nhà Lê chia lìa, lòng người dao động. Trịnh Tùng phải mang Lê Kính Tông rời bỏ kinh đô chạy vào Thanh Hoa.

Cùng lúc, mẹ của Mạc Mậu Hợp tự xưng Quốc mẫu, cùng tông thất nhà Mạc trở về Thăng Long và sai người đón Mạc Kính Cung. Tướng Ngô Đình Nga mang quân lại hàng. Lực lượng của Mạc Kính Cung lại mạnh lên, có vài vạn người.

Tháng 8 năm 1600, Bình An vương Trịnh Tùng lại xuất quân đánh Mạc Kính Cung. Mạc Kính Cung sai quân chặn ở Gián Khẩu. Tướng Lê là Nguyễn Khải đánh tan quân Mạc, xuôi dòng sông Hát tiến xuống. Nhiều quân Mạc bị chết đuối. Mẹ Mạc Mậu Hợp bị bắt và bị giết. Mạc Kính Cung chạy ra Kim Thành. Quân Lê Trịnh chiếm lại được Thăng Long. Đến tháng 9, Ngô Đình Nga cũng bị bắt và bị giết.

Năm 1601, Trịnh Tùng lại ra quân đánh Mạc. Tướng tiên phong bên Lê-Trịnh là Chấn quận công tử trận, phía Mạc cũng bị mất 2 tướng. Hoàng Đình Ái đánh Kim Thành, Mạc Kính Cung bỏ thành chạy lên Lạng Sơn, quân Lê Trịnh phá hủy doanh trại quân Mạc.

Ít lâu sau, Mạc Kính Cung lại ra chiếm đóng Thái Nguyên và Tây Nông. Năm 1609, Trịnh Tùng lại sai Trịnh Đỗ đi đánh Mạc. Kính Cung rút chạy vào núi, quân Lê Trịnh không truy kích được phải rút về. Sau đó Kính Cung lại tiến về Cao Bằng và Kim Thành.

Tháng 11 năm 1621, Trịnh Tùng lại điều quân đánh Mạc. Kính Cung lại bỏ Kim Thành về Cao Bằng, xưng hiệu là Càn Thống. Cùng lúc, cháu gọi Kính Cung bằng chú là Kính Khoan cũng xưng hiệu Long Thái, không theo Kính Cung. Khi quân Lê Trịnh đánh đến Cao Bằng, cả Kính Cung và Kính Khoan đều bỏ chạy. Quân Lê Trịnh rút đi, Kính Cung lại trở về Cao Bằng.

Trọng dụng hiền tài

Thời kỳ Mạc Kính Cung chấp chính tuy nhà Mạc chỉ còn vẻn vẹn mảnh đất Cao Bằng nhỏ bé nhưng cũng làm được không ít việc mang lại lợi ích cho quốc gia như mở trường dạy học, mở khoa thi, thu dụng nhân tài, khuyến khích phát triển nông trang, thương mại, sửa sang và xây dựng nhiều thành trì, đồn lũy tạo được những nền tảng vững chắc để chống quân Lê - Trịnh lâu dài. Năm Giáp Ngọ (1594), nhà Mạc mở khoa thi, có người con gái Hải Dương là Nguyễn Thị Duệ theo cha lên Cao Bằng từ lúc Thăng Long thất thủ đã giả nam trang với cái tên Nguyễn Du tham dự và đỗ đầu trong khi thầy dạy học của bà chỉ đỗ Á khoa. Lúc vào cung dự yến tiệc, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ tuổi, dáng mảnh mai, mặt mày thanh tú sinh lòng ngờ vực. Nhà vua liền xét hỏi và phát hiện bà giả trai, bởi nhà vua quý mến hiền tài, không trách tội nhưng theo phép tắc, bà không thể tiếp tục mang danh trạng nguyên. Tiếc nuối cho tài năng của người con gái trẻ, vua cho phép bà ở lại triều, phụ trách việc dạy học cho các phi tần. Một thời gian sau, Mạc Kính Cung lập bà làm phi, ban hiệu Tinh phi, ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao. Vì thế, dân gian còn gọi bà là bà chúa Sao.

Vị vua mắc chứng trầm cảm

Mạc Kính Cung giữ đất Cao Bằng, cố gắng khôi phục gây dựng lại vị thế của vương triều, sử cũ cũng phải thừa nhận địa bàn hoạt động của Càn Thống đế “ở quãng Thái Nguyên, Yên Quảng và Lạng Sơn hơn 30 năm, hễ quan quân tiến đánh thì chạy, trốn, khi quân rút về, lại hô hào nhau tụ hợp như cũ” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Điều đó cho thấy ông hùng cứ cả một vùng rộng lớn, với phương sách khéo léo, uyển chuyển, tránh đối đầu trực tiếp nhưng không từ bỏ quyết tâm của mình. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hàn vi, ly tán, tâm trạng nặng nề khổ đau khi phải rời xa Thăng Long kinh kỳ, vì lo lắng trước các cuộc tấn công của quân nhà Lê – Trịnh, thắng ít thua nhiều nên tâm trạng có lúc bi quan, chán nản, lâu ngày dẫn đến bệnh trầm uất, thái y chữa mãi không khỏi.

Để an ủi, chữa trị cho vua, một vị quan trong triều đã nghĩ ra cách dùng âm nhạc, ca múa. Vị quan đó là người dân tộc thiểu số tên là Bế Văn Phùng, quê bản Vạn, xã Bế Triều, châu Thạch Lâm (nay thuộc Cao Bằng) đỗ tiến sĩ khoa thi năm Mậu Tuất (1598), khoa thi thứ hai của nhà Mạc thời cát cứ. Bế Văn Phùng được nhà Mạc tuyển dụng và tiến cử Trạng nguyên, phong làm Tư thiên quản nhạc của triều đình. Để làm khuây khỏa vua quan nhà Mạc, giải nỗi ưu phiền đang bao trùm lên triều đình, Bế Văn Phụng đã dày công viết nên tác phẩm Tam Nguyên luận nổi tiếng với 800 trang và lập ra đội Then tính nữ đến hát, múa. Đội Then tính nữ còn gọi là đội Then bụt (chỉ nghệ nhân nữ hát). Sau những buổi biểu diễn, đội Then bụt đều được vua, quan tâm đắc, ngợi khen. Dần dà Mạc Kính Cung khỏi bệnh, vương triều như cởi được gông xích tinh thần, làm thanh thoát tâm tưởng, con người trở nên mạnh mẽ, phóng khoáng. Then tính đã trở thành điểm tựa tinh thần của nhà Mạc, là "món ăn" tinh thần không thể thiếu của nhân dân Cao Bằng. Then tính vào cung đình nhà Mạc đã góp phần tạo nên sự giao thoa mạnh mẽ giữa hai luồng văn hoá kinh đô đồng bằng và miền núi Cao Bằng, đó chính là nguồn gốc của nghệ thuật Hát then sau này.

Thất bại

Năm 1622, Bình An vương Trịnh Tùng phái cánh quân sang đất Long Châu của nhà Minh rồi đánh tập hậu Kính Cung ở Lạng Sơn, chiếm lại Đồng Đăng và Lạng Sơn.

Năm 1623, Trịnh Tùng chết, con là Trịnh Tráng lên thay. Mùa thu năm đó, Lê Thần Tông đưa Trịnh Tráng lên chức Tiết chế, phải dụ quân thần hãy dốc lòng với nhà Lê. Lê Thần Tông về Thanh Hoa, kinh thành lúc này bỏ trống. Mạc Kính Khoan đốc xuất binh mã tiến về Gia Lâm đóng đồn ở Thổ Khố, Châu Cầu. Nhân dân và các quần thần văn võ của triều Lê ở vùng này lại về với Mạc Kính Khoan, những người có lòng với triều Mạc cũng đi theo rất đông.

Về Thanh Hoa sau khi ổn định lại triều chính, Lê Thần Tông lại sai Trịnh Tráng xuất binh ra đánh nhà Mạc. Năm 1625, Trịnh Tráng đốc binh đánh nhà Mạc. Quân Lê Trịnh dùng kế hỏa công đánh thắng quân Mạc, cuối cùng bắt được Mạc Kính Cung tại Cao Bằng, đem về giết tại kinh đô, hôm ấy là ngày 16/6/1625.

Mạc Kính Cung xưng vua được ba mươi tư năm, suốt thời gian đó ông chiến đấu liên miên với hai đời chúa Trịnh: Trịnh Tùng, Trịnh Tráng. Các sử liệu chính thống của nhà Lê Trung hưng và nhà Nguyễn đều cho rằng Mạc Kính Cung không có miếu hiệu và thụy hiệu, tuy nhiên trong cuốn Việt Nam Mạc thị gia tộc dữ Trung Quốc quan hệ nghiên cứu của học giả Ngưu Quân Khải người Trung Quốc thì ông có miếu hiệu là Đại Tông còn thụy hiệu là Khởi Thiên Đĩnh Địa Khắc Văn Định Vũ Linh Hoàng Đế.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mạc Kính Cung** (chữ Hán: 莫敬恭 ? - 1625) là vua nhà Mạc thời hậu kỳ, khi Bắc triều chấm dứt với cái chết của cha con Mạc Mậu Hợp và Mạc Toàn. ## Khôi
**Mạc Kính Khoan** (chữ Hán: 莫敬寬 ? - 1638) là vua nhà Mạc thứ 3 thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Khoan là người xã Cao Đôi, huyện
** Khiêm Vương** **Mạc Kính Điển** (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự **Kinh Phủ**, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong
**Mạc Kính Vũ** (chữ Hán: 莫敬宇) là vua nhà Mạc thứ 10 và là vua Mạc thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Vũ là người xã Cao Đôi,
**Mạc Kính Chỉ** (chữ Hán: 莫敬止 ? - 1593) là vị vua đầu tiên nhà Mạc thời hậu kỳ, sau khi quân Nam triều chiếm được thành Thăng Long với cái chết của cha con
**Mạc Kính Hẻ** (莫敬喜), cũng có tên là **Mạc Kính Thụy** (莫敬瑞) hay **Mạc Nguyên Thanh** (莫元清), là vị vua (không chính thức) của nhà Mạc thời hậu kỳ trong lịch sử Việt Nam. Nguyên
**Mạc Kính Quang** (莫敬光) hay **Mạc Kính Tiêu** (莫敬蕭) hoặc **Mạc Kính Hoảng** (莫敬晃), là vị vua cuối cùng của Nhà Mạc thời hậu kỳ. Nguyên quán Mạc Kính Quang là người xã Cao Đôi,
**Lạc nội mạc tử cung** là một bệnh trong đó các mô bình thường phát triển bên trong tử cung lại phát triển bên ngoài tử cung. Các triệu chứng chính là đau vùng chậu
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
**Mạc Ngọc Liễn** (chữ Hán: 莫玉璉, 1528-1594) là một quan chức triều Mạc, người xã Dị Nậu, huyện Thạch Thất, Hà Nội, Việt Nam. ## Tiểu sử Mạc Ngọc Liễn nguyên có tên là Nguyễn
**Mạc Tuyên Tông** (chữ Hán: 莫宣宗 1540 - 1561) tên thật là **Mạc Phúc Nguyên** (莫福源), là hoàng đế thứ tư nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1546 đến 1561,
nhỏ|Ảnh vi mô phóng đại rất cao của viêm nội mạc tử cung. Vết bẩn H & E. Hình ảnh cho thấy nội mạc tử cung có nhiều tế bào plasma (chẩn đoán viêm nội
**Thủ công nghiệp Đại Việt thời Mạc** chủ yếu là những ngành nghề gốm sứ, đúc tiền, chạm khắc đá và nghề dệt. Các ngành thủ công nghiệp được triều đình chú trọng phát triển,
**Thành nhà Mạc** ở tỉnh Lạng Sơn là một di tích lịch sử văn hóa ở phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Đây là một trong số khá ít
**Thành cổ cao bằng ** hay thường gọi là **thành nhà Mạc**, là một di tích lịch sử văn hóa nằm ở huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Lịch sử Thành Phục
**Ung thư nội mạc tử cung** là một loại ung thư phát sinh từ nội mạc tử cung. Nó là kết quả của sự phát triển bất thường của các tế bào có khả năng
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Nguyễn Kính** (chữ Hán: 阮敬; 1508 - 1572) tên thường gọi là Nguyễn Thanh Phúc, là một công thần khai quốc nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Kính, cũng còn
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
phải|Chu kỳ kinh nguyệt **Kinh nguyệt** là tập hợp các thay đổi sinh lý lặp đi lặp lại ở cơ thể phụ nữ dưới sự điều khiển của hệ hormone sinh dục và cần thiết
phải|nhỏ|634x634px| Sơ đồ thể hiện tiến trình của chu kỳ kinh nguyệt và các hormone có tác động đến tiến trình này. **Chu kỳ kinh nguyệt** là sự biến đổi tự nhiên thường xuyên xảy
**Mạc Phúc Tư** (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là **Phúc Triệu**, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân
**Chiến dịch Sa mạc Tây** hay **Chiến tranh Sa mạc** diễn ra tại Sa mạc Tây thuộc Ai Cập và Libya là giai đoạn đầu của Mặt trận Bắc Phi thuộc Chiến tranh thế giới
**Mạc Cảnh Huống** (莫景貺, 1542-1677) là người xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, em của Khiêm vương Mạc Kính Điển và đồng thời là chú của Quận chúa Mạc Thị Giai (người sau này
**Mạc Chính Trung** (chữ Hán: 莫正中; ?-?) là hoàng tử nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia tranh chấp ngôi báu nhà Mạc giữa thời Nam-Bắc triều và cuối cùng thất bại.
**Hiếu Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文皇后; 1578 - 1630), hay **Huy Cung Từ Thận Thuận phi** (徽恭慈慎順妃), nguyên là Chính thất của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Lan. Theo
**Mạc Cửu** (鄚玖), hay **Mạc Kính Cửu** (鄚敬玖): 1655 – 1735); là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang) vào khoảng đầu thế kỷ XVII
Phần lãnh thổ nhà Mạc và [[nhà Lê trung hưng quản lý vào năm 1590]] **Ngoại giao Việt Nam thời Mạc** phản ánh những hoạt động ngoại giao dưới triều đại nhà Mạc ở Đại
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Mạc ở Việt Nam với nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới
**Mạc Toàn** (chữ Hán: 莫全 1580 – 1593) là vị vua thứ sáu và là vua cuối cùng của nhà Mạc thời kỳ Nam - Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế
**Mạc Đôn Nhượng** (1540-1593) là hoàng tử và là tướng nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc chiến tranh Lê-Mạc cho tới khi kết thúc thời Nam Bắc triều. ## Thân
**Nông nghiệp Đại Việt thời Mạc** phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp nước Đại Việt dưới quyền cai quản của nhà Mạc trong khoảng thời gian từ 1527 đến 1592.
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Mạc** là một họ của người, có ở các quốc gia Á Đông như Trung Quốc, Việt Nam,... Riêng ở Việt Nam, có cả một triều đại phong kiến do những ông vua mang họ
**Mạc Thúy** (chữ Hán: 莫邃; 1346-1412) là tướng nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Ông đã đem con em hợp tác với quân Minh chống lại nhà Hồ và các cuộc khởi nghĩa của
**Mạc Đăng Lượng** (1496-1604) là một võ quan được phong tước Quốc công dưới triều Hậu Lê. Triều Mạc từng được phong chức Phó quốc vương dưới thời nhà Mạc và được Mạc Thái Tổ
**Mạc Hiến Tông** (chữ Hán: 莫憲宗 1517 – 1546) là vị hoàng đế thứ ba của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1540 đến 1546 và chỉ dùng một niên
**Thần kinh bì cẳng tay trong** (tiếng Anh: **_Medial antebrachial cutaneous nerve_**; tiếng Pháp: **_Le nerf cutané médial de l'avant-bras_**) xuất phát từ bó trong của đám rối cánh tay. Thần kinh chứa các sợi
**Trận Nam Kinh** diễn ra vào đầu tháng 12 năm 1937, là một phần của cuộc chiến tranh Trung – Nhật. Quốc dân Cách mệnh quân và Lục quân Đế quốc Nhật Bản giao chiến
thumb|Một ngôi mộ tập thể trong thảm sát Nam Kinh Tổng số người thiệt mạng trong vụ **thảm sát Nam Kinh** là một vấn đề gây tranh cãi trong lịch sử Nhật Bản và Trung
nhỏ|263x263px|Một hiện vật kinh Diệu Pháp Liên Hoa bằng tiếng Phạn ([[Thế kỷ 5|thế kỉ V) được lưu giữ ở bảo tàng Lăng mộ Triệu Văn Đế]] **Kinh Diệu Pháp Liên Hoa** (sa. Saddharma Puṇḍarīka
**Kính mắt (mắt kiếng)** hay còn được biết đến là **kính đeo mắt** là một loại vật dụng gồm các thấu kính thủy tinh đặt trong khung làm bằng nhựa cứng để đeo trước mắt,
**Thần kinh phụ** (hay **thần kinh sọ XI**, tiếng Anh: _accessory nerve_, tiếng Pháp: _le nerf accessoire_) là thần kinh sọ thứ 11 trong tổng số 12 đôi dây thần kinh sọ. Thần kinh chi
**Hệ thống thần kinh giao cảm** () là một trong hai phần chính của Hệ thần kinh tự chủ, những bộ phận khác bao gồm hệ thần kinh đối giao cảm (parasympathetic nervous system (PSNS))
**Thần kinh quay** (tiếng Anh: **_radial nerve_**; tiếng Pháp: **_le nerf radial_**) là dây thần kinh ở người, chi phối phần sau chi trên. Thần kinh chi phối đầu trong và đầu ngoài của cơ
**Dây thần kinh** là một bó sợi **thần kinh** được bao bọc giống như dây cáp gọi là sợi trục, trong hệ thần kinh ngoại biên. Một dây thần kinh cung cấp một con đường
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới