✨Mạc Kính Khoan

Mạc Kính Khoan

Mạc Kính Khoan (chữ Hán: 莫敬寬 ? - 1638) là vua nhà Mạc thứ 3 thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Khoan là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương).

Thân thế

Mạc Kính Khoan là cháu nội của Mạc Kính Điển, gọi Mạc Kính Cung bằng chú. Sử không chép rõ cha của Kính Khoan là ai trong các con của Mạc Kính Điển.

Ly khai Mạc Kính Cung

Khi Mạc Kính Cung cầm quyền, Mạc Kính Khoan vốn là tướng dưới quyền Kính Cung. Thấy Kính Cung bị quân Lê Trịnh đánh thua nhiều lần, Kính Khoan bèn tự lập, không theo Kính Cung.

Mạc Kính Khoan trước đó trấn thủ Thái Nguyên, Cao Bằng thấy Mạc Kính Cung thế yếu bèn tự xưng là vua, lấy niên hiệu là Long Thái thứ nhất. Trong hoàn cảnh thiếu thốn, ông lập điện bằng tranh lá ở xã Vu Toàn.

Nhân cơ hội này Trịnh Tùng tiến đánh Mạc Kính Khoan ở Nhã Nam, Bắc Giang. Kính Khoan thất thủ chạy lên Cao Bằng. Con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân cùng Trịnh Đỗ đánh Kính Cung ở vùng Thái Nguyên, Kính Cung cũng lui về Cao Bằng. Tuy thắng nhưng Trịnh Tùng không dám tiến sâu vào Cao Bằng, quân Lê – Trịnh sợ ở lâu bị lam sơn chướng khí và bị phục binh của nhà Mạc nên lại lui về Kinh đô. Mạc Kính Cung liền xuất quân chiếm lại vùng Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang.

"Tẩu vi thượng sách"

Mạc Kính Khoan làm theo chủ trương mà Mạc Ngọc Liễn dặn lại, không đối đầu với quân Lê Trịnh hùng hậu mà chủ động tránh.

Năm 1618, con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân cầm quân 2 đường đến đánh. Kính Khoan mang toàn quân chạy. Quân Lê Trịnh không đánh được phải rút về. Kính Khoan lại trở về chỗ cũ.

Năm 1621 lại diễn ra tình huống tương tự. Trịnh Tráng mang quân tiến lên Cao Bằng, Kính Khoan lại mang quân trốn biệt. Quân Lê Trịnh không thể truy tìm được, phải rút về kinh. Kính Khoan lại ra.

Năm 1623, nhằm lúc chúa Trịnh Tùng sắp lâm chung, con thứ là Trịnh Xuân nổi loạn để tranh quyền kế vị. Vương thế tử Trịnh Tráng sai người lừa bắt và giết được Trịnh Xuân, nhưng đám loạn quân của ông ta vẫn đánh phá khắp Thăng Long. Trịnh Tráng mới phải đưa vua Lê về Thanh Hoa.

Nhận thấy đây là cơ hội tốt để giành lại kinh đô khôi phục nhà Mạc, nên vua Mạc Kính Khoan liền đem vài vạn quân từ Cao Bằng đánh xuống Trường Yên, Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc. Mạc Kính Khoan thừa cơ kéo về đánh chiếm Gia Lâm 1 tháng.

Ngày 28 tháng 8 cùng năm, vua Lê sắc phong Trịnh Tráng làm tả tướng thái phó Thanh quốc công, trao quyền thống lĩnh tất cả các quân thủy bộ. Trịnh Tráng liền dâng biểu xin rước ngự giá trở về Thăng Long. Dọc đường quân Trịnh tiến đánh, quân Mạc không chống lại nổi, Kính Khoan lại thu quân chạy lên Cao Bằng. Mạc thị công chúa (con Mạc Kính Khoan) vì đem quân ở lại chặn hậu mà hi sinh.

Năm 1624, tướng Trịnh Lệ mang quân đánh Kính Khoan, nhưng nội bộ các tướng Trịnh bất hoà nên lại phải rút về.

Tháng 6 năm 1625, quân Lê Trịnh bắt được Mạc Kính Cung. Kính Khoan lẩn trốn vào vùng dân tộc Dao ở trong núi, được người bản địa che chở nên quân Lê Trịnh không bắt được ông.

Tướng Trịnh đóng lâu ngày không bắt được ông, bị hết lương, phải rút quân về kinh. Mạc Kính Khoan thu thập toàn quân cố thủ tại Cao Bằng.

Quy thuận nhà Lê

Để bảo toàn lực lượng ít ỏi, Mạc Kính Khoan trá hàng nhà Lê.

Sau một thời gian cố thủ tại Cao Bằng, ông sai người dâng biểu về triều xin quy thuận. Lê Thần Tông cũng thấy không thể diệt ngay hết được nhà Mạc nên thuận phong Mạc Kính Khoan chức Thông quốc công và giao trấn giữ vùng biên giới. Lê Thần Tông và chúa Trịnh khen đãi Mạc Kính Khoan bằng lễ vật đặc biệt.

Việc hậu đãi Mạc Kính Khoan còn có lý do khác, vì khi đó mâu thuẫn giữa Trịnh Tráng và Nguyễn Phúc Nguyên ở Thuận Hóa đã rất căng thẳng và chúa Trịnh dự định khởi đại quân vào nam để dẹp Phúc Nguyên, vì vậy muốn yên ổn ở biên cương phía bắc. Không lâu sau (1627), cuộc chiến Trịnh-Nguyễn phân tranh bùng nổ.

Trong vòng 10 năm được yên phía bắc, chúa Trịnh 2 lần mang quân nam tiến nhưng không thành công. Trong khi đó Mạc Kính Khoan vẫn không chịu bỏ tước hiệu nhà Mạc, không chịu nghe theo chiếu lệnh của nhà Lê, mặt khác còn tiếp tục khôi phục thế lực.

Tới năm 1638 Mạc Kính Khoan mất, con trai là Mạc Kính Vũ xưng vương, lấy niên hiệu là Thuận Đức, lại chống Lê Trịnh.

Các sử sách chính thống của nhà Lê Trung hưng và nhà Nguyễn đều cho rằng Mạc Kính Khoan không có miếu hiệu và thụy hiệu vì họ cho rằng chính quyền Cao Bằng chỉ là tàn dư phản loạn nên không đi sâu vào lĩnh vực chuyên môn, tuy nhiên trong cuốn Việt Nam Mạc thị gia tộc dữ Trung Quốc quan hệ nghiên cứu gần đây của học giả Ngưu Quân Khải người Trung Quốc thì Mạc Kính Khoan có miếu hiệu là Quang Tổ và thụy hiệu là Hòa Thiên Phù Địa Độ Văn Khánh Vũ Huệ Nguyên Hoàng đế.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mạc Kính Khoan** (chữ Hán: 莫敬寬 ? - 1638) là vua nhà Mạc thứ 3 thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Khoan là người xã Cao Đôi, huyện
**Mạc Kính Vũ** (chữ Hán: 莫敬宇) là vua nhà Mạc thứ 10 và là vua Mạc thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Vũ là người xã Cao Đôi,
**Mạc Kính Cung** (chữ Hán: 莫敬恭 ? - 1625) là vua nhà Mạc thời hậu kỳ, khi Bắc triều chấm dứt với cái chết của cha con Mạc Mậu Hợp và Mạc Toàn. ## Khôi
** Khiêm Vương** **Mạc Kính Điển** (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự **Kinh Phủ**, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Mạc ở Việt Nam với nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới
**Mạc Phúc Tư** (chữ Hán: 莫福滋; 1524 - 1593), thụy hiệu là **Phúc Triệu**, tước Ninh vương (寧王), là tướng nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Cùng với những thân
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Sở Giao dịch Chứng khoán New York** (_NYSE_, biệt danh "The Big Board") là một sở giao dịch chứng khoán của Mỹ tại Khu tài chính Lower Manhattan ở Thành phố New York. Cho đến
**Văn hóa Lê–Mạc** (hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lê–Mạc** hay cụ thể hơn nữa là **Thời kỳ chuyển giao Lê–Mạc**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**Kinh tế Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế trong thời Nam Bắc triều (1527-1592) trên lãnh thổ nước Đại Việt đương thời. Thời
**Trận Cao Bằng** là một loạt các trận đánh từ tháng 2 đến tháng 8 năm 1677 giữa quân Lê - Trịnh và lực lượng tàn dư của nhà Mạc đang cát cứ Cao Bằng.
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
**Thành Bản Phủ** nằm trên một vùng rộng lớn bao quanh là sông nước và đồng ruộng thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Theo truyền thuyết và sử sách, đây
**Lịch sử kinh tế Nhật Bản** được quan tâm nghiên cứu chính là vì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này và bởi vì Nhật Bản là nền kinh tế quốc gia
**Trận Nam Kinh** diễn ra vào đầu tháng 12 năm 1937, là một phần của cuộc chiến tranh Trung – Nhật. Quốc dân Cách mệnh quân và Lục quân Đế quốc Nhật Bản giao chiến
**Kinh tế** (Tiếng Anh: _economy_) là một lĩnh vực sản xuất, phân phối và thương mại, cũng như tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Tổng thể, nó được định nghĩa là một lĩnh vực
**Kinh tế Israel** là một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển với mức độ công nghiệp hóa, kỹ nghệ cùng hàm lượng tri thức cao, đây là quốc gia có
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
350x350px|thumb|Logo chính thức của Kính thiên văn Chân trời sự kiện **Kính thiên văn Chân trời sự kiện** (tiếng Anh: **E**vent **H**orizon **T**elescope, **EHT**) là một dự án và là chương trình quan sát thiên
**Vật lý kinh tế** là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, áp dụng các lý thuyết và phương pháp ban đầu được các nhà vật lý phát triển để giải quyết các vấn đề
Turkmenistan là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Nước này có diện tích chủ yếu là hoang mạc với nông nghiệp thâm canh trong các khu vực được tưới
**Mạc Lý Hiền** (,1882-1958), huân chương MBE, JP, tên tự là **Cán Sinh**, hiệu **Ứng Lâm** là thương nhân tại Hồng Kông thuộc Anh, nhân viên mãi biện tại Thái Cổ Dương Hàng (tiền thân
**Phùng Khắc Khoan** (chữ Hán: 馮克寬;1528-1613), tự là **Hoằng Phu**, hiệu là **Nghị Trai**, **Mai Nham Tử**, tục gọi là **Trạng Bùng** (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan
**Mạc Thiếu Thông**, tên tiếng Anh là **Max Mok** hay **Benny Mok**, có biệt danh là **Đại Nhãn Tử** là một nam diễn viên kiêm ca sĩ người Hồng Kông trong thập niên 80 và
Vườn hoa Thủy Vĩ thành phố Lào Cai, mang tên gọi của huyện (châu) Thủy Vĩ phủ Quy Hóa trấn Hưng Hóa Đại Việt- Việt Nam xưa, nằm dọc bờ trái dòng sông Nậm Thy
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Thanh vương** **Trịnh Tráng** (chữ Hán: 鄭梉, 6 tháng 8 năm 1577 – 28 tháng 5 năm 1657), thụy hiệu **Văn Tổ Nghị vương** (文祖誼王), là chúa Trịnh thứ 2 thời Lê Trung hưng chính
**Phạm Tử Nghi** (范子儀, 1509 -1551) là một võ tướng dưới triều đại nhà Mạc. Phạm Tử Nghi là con ông Phạm Hành (mất sớm) và bà Nguyễn Thị Bèo, (bà người huyện Nghi Dương,
Biến động biên giới Việt - Trung, 1428 - 1895. **Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê trung hưng** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê trung hưng ở
**Nguyễn Danh Thế** (1573-1645) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Danh Thế người làng Viên Nội, huyện ứng Hòa, Hà Nội. Năm 1595 đời Lê
Ngày 28/12/2023, tại Hà Nội, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (CLTC) phối hợp với Học viện Tài chính tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Tình hình kinh tế -
**Hưng Đạo** là một xã thuộc thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Địa lý Xã Hưng Đạo nằm ở phía tây bắc thành phố Cao Bằng, cách trung tâm thành phố
**Sùng Nghĩa vương Trịnh Kiều** (崇義王鄭橋, 1601 - 1642) là Thế tử của phủ chúa Trịnh dưới thời nhà Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Trịnh Kiều là con trai
**Trịnh Kinh** (chữ Hán phồn thể: 鄭經; giản thể: 郑经; bính âm: Zhèng Jìng) (1642 – 1681), tên **Cẩm**, tự **Hiền Chi**, **Nguyên Chi**, hiệu **Thức Thiên**, biệt danh **Cẩm Xá**, là con trưởng của
**Nguyễn Văn Giai** (chữ Hán: 阮文階, 1555 - 1628) là một Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái bảo, Quận công, công thần "khai quốc" thời Lê trung hưng, nổi tiếng
**Hoàng Đình Kinh** (1830 – 1888), còn gọi là **Cai Kinh**, ông là một thủ lĩnh người Tày lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp trong vòng 7 năm(1882 – 1888) ở Lạng Giang vào
**Nguyễn Trọng Thưởng** (chữ Hán: 阮仲奖), tước **Trịnh Quận công** (chữ Hán:郑郡公), là danh tướng của triều Lê trong trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh vào khoảng giữa thế kỷ XVI
**Quan Âm Thị Kính** là tên thông tục một sử thi Hán Nôm ba hồi xuất hiện hậu kỳ trung đại, có sức ảnh hưởng nhất định tới nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam
**Lưu Kính Tuyên** (chữ Hán: 刘敬宣, 371 – 415) là tướng lãnh cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Kính Tuyên tự Vạn Thọ, nhũ danh A Thọ, người quận
**Khánh Vương** (_chữ Hán_ 慶王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị tổ tiên các đời vua chúa Việt Nam, Triều Tiên và Trung Quốc được hậu duệ làm vua hoặc làm
**Niger**, quốc hiệu là **Cộng hoà Niger**, là một quốc gia nằm ở Tây Phi. Tên quốc gia đặt theo tên sông Niger. Niger có chung đường biên giới với Nigeria và Bénin về phía
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ
**Trịnh Kiểm** (chữ Hán: 鄭檢, 14 tháng 9, 1503 – 24 tháng 3, 1570), tên thụy **Thế Tổ Minh Khang Thái vương** (世祖明康太王), là nhà chính trị, quân sự có ảnh hưởng của Đại Việt
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Chúa Trịnh** (chữ Nôm: 主鄭, chữ Hán: 鄭王 / **Trịnh vương**; 1545 – 1787) là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng. Về danh