✨Trận Cao Bằng (1677)

Trận Cao Bằng (1677)

Trận Cao Bằng là một loạt các trận đánh từ tháng 2 đến tháng 8 năm 1677 giữa quân Lê - Trịnh và lực lượng tàn dư của nhà Mạc đang cát cứ Cao Bằng. Đây là loạt những trận đánh cuối cùng và chấm dứt hoàn toàn chiến tranh Lê-Mạc, thế lực nhà Mạc hoàn toàn bị tiêu trừ và vùng lãnh thổ Cao Bằng được sáp nhập trở lại vào với Đại Việt.

Bối cảnh

Đầu năm 1593, quân Trung hưng nhà Lê, đại phá quân Mạc, bắt giết được vị vua cuối cùng của nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp. Thống lãnh lực lượng Trung hưng Trịnh Tùng rước vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long, đánh dấu mốc nhà Lê trung hưng, đồng thời xác lập quyền lực của chúa Trịnh với quyền thế tập. Tuy vậy, khi đó thế lực tàn dư của nhà Mạc vẫn còn rất mạnh, các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hải Dương, Sơn Nam, Kinh Bắc... vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của các tông thất nhà Mạc như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Dụng, Mạc Kính Chương... Trong vòng 30 năm, do sự uy hiếp của lực lượng tàn dư của nhà Mạc, các chúa Trịnh đã 2 lần phải rước vua Lê chạy vào Thanh Hóa (1600, 1623).

Năm 1625, sau khi dẹp yên được nội loạn, quân Trịnh mạnh trở lại, đánh bật quân Mạc và bắt giết Mạc Kính Cung. Tháng 12 () cùng năm (tức khoảng tháng 1 năm 1639), quân Trịnh một lần nữa tấn công Cao Bằng, vẫn không dứt điểm được quân Mạc, lại phải lui binh. Tháng 6 () năm 1639, quân Trịnh lại tiến đánh, duy trì đến tháng () (tức khoảng tháng 1 năm 1640), cũng lại rút.

Nhà Minh bị diệt, Mạc Kính Vũ lại nương theo nhà Thanh. Trong các năm 1662, 1666 và 1667, quân Trịnh lại liên tiếp tấn công lên Cao Bằng. Quân Mạc khi thua trận lại rút sang Long châu (Trung Quốc), khi quân Trịnh lui thì lại trở về Cao Bằng. Thậm chí, năm 1667, nhà Thanh còn gây sức ép đế nhà Lê, buộc phải cắt đất Cao Bằng cho chúa Mạc. Bên cạnh đó, các thế lực cát cứ khác là chúa Bầu ở Tuyên Quang và chúa Nguyễn ở Thuận Quảng, cũng tìm cách liên kết với nhà Mạc để chống lại thế lực của chúa Trịnh.

Nhờ những thông tin từ các thám tử báo về, quân Trịnh đã tổ chức binh lực chia làm 2 đường tiến lên Cao Bằng. Một cánh quân do Thái phó Nguyễn Hữu Đăng cùng Tả thị lang Hoàng Triều Hoa thống lĩnh, tiến theo đường Thái Nguyên. Cánh quân còn lại do Đô đốc Đinh Văn Tả cùng Thiếu úy Hoàng Triều Ninh thống lĩnh, tiến theo đường Lạng Sơn. Tháng 5 () năm 1677, cánh quân của Nguyễn Hữu Đăng tập kết từ Bó Lài (nay thuộc xã Vân Tùng, Ngân Sơn), tiến quân vượt Pò Mò, Khau Mu (nay thuộc xã Bằng Vân, Ngân Sơn), xuyên rừng, công hạ các đồn Khau Cút, Khau Đồn (nay thuộc xã Bình Dương, Hòa An). Nguyễn Hữu Đăng muốn thừa thắng vượt sông Mãng Giang, nhưng vấp phải kháng cự của quân Mạc, không sao phá được, đành chờ quân ở Lạng Sơn lên hợp lực. Trong khi đó, cánh quân của Đinh Văn Tả theo đường Lạng Sơn tiến lên đến Thất Tuyền (nguyên là châu Thất Nguyên, nhà Mạc vì kiêng húy Mạc Phúc Nguyên nên mới đổi làm Thất Tuyền, nay thuộc huyện Tràng Định), bí mật vượt suối, tập kích diệt gọn thành Mục Mã (nay thuộc phường Hợp Giang, thành phố Cao Bằng).

Hậu quả và ý nghĩa

Trận Cao Bằng năm 1677 là giao tranh đáng kể cuối cùng giữa chính quyền Lê-Trịnh và họ Mạc. Với thắng lợi của quân Trịnh trong chiến dịch Cao Bằng 1677, thế lực nhà Mạc đã tan rã, không còn có thể là một mối đe dọa với thế lực của chúa Trịnh. Xét về cơ bản, kết quả chiến dịch năm 1677 đánh dấu mốc thời điểm thế lực họ Mạc tan rã tại Cao Bằng, không thể gây dựng lại được như trước. Theo một số nhà nghiên cứu, chúa Mạc thực tế vẫn cố thủ co cụm trong thành Phục Hòa (vốn trên đường thoát qua Long Châu) thêm 8 năm nữa, đến năm 1685 mới đầu hàng quân Trịnh, và mãi đến năm 1692, khi bắt được Mạc Trí Kính, quân Trịnh mới hoàn toàn yên ổn kiểm soát được Cao Bằng.

Họ Mạc bị diệt ở Cao Bằng khiến chúa Bầu ở Tuyên Quang cát cứ từ đầu thế kỷ 16 không còn lực lượng liên kết. Không lâu sau, năm 1689, chúa Bầu Vũ Công Tuấn cũng bị quân Trịnh bắt giết, vùng Tuyên Quang được thu phục. Trận Cao Bằng mở đầu cho việc nhất thống hoàn toàn lãnh thổ Đại Việt trước đây đã nằm dưới quyền kiểm soát của chúa Trịnh, dưới danh nghĩa của nhà Hậu Lê.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Cao Bằng** là một loạt các trận đánh từ tháng 2 đến tháng 8 năm 1677 giữa quân Lê - Trịnh và lực lượng tàn dư của nhà Mạc đang cát cứ Cao Bằng.
**Cao Bằng** là một thành phố cũ trực thuộc tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Địa lý trái|nhỏ|[[Sông Bằng Giang đoạn chảy qua trung tâm thành phố Cao Bằng]] Thành phố Cao Bằng nằm gần
**Hưng Đạo** là một xã thuộc thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Địa lý Xã Hưng Đạo nằm ở phía tây bắc thành phố Cao Bằng, cách trung tâm thành phố
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Thăng Long tứ trấn** là tên gọi chỉ 4 ngôi đền thiêng thờ 4 vị thần trấn giữ 4 vị trí huyết mạch phía đông, tây, nam, bắc của kinh thành Thăng Long xưa. Bốn
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Thành cổ cao bằng ** hay thường gọi là **thành nhà Mạc**, là một di tích lịch sử văn hóa nằm ở huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Lịch sử Thành Phục
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
**Đền Quán Thánh**, tên chữ là **Trấn Vũ Quán**, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 - 1028), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp thủ đô Hà Nội, phía đông giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh
**Hoằng Lộc** là một xã thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. ## Xã Hoằng Lộc trước tháng 6 năm 2025 ### Địa lý nhỏ|486x486px|_Vị trí địa lý xã Hoằng Lộc_ Hoằng Lộc cách trung tâm
thế=Lễ hội Ná Nhèm vào năm 2016.|nhỏ|Tàng thinh và Mặt nguyệt trong lễ hội Ná Nhèm vào năm 2016. **Lễ hội Ná Nhèm** là một lễ hội phồn thực được tổ chức hàng năm vào
**Mạc Kính Vũ** (chữ Hán: 莫敬宇) là vua nhà Mạc thứ 10 và là vua Mạc thời hậu kỳ, khi đã rút lên Cao Bằng. Nguyên quán Mạc Kính Vũ là người xã Cao Đôi,
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
**Đinh Văn Tả** (chữ Hán: 丁文左; 1602-1685) là một tướng lĩnh Việt Nam dưới thời Lê trung hưng. Ông thuộc dòng dõi Đinh Đàm, tướng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, người làng Hàm Giang,
**Amangkurat I** (Amangkurat Agung; 1619–1677) là _susuhunan_ (quân chủ) của Vương quốc Hồi giáo Mataram từ năm 1646 đến năm 1677. Ông là con trai của Sultan Agung của Mataram. Ông phải đối phó với
**Doãn Chỉ** (, chữ Hán: 允祉, bính âm: Yūn c῾y; 23 tháng 3, 1677 - 10 tháng 7, 1732), là Hoàng tử thứ 3 tính trong số những người con sống tới tuổi trưởng thành
**Mạc Cảnh Huống** (莫景貺, 1542-1677) là người xuất thân trong hoàng tộc nhà Mạc, em của Khiêm vương Mạc Kính Điển và đồng thời là chú của Quận chúa Mạc Thị Giai (người sau này
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Virginia** (phát âm tiếng Việt: Vơ-gin-ni-a; phát âm tiếng Anh: ), tên chính thức là **Thịnh vượng chung Virginia** (), là một bang nằm tại khu vực Nam Đại Tây Dương của Hợp chúng quốc
**Trùng Khánh** là một huyện biên giới thuộc tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Địa lý thumb|Nông thôn ở Pò Tâu, Trùng Khánh Huyện Trùng Khánh nằm ở phía đông bắc của tỉnh Cao Bằng,
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
Dân cư sinh sống có tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam xuất hiện tương đối sớm so với trên thế giới, tuy nhiên việc hình thành nhà nước chuyên chế lại tương đối muộn
Biến động biên giới Việt - Trung, 1428 - 1895. **Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê trung hưng** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê trung hưng ở
**Chúa Trịnh** (chữ Nôm: 主鄭, chữ Hán: 鄭王 / **Trịnh vương**; 1545 – 1787) là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng. Về danh
**Thủ đô Việt Nam** hiện nay là thành phố Hà Nội. Sau đây là danh sách các kinh đô/thủ đô – hiểu theo nghĩa rộng – là các trung tâm chính trị của chính thể
Cổng làng Mộ Trạch trong một ngày khai hội Làng **Mộ Trạch** (慕澤) là một ngôi làng cổ, nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Làng Mộ Trạch nổi danh trong
nhỏ|Đàng Ngoài và [[Đàng Trong (1757)]] nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ Đàng Ngoài (Tonkin), cùng [[Đàng Trong (Cochinchina) và Lào, năm 1771.]] phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam, Ai Lao (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam
**Mạc Kính Hẻ** (莫敬喜), cũng có tên là **Mạc Kính Thụy** (莫敬瑞) hay **Mạc Nguyên Thanh** (莫元清), là vị vua (không chính thức) của nhà Mạc thời hậu kỳ trong lịch sử Việt Nam. Nguyên
**Niên biểu lịch sử Việt Nam** là hệ thống các sự kiện lịch sử Việt Nam nổi bật theo thời gian từ các thời tiền sử, huyền sử, cổ đại, trung đại, cận đại cho
Phần lãnh thổ nhà Mạc và [[nhà Lê trung hưng quản lý vào năm 1590]] **Ngoại giao Việt Nam thời Mạc** phản ánh những hoạt động ngoại giao dưới triều đại nhà Mạc ở Đại
Chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, các triều đại Việt Nam cũng đặt **niên hiệu** (chữ Hán: 年號) khi các vua xưng hoàng đế. Dưới đây là bảng kê các niên hiệu của vua Việt
Nam-Bắc triều **Nam – Bắc triều** (chữ Hán: 南北朝;1533–1593) là tên gọi của khoảng thời gian nhà Mạc cầm quyền ở tại Thăng Long, gọi là **Bắc triều** và nhà Hậu Lê bắt đầu trung
**Sốt rét** còn gọi là **ngã nước** là một chứng bệnh gây ra bởi ký sinh trùng tên _Plasmodium_, lây truyền từ người này sang người khác khi những người này bị muỗi đốt. Bệnh
**Bá quốc Waldeck** (sau này được nâng lên thành **Thân vương quốc Waldeck** và **Thân vương quốc Waldeck và Pyrmont**) là một nhà nước của Đế chế La Mã Thần thánh và những người kế
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Mạc ở Việt Nam với nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới
nhỏ|chùa Ngũ Xã với pho tượng đức Phật A Di Đà bằng đồng đầu tiên ở Việt Nam phải|Đình thờ ông tổ đúc đồng [[Lý Quốc Sư|Nguyễn Minh Không ở Ngũ Xá]] **Làng Ngũ Xã**
**Khởi nghĩa Trunajaya** (còn viết là **Trunojoyo**; ) hay **Chiến tranh Trunajaya** là cuộc khởi nghĩa do vương công người Madura Trunajaya và các chiến binh từ Makassar tiến hành nhằm chống lại Vương quốc
**Mary II của Anh** (30 tháng 4 năm 1662 – 28 tháng 12 năm 1694) là đồng quân vương của Vương quốc Anh, Scotland, và Ireland cùng với chồng và cũng là anh họ, Willem
**Thanh Thánh Tổ** (chữ Hán: 清聖祖; 4 tháng 5 năm 165420 tháng 12 năm 1722), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Thanh và cũng
**Lịch sử Philippines** khác biệt nhiều mặt so với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á, là nước duy nhất không bị ảnh hưởng bởi Phật giáo và Ấn giáo, Philippines ngày nay là
**Friedrich Wilhelm** (16 tháng 2 năm 1620 – 29 tháng 4 năm 1688) là Tuyển đế hầu thứ 11 của Brandenburg và đồng thời Công tước của Phổ trong liên minh cá nhân Brandenburg-Phổ, trị
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),