✨Sốt rét
Sốt rét còn gọi là ngã nước là một chứng bệnh gây ra bởi ký sinh trùng tên Plasmodium, lây truyền từ người này sang người khác khi những người này bị muỗi đốt. Bệnh phổ biến ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Mỹ, châu Á và châu Phi. Mỗi năm có khoảng 515 triệu người mắc bệnh, từ 1 đến 3 triệu người tử vong - đa số là trẻ em ở khu vực phía nam sa mạc Sahara, châu Phi. 90% số ca tử vong xảy ra tại đây. Sốt rét thường đi kèm với đói nghèo, lạc hậu, và là một cản trở lớn đối với phát triển kinh tế.
Sốt rét là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất và là vấn đề rất nghiêm trọng đối với sức khoẻ cộng đồng. Bệnh gây ra bởi ký sinh trùng protozoa thuộc chi Plasmodium. Chi này có bốn loài làm con người nhiễm bệnh. Nguy hiểm hơn cả là Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax. Hai loài còn lại (Plasmodium ovale, Plasmodium malariae) cũng gây bệnh nhưng ít tử vong hơn. Nhóm các loài Plasmodium gây bệnh ở người thường được gọi chung là ký sinh trùng sốt rét. Riêng loài P. knowlesi, phổ biến ở Đông Nam Á, gây bệnh sốt rét ở khỉ nhưng cũng có thể gây nhiễm trùng nặng ở người.
Biểu hiện và triệu chứng
[[Tập tin:Symptoms of Malaria.png|thumb|Các triệu chứng chính của sốt rét
Phương thức truyền nhiễm bệnh
nhỏ|phải|[[Muỗi Anopheles, tác nhân truyền bệnh sốt rét]] Một người có thể nhiễm bệnh sốt rét qua 3 cách thức sau đây:
- Do muỗi truyền (phổ biến)
- Do truyền máu
- Truyền qua nhau thai Ngoài ra những người tiêm chích ma túy dùng chung bơm kim tiêm cũng có thể bị mắc căn bệnh này
Phân loại bệnh
Theo cơ sở phân loại bệnh sốt rét của Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam chia sốt rét theo 2 mức độ lâm sàng:
- Sốt rét thông thường/sốt rét chưa có biến chứng
- Sốt rét ác tính/sốt rét có biến chứng
Tiên lượng
thumb|[[Năm sống điều chỉnh theo bệnh tật đối với bệnh số rét trên 100.000 dân năm 2004
]] Khi điều trị đúng cách, người bị sốt rét thường có thể được trông đợi là hồi phục hoàn toàn. và sự phát triển các khu định cư của con người. Họ hàng gần của ký sinh trùng sốt rét ở người vẫn phổ biến ở tinh tinh. Một số bằng chứng cho thấy bệnh sốt rét do P. falciparum có thể bắt nguồn từ loài khỉ đột.
Các tài liệu ghi chép về các cơn sốt sốt rét được tìm thấy khá phổ biến trong suốt lịch sử châu Âu và châu Á. Hippocrates đã mô tả các cơn sốt định kỳ, ghi tên chúng là tertian, quartan, subtertian và quotidian. Columella, thầy thuốc La Mã đã liên kết căn bệnh này với côn trùng từ đầm lầy. và nó lan tràn ở La Mã đến mức được gọi là "bệnh sốt La Mã". Một số khu vực ở La Mã cổ đại được coi là có nguy cơ mắc bệnh cao vì những điều kiện thuận lợi cho sự sinh sản của các loài vật trung gian truyền bệnh sốt rét. Nó bao gồm các khu vực như miền nam nước Ý, đảo Sardinia, các đầm lầy ở Pontine, các vùng thấp hơn ven biển Etruria và thành phố Rome dọc theo sông Tiber. Sự hiện diện của nước tù đọng ở những nơi này được muỗi ưa thích chọn làm nơi sinh sản. Những khu vườn được tưới tiêu, những bãi đất thấp và đầm lầy, hoạt động nông nghiệp và các vấn đề thoát nước từ việc xây dựng đường xá đã dẫn đến sự gia tăng các khu nước đọng.
Vị thuốc trị sốt rét sử dụng chiết xuất từ cây thanh hao hoa vàng đã được ghi lại từ 1700 năm trước, nằm trong một cuốn sách nghề y của Cát Hồng (283–343) thời nhà Tấn ở Trung Quốc. Đến năm 1977, nhà nghiên cứu y học Trung Quốc Đồ U U đã sử dụng ghi chép này để điều chế thành công thuốc trị sốt rét artemisinin, bà đã nhận giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 2015 cho công trình này.
thumb|left|Bác sĩ người Anh [[Ronald Ross đã nhận Giải Nobel y học vào năm 1902 nhờ công trình nghiên cứu về sốt rét.]]
Thuật ngữ tiếng Anh "Malaria" (Sốt rét) bắt nguồn từ tiếng Ý thời Trung cổ —"khí xấu"; căn bệnh này trước đây được gọi là bệnh sốt đầm lầy do có liên quan đến các đầm lầy. Thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên trong tài liệu tiếng Anh vào khoảng năm 1829. nơi hiện nay nó không còn là bệnh phổ biến nữa, mặc dù các trường hợp người bệnh từ nơi khác tới vẫn xảy ra.
Bệnh sốt rét không được đề cập đến trong các "sách y học" của người Maya hoặc Aztec tại miền Trung châu Mỹ. Những người từ châu Âu di cư sang và những người Tây Phi mà họ bắt làm nô lệ có thể đã mang theo bệnh sốt rét đến châu Mỹ, bắt đầu từ thế kỷ 16.
Các nghiên cứu khoa học về bệnh sốt rét đã đạt được bước tiến quan trọng đầu tiên vào năm 1880, khi Charles Louis Alphonse Laveran — một bác sĩ quân đội Pháp làm việc tại bệnh viện quân sự Constantine ở Algeria — lần đầu tiên quan sát thấy ký sinh trùng bên trong tế bào hồng cầu của những người bị nhiễm bệnh. Do đó, ông đề xuất rằng bệnh sốt rét là do sinh vật này gây ra, đây là lần đầu tiên một nguyên sinh vật được xác định là gây bệnh. Vì điều này và những khám phá sau đó, ông đã được trao giải Nobel Y học năm 1907. Một năm sau, Carlos Finlay, một bác sĩ người Cuba điều trị cho những người bị sốt vàng da ở Havana, cung cấp bằng chứng mạnh mẽ cho thấy muỗi đã truyền bệnh từ người sang người. Công trình này tiếp nối các đề xuất trước đó của Josiah C. Nott, và của Patrick Manson, "cha đẻ của y học nhiệt đới", về sự lây truyền bệnh giun chỉ.
thumb|left|Nhà nghiên cứu y học Trung Quốc [[Đồ U U đã nhận giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 2015 cho công trình nghiên cứu thuốc trị sốt rét artemisinin.]]
Vào tháng 4 năm 1894, một bác sĩ người Scotland, Ronald Ross, đã đến thăm Patrick Manson tại ngôi nhà của ông trên Phố Queen Anne, Luân Đôn. Chuyến thăm này là khởi đầu của bốn năm hợp tác và nghiên cứu nhiệt thành, lên đến đỉnh điểm vào năm 1897 khi Ross, người đang làm việc tại Bệnh viện Đa khoa Tổng hợp ở Calcutta, đã chứng minh được vòng đời hoàn chỉnh của ký sinh trùng sốt rét ở muỗi. Những phát hiện của Finlay và Ross sau đó đã được xác nhận bởi một hội đồng y tế do Walter Reed đứng đầu vào năm 1900. Các khuyến nghị của nó đã được William C. Gorgas sử dụng trong các biện pháp y tế được thực hiện trong quá trình xây dựng Kênh đào Panama. Công tác y tế công cộng này đã cứu sống hàng nghìn công nhân và giúp phát triển các phương pháp được sử dụng trong các chiến dịch y tế công cộng chống lại căn bệnh này trong tương lai.
Năm 1896, Amico Bignami đã thảo luận về vai trò của muỗi đối với bệnh sốt rét. Năm 1898, Bignami, Giovanni Battista Grassi và Giuseppe Bastianelli đã thành công trong thực nghiệm chỉ ra sự lây truyền bệnh sốt rét ở người, sử dụng muỗi nhiễm bệnh để tự lây bệnh sốt rét và họ đã trình bày kết quả vào tháng 11 năm 1898 cho Accademia dei Lincei.
thumb|right|Artemisia annua, nguồn chiết xuất ra chất chữa trị sốt rét [[artemisinin]]
Phương pháp điều trị hiệu quả đầu tiên đối với bệnh sốt rét là từ vỏ cây canhkina, có chứa quinine. Cây này mọc trên các sườn núi Andes, chủ yếu ở Peru. Người dân bản địa Peru đã dùng cây canhkina để kiểm soát cơn sốt. Hiệu quả của nó đối với bệnh sốt rét đã được xác nhận và các tu sĩ Dòng Tên đã giới thiệu phương pháp điều trị này đến châu Âu vào khoảng năm 1640; đến năm 1677, nó được đưa vào Dược điển Luân Đôn như một phương pháp điều trị sốt rét. Mãi đến năm 1820, thành phần hoạt chất quinine, được chiết xuất từ vỏ cây, được các nhà hóa học người Pháp Pierre Joseph Pelletier và Joseph Bienaimé Caventou phân lập và đặt tên.
Quinine là loại thuốc điều trị sốt rét phổ biến cho đến những năm 1920, khi các loại thuốc khác bắt đầu xuất hiện. Vào những năm 1940, chloroquine đã thay thế quinine để điều trị sốt rét ác tính mà không gây biến chứng, cho đến khi tình trạng kháng thuốc tăng cao, đầu tiên là ở Đông Nam Á và Nam Mỹ vào những năm 1950 và sau đó trên toàn cầu vào những năm 1980.
Giá trị y học của Artemisia annua đã được các nhà thảo dược Trung Quốc sử dụng trong các bài thuốc cổ truyền của họ trong 2.000 năm. Vào năm 1596, Li Shizhen đã đề xuất sử dụng loại trà được làm từ thanh hao đặc biệt để điều trị các triệu chứng sốt rét trong cuốn "Compendium of Materia Medica" của mình. Artemisinins, được phát hiện bởi nhà khoa học Trung Quốc Đồ U U và các đồng nghiệp vào những năm 1970 từ cây Artemisia annua, đã trở thành phương pháp điều trị được khuyến nghị đối với bệnh sốt rét do P. falciparum, được sử dụng trong những trường hợp nghiêm trọng kết hợp với các thuốc chống sốt rét khác. Đồ U U nói rằng bà bị ảnh hưởng bởi nguồn dược liệu truyền thống của Trung Quốc, cuốn sách "Sổ tay kê đơn cho các phương pháp điều trị khẩn cấp", được viết vào năm 340 bởi Cát Hồng. Với công trình nghiên cứu bệnh sốt rét của mình, Đồ U U đã nhận được giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 2015.
Plasmodium vivax được sử dụng từ những năm 1917 đến những năm 1940 để điều trị bệnh sốt rét - tiêm chất này vào ký sinh trùng sốt rét để gây sốt nhằm chống lại một số bệnh như giang mai giai đoạn ba. Năm 1927, người phát minh ra kỹ thuật này, Julius Wagner-Jauregg, đã nhận được giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học cho những khám phá của mình. Kỹ thuật này rất nguy hiểm, giết chết khoảng 15% bệnh nhân, vì vậy nó không còn được sử dụng.
thumb|Binh sỹ Mỹ bị sốt rét trong bệnh viện dã chiến ở [[Guadalcanal, tháng 10/1942]]
Thuốc trừ muỗi đầu tiên được sử dụng để phun trong nhà là DDT. Mặc dù ban đầu nó chỉ được sử dụng để chống lại bệnh sốt rét, nhưng việc sử dụng nó đã nhanh chóng lan rộng sang nông nghiệp. Theo thời gian, việc kiểm soát côn trùng hại cây trồng, thay vì kiểm soát dịch bệnh, đã chiếm ưu thế trong việc sử dụng DDT, và việc sử dụng nông nghiệp quy mô lớn này đã dẫn đến sự phát triển của muỗi kháng thuốc trừ sâu ở nhiều vùng. Khả năng kháng DDT của muỗi Anopheles có thể được so sánh với khả năng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn. Trong những năm 1960, nhận thức về hậu quả tiêu cực của việc sử dụng bừa bãi DDT đã tăng lên, cuối cùng dẫn đến lệnh cấm dùng DDT trong nông nghiệp ở nhiều quốc gia vào những năm 1970. Trước khi có DDT, bệnh sốt rét đã được loại bỏ hoặc kiểm soát thành công ở các khu vực nhiệt đới như Brazil và Ai Cập bằng cách loại bỏ hoặc đầu độc nơi sinh sản của muỗi hoặc môi trường sống dưới nước của ấu trùng muỗi, ví dụ bằng cách sử dụng hợp chất asen có độc tính cao có tên là Paris Green cho những nơi có bụi cây mọc trên mặt nước.
Vắc xin sốt rét là một mục tiêu nghiên cứu khó nắm bắt. Các nghiên cứu đầy hứa hẹn đầu tiên chứng minh tiềm năng của vắc-xin sốt rét đã được thực hiện vào năm 1967 bằng cách cho chuột gây miễn dịch với các bào tử trùng sốt rét đã giảm độc lực với bức xạ, giúp bảo vệ đáng kể cho những con chuột sau khi được tiêm các bào tử bình thường. Kể từ những năm 1970, đã có một nỗ lực đáng kể để phát triển các chiến lược tiêm chủng tương tự cho con người. Vắc xin đầu tiên, được gọi là RTS,S, đã được các cơ quan quản lý châu Âu phê duyệt vào năm 2015.
Các loài động vật khác
Mặc dù các chủng sốt rét gây nhiễm trùng cho người không có ổ chứa ở các loài động vật khác, có gần 200 loài Plasmodium ký sinh đã được xác định có thể lây nhiễm cho các loài như chim, bò sát và động vật có vú khác, và khoảng 30 loài có thể lây nhiễm tự nhiên cho các động vật linh trưởng không phải người. Một số ký sinh trùng sốt rét ảnh hưởng đến động vật linh trưởng không phải người (NHP) đóng vai trò là sinh vật đối ứng cho ký sinh trùng sốt rét ở người, chẳng hạn như P. coatneyi đối ứng cho P. falciparum) và P. cynomolgi (đối ứng cho P. vivax). Ký sinh trùng sốt rét lây nhiễm cho các loài gặm nhấm được sử dụng rộng rãi làm mô hình trong nghiên cứu, chẳng hạn như P. berghei. Bệnh sốt rét ở gia cầm chủ yếu ảnh hưởng đến các loài thuộc bộ Passeriformes, và ký sinh trùng P. relctum được biết là có vai trò hạn chế sự phân bố và sự phong phú của các loài chim đặc hữu ở Hawaii. Sự nóng lên toàn cầu dự kiến sẽ làm gia tăng sự phân bố toàn cầu của bệnh sốt rét gia cầm, vì nhiệt độ tăng cao tạo điều kiện tối ưu cho sự sinh sản của ký sinh trùng.