✨Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng

Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng, hay còn gọi là hành chính Đại Việt thời Lê-Trịnh trong lịch sử Việt Nam, phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương ở Đàng Ngoài - miền Bắc Đại Việt từ sông Gianh trở ra. Trong hai thời kỳ: thời kỳ 1533-1599 và thời kỳ từ 1600 đến khi chính quyền Lê-Trịnh sụp đổ cuối thế kỷ 18, bộ máy hành chính có những thay đổi cơ bản.

Thời kỳ đầu là giai đoạn chiến tranh giữa nhà Hậu Lê và nhà Mạc, họ Trịnh giữ vai trò phụ chính nhưng về chức vụ chỉ là quan đầu triều và chưa trở thành chúa. Từ năm 1600, họ Trịnh được lập phủ chúa, chính thức xưng vương thì bộ máy chính quyền hoàn toàn do họ Trịnh sắp đặt theo mô hình mà về cơ bản là giống thời Lê Sơ, chỉ thay đổi chút ít cho phù hợp với tình hình mới.

Chính quyền trung ương

Giai đoạn 1533-1599

:Xem thêm: Hành chính Đại Việt thời Lê sơ

Về cơ bản, bộ máy hành chính giai đoạn này dựa theo thời Lê Thánh Tông trước đây. Đầu não là Đại Tư đồ, Đại Tư mã, Đại tư không, Tam thái (Thái sư, thái úy, thái bảo), Tam thiếu (Thiếu sư, thiếu úy, thiếu bảo).

Trong triều đình vẫn có tổ chức Lục bộ là Lại Bộ, Lễ Bộ, Hộ Bộ, Binh Bộ, Hình Bộ, Công bộ. Mỗi bộ có một viên Thượng thư và 2 Tả bộ thị lang và cơ quan thường trực là Vụ tư sảnh đứng đầu. Thượng thư có hàm Tòng nhị phẩm, Thị lang có hàm Tòng tam phẩm, còn viên Tư vụ ở Vụ tư sảnh chỉ có hàm tòng bát phẩm.

Giám sát Lục bộ là Lục khoa tương ứng. Giúp việc cho Lục bộ là lục tự, gồm Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự, Thượng bảo tự.

Về ban võ, chúa Trịnh phỏng theo chế độ của thời Lê sơ. Quân lính chia làm 5 phủ gồm đô đốc phủ: trung quân, bắc quân, nam quân, tây quân, đông quân. Mỗi phủ có chức Tả, Hữu đô đốc, Đồng tri và Thiêm sự.

Giai đoạn 1600-1664

250x250px|thumb|Đại Việt thập niên 1650|phải

Năm 1600, Trịnh Tùng được phong vương, chính thức trở thành chúa. Họ Trịnh được hưởng thế tập ngôi chúa. Từ đây họ Trịnh lập ra hệ thống tổ chức chính quyền ở phủ chúa tương ứng với chính quyền có sẵn bên cung vua.

Trước tiên, Trịnh Tùng bãi bỏ chức Tả, Hữu thừa tướngBình chương của thời trước, đặt ra chức Tham tụng làm việc Tể tướng. Quyền lực của Tham tụng rất lớn, đều do chúa Trịnh tiến cử từ các viên Thượng thư (tương đương với Bộ trưởng) hoặc Thị lang lên.

Năm 1601, Trịnh Tùng đặt thêm chức Bồi tụng đảm đương trọng trách trong phủ Chúa. Dưới Tham tụng và Bồi tụng, chúa Trịnh đặt thêm các Phiên, tương đương với các Bộ bên cung vua. Ban đầu chỉ có 3 Phiên là Bộ phiên, Binh phiên và Thủy sư phiên nhằm đáp ứng nhu cầu quản trị của chúa Trịnh trong thời kỳ đầu. Tham tụng và Bồi tụng được gọi là quan Phủ liêu.

Tờ tâu lên vua gọi là sớ, tâu lên chúa gọi là khải.

Giai đoạn 1664-1718

nhỏ|phải|Chúa Trịnh thiết triều, do Samuel Baron vẽ năm 1685. Tuy có Tam phiên nhưng về cơ bản, trong giai đoạn đầu, chức năng nhiệm vụ chủ chốt vẫn ở Lục bộ. Số Thượng thư Lục bộ trong hơn 100 năm đầu thời Lê trung hưng còn thiếu, mãi đến năm 1664, Trịnh Tạc mới đặt đủ Thượng thư (tương đương Bộ trưởng) cả sáu bộ: Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng, xét hạch và thăng giáng quan tước Lễ Bộ: Trông coi việc nghi lễ, tế tự, mừng tiệc yến; học hành thi cử, đúc ấn tín; các chi tiết về mũ áo, chương tấu, việc đi cống, đi sứ, vào chầu. Kiêm coi việc thiên văn, y, bốc (bói toán), sư sãi, giáo phường, đồng văn, nhã nhạc. Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và ruộng lộc, thuế muối, sắt. Binh Bộ: Trông coi việc binh nhung, cấm vệ, xe ngựa nghi trượng, khí giới, dịch trạm; đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi hiểm yếu có dân tộc thiểu số và ứng phó các việc khẩn cấp; Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, ngục, kiện cáo; Công bộ: Trông coi việc xây dựng thành trì, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền; quản lý núi rừng, sông đầm, vườn tược.

Về cơ bản, Lục bộ vẫn nắm quyền hành khá lớn. Dù đặt ra Tam phiên trực thuộc mình và hoàn toàn chi phối Lục bộ nhưng chúa Trịnh vẫn đóng vai trò người phụ tá cao nhất của vua Lê.

Về ban võ, Trịnh Tạc đặt ra chức Chưởng phủ sự, Thự phủ sựQuyền phủ sự đứng đầu, gọi là quan Ngũ phủ. Họ có nhiệm vụ bàn định các việc trong phủ và tra xét các tờ khải tâu lên. Những người đảm nhận chức vụ này đều là công thần hoặc thân thuộc.

Từ 1718

Năm 1718, chúa Trịnh Cương lập ra đủ Lục phiên ở phủ chúa: Ngoài Binh phiênHộ phiên đặt từ trước, tới lúc đó đặt thêm Lại phiên, Lễ phiên, Hình phiên, Công phiên, tương đương 6 Bộ của triều đình vua Lê (Thủy sư phiên thuộc về Binh phiên). Kể từ lúc này, toàn bộ việc tiền tài, thuế khóa, việc quân, việc dân đều thuộc cả về các phiên ty.

Chính quyền địa phương

Các đơn vị hành chính

phải|Bản đồ Đại Việt quốc tổng lãm đồ (大越國總覽圖) thời nhà Lê-Trịnh. Hệ thống chính quyền địa phương thời Lê trung hưng chủ yếu vẫn như thời Lê Thánh Tông: trong nước chia thành các trấn, phủ, huyện, châu và xã.

Tổng cộng cả nước Đại Việt có 13 trấn và 1 phủ Phụng Thiên (奉天) trực thuộc kinh thành Thăng Long, trong đó Đàng Ngoài có 11 trấn (Hai trấn Quảng Nam, Thuận Hóa ở Đàng Trong trong tay chúa Nguyễn), gồm có: Hải Dương Sơn Nam Sơn Tây Kinh Bắc Lạng Sơn Hưng Hóa

  • Ninh Sóc (Thái Nguyên) Tuyên Quang An Quảng Thanh Hóa Nghệ An

Ban đầu, chúa Trịnh cho đổi các đạo trong nước làm trấn và phân biệt nội trấn với ngoại trấn. Nội trấn là các trấn đồng bằng (Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc) còn ngoại trấn là những nơi xa (Lạng Sơn, Hưng Hóa, Ninh Sóc, Tuyên Quang, An Quảng). Riêng 2 trấn Thanh Hoa và Nghệ An vẫn giữ nguyên. Khi thắng được họ Mạc lại đặt thêm trấn Cao Bình và đến cuối thời Lê trung hưng lại tách Sơn Nam và Thanh Hóa làm 2, nâng tổng số đơn vị hành chính Đàng Ngoài thành 15. nhỏ|Hành chính đàng Trong và Ngoài giai đoạn 1700 Cụ thể về các đơn vị hành chính thời Lê trung hưng như sau:

Phụng Thiên

Ngoài kinh thành gồm có 2 huyện phụ quách Quảng Đức (廣德) và Thọ Xương (壽昌),

Sơn Nam thượng

Trấn Sơn Nam (山南) từ thời Lê Hiển Tông tách ra làm lộ Sơn Nam thượng (山南上) (tức Hà Đông cũ, Hưng Yên và Hà Nam hiện nay) và lộ Sơn Nam hạ (tức Nam Định và Thái Bình hiện nay). Gồm có:

  • Phủ Thường Tín (常信): gồm các huyện Thanh Trì (青池) (Thanh Trì, Hà Nội hiện nay), Thượng Phúc (上福) (Thường Tín, Hà Nội hiện nay), Phú Nguyên (Phú Xuyên, 富川) (tức huyện Phú Xuyên, Hà Nội) Phủ Ứng Thiên (應天), gồm có các huyện: Thanh Oai (青歪) (tức huyện Thanh Oai, Hà Nội), Chương Đức (鄣德) (tức huyện Chương Mỹ, Hà Nội), Sơn Minh (山明) (tức huyện Ứng Hòa, Hà Tây cũ - Hà Nội hiện nay), Hoài An (懷安) (phần nam huyện Ứng Hòa và một phần huyện Mỹ Đức, Hà Nội). Phủ Lị Nhân (莅仁): tương đương tỉnh Hà Nam hiện nay; gồm các huyện: Nam Xang (南昌) (huyện Lý Nhân , Hà Nam hiện nay), Kim Bảng (金榜) (Kim Bảng hiện nay), Duy Tiên (維先) (Duy Tiên hiện nay), Thanh Liêm (清廉) (Thanh Liêm hiện nay), Bình Lục (平陸) (Bình Lục hiện nay).
  • Phủ Khoái Châu (快州): gồm các huyện Đông Yên (東安) (nay là huyện Khoái Châu thuộc Hưng Yên), Kim Động (金洞) (Kim Động hiện nay), Tiên Lữ (仙侶) (Tiên Lữ hiện nay), Thiên Thi (天施) (Ân Thi hiện nay), Phù Dung (芙蓉) (Phù Cừ hiện nay).

Sơn Nam hạ

Lộ Sơn Nam hạ (山南下) tách ra từ thời Lê Hiển Tông, gồm các phủ:

  • Phủ Thiên Trường (天長) (một phần Nam Định hiện nay): gồm các huyện Tây Chân (西眞) (Nam Trực và Trực Ninh hiện nay), Giao Thủy (蛟水) (Giao Thủy và Xuân Trường hiện nay), Mỹ Lộc (美祿) (Mỹ Lộc hiện nay), Thượng Nguyên (上元) (nam Mỹ Lộc hiện nay)
  • Phủ Nghĩa Hưng (義興) (tức phủ Kiến Hưng thời Trần, một phần Nam Định hiện nay): gồm các huyện Đại An (大安) (Nghĩa Hưng hiện nay), Vọng Doanh (望瀛) (nam Ý Yên hiện nay), Thiên Bản (天本) (Vụ Bản hiện nay), Ý Yên (bắc Ý Yên hiện nay)
  • Phủ Thái Bình (太平) (tỉnh Thái Bình hiện nay): gồm các huyện Thụy Anh (瑞英) (Thái Thụy hiện nay), Thanh Lan (青蘭) (Thái Thụy hiện nay), Phụ Dực (附翼) (Quỳnh Phụ hiện nay), Quỳnh Côi (琼𩲡) (Quỳnh Phụ hiện nay), Đông Quan (東關) (Đông Hưng hiện nay).
  • Phủ Tân Hưng (新興) (phía tây bắc Thái Bình hiện nay): gồm các huyện: Ngự Thiên (御天) (Hưng Hà hiện nay), Duyên Hà (延河) (Hưng Hà hiện nay), Thần Khê (神溪) (Đông Hưng hiện nay).
  • Phủ Kiến Xương (建昌) (nam Thái Bình hiện nay) gồm các huyện: Thư Trì (舒池) (Vũ Thư hiện nay), Vũ Tiên (武仙) (Vũ Thư hiện nay), Chân Định (眞定) (Kiến Xương hiện nay).

Kinh Bắc

Trấn Kinh Bắc (京北) gồm có các phủ:

  • Phủ Từ Sơn (慈山) gồm các huyện Đông Ngàn (東岸) (huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh và huyện Kim Anh của tỉnh Phúc Yên cũ, tức là một phần huyện Sóc Sơn, Hà Nội hiện nay), Yên Phong (安豐) (Yên Phong hiện nay), Tiên Du (仙逾) (Tiên Du hiện nay), Võ Giàng (武江) (một phần Quế Võ hiện nay), Quế Dương (桂楊) (một phần Quế Võ hiện nay).
  • Phủ Thuận An (順安) gồm các huyện: Gia Lâm (嘉林) (Gia Lâm hiện nay), Siêu Loại (超類) (Thuận Thành hiện nay), Văn Giang (文江) (Văn Giang hiện nay), Gia Định (嘉定) (Gia Bình hiện nay), Lương Tài (良才).
  • Phủ Bắc Hà (北河) gồm các huyện: Tân Phúc (Tiên Phúc (先福)) (Đa Phúc cũ, một phần Sóc Sơn hiện nay), Kim Hoa (金華) (một phần Sóc Sơn hiện nay), Hiệp Hòa (洽和) (Hiệp Hòa hiện nay), Yên Việt (安越) (Việt Yên hiện nay).
  • Phủ Lạng Giang (諒江) gồm các huyện Phượng Nhãn (鳳眼) (một phần Yên Dũng hiện nay), Yên Dũng (安勇) (vốn sáp nhập từ hai huyện Yên Ninh (安寧) và Cổ Dũng đời nhà Hồ), Hữu Lũng (右隴) (Hữu Lũng hiện nay), Bảo Lộc (保祿) (Lạng Giang hiện nay), Yên Thế (安世) (Yên Thế và Tân Yên hiện nay), Lục Ngạn (陸岸) (Lục Ngạn hiện nay).

Sơn Tây

Trấn Sơn Tây (山西) gồm các phủ:

  • Phủ Quốc Oai (國威) gồm các huyện: Từ Liêm (慈廉) (Từ Liêm hiện nay), Thạch Thất (石室) (Thạch Thất hiện nay), Đan Phượng (丹鳳) (Đan Phượng hiện nay), Mỹ Lương (美良) (Mỹ Đức, Hà Nội và Lương Sơn, Hòa Bình hiện nay), Phúc Lộc (福祿) (Phúc Thọ hiện nay)
  • Phủ Tam Đới (三帶) gồm có các huyện: Yên Lãng (安朗) (Yên Lãng hiện nay), Yên Lạc (安樂) (Yên Lạc hiện nay), Bạch Hạc (白鶴) (Vĩnh Tường hiện nay), Lập Thạch (立石) (Lập Thạch hiện nay), Phù Khang (扶康, là tên gọi trong giai đoạn Lê trung hưng 1592-1788) (Phù Ninh hiện nay)
  • Phủ Thao Giang (洮江) gồm các huyện Sơn Vi (山闈) (Lâm Thao hiện nay), Thanh Ba (青波) (Thanh Ba hiện nay), Hoa Khê (華溪) (Cẩm Khê hiện nay), Hạ Hoa (夏華) (Hạ Hòa hiện nay), Tam Nông (三農) (Tam Nông hiện nay).
  • Phủ Đoan Hùng (端雄) gồm các huyện: Đông Quan (東關, nguyên là huyện Đông Lan (東蘭) trước năm 1498 thời Lê sơ) (tương đương khu vực ngã ba sông Lô và sông Chảy hiện nay), Tây Quan (西關, nguyên là huyện Tây Lan (西蘭) trước năm 1498 thời Lê sơ) (hữu ngạn sông Lô cạnh Phù Ninh hiện nay), Sơn Dương (山陽) (Sơn Dương thuộc Tuyên Quang hiện nay), Đương Đạo (當道) (đông bắc Sơn Dương hiện nay), Tam Dương (三陽) (Tam Dương, Vĩnh Phúc hiện nay)
  • Phủ Quảng Oai (廣威) gồm các huyện Minh Nghĩa (明義) (tức thị xã Sơn Tây và một phần Ba Vì hiện nay), Tân Phong (Tiên Phong (先豊), đổi tên năm 1600) (một phần Ba Vì hiện nay). Sau những năm 1705-1720 (niên hiệu Vĩnh Thịnh), phủ Quảng Oai sáp nhập thêm huyện Bất Bạt (不拔) từ phủ Đà Giang.
  • Phủ Đà Giang (沱江) (tồn tại đến những năm 1705, trước gồm hai huyện Tam Nông và Bất Bạt).

Hải Dương

Trấn Hải Dương (海陽) gồm các phủ:

  • Phủ Thượng Hồng (上洪) gồm các huyện: Đường Hào (唐豪) (Mỹ Hào hiện nay), Đường Yên (唐安) (Bình Giang hiện nay), Cẩm Giàng (錦江) (Cẩm Giàng hiện nay).
  • Phủ Hạ Hồng (下洪) gồm các huyệnː Gia Phúc (嘉福), Thanh Miện (青沔) (Thanh Miện hiện nay), Tứ Kỳ (四岐, Tứ Kỳ hiện nay), Vĩnh Lại (永賴) (Vĩnh Bảo, Hải Phòng hiện nay).
  • Phủ Nam Sách gồm các huyện: Thanh Lâm (青林) (Nam Sách hiện nay), Chí Linh (至灵) (Chí Linh hiện nay), Thanh Hà (青河, nguyên là Bình Hà (平河) trước năm 1600) (Thanh Hà hiện nay), Tiên Minh (Tân Minh (新明) trước năm 1600) (Tiên Lãng, Hải Phòng hiện nay).
  • Phủ Kinh Môn (荊門) gồm các huyện: Giáp Sơn (夹山) (Kinh Môn hiện nay), Đông Triều (東潮) (Đông Triều hiện nay), An Lão (安老) (An Lão hiện nay), Nghi Dương (宜陽) (Kiến Thụy hiện nay), Kim Thành (Kim Thành hiện nay), Thủy Đường (水棠) (Thủy Nguyên hiện nay), An Dương (安陽) (An Dương hiện nay).

An Quảng

Trấn An Quảng, trước năm 1600 có tên là trấn An Bang (安邦), gồm có 1 phủ:

  • Phủ Hải Đông (海東) gồm các huyện: Hoành Bồ (橫蒲) (Hoành Bồ hiện nay), Yên Hưng (安興) (Yên Hưng hiện nay), Hoa Phong (花封) (Cát Hải hiện nay) và các châu: Tiên Yên (先安州) (huyện Tiên Yên hiện nay), Vạn Ninh (萬寧) (Móng Cái hiện nay), Vĩnh An (永安州) (thuộc Quảng Tây, Trung Quốc hiện nay), Vân Đồn (雲吨) (cù lao Lợn Lòi phía đông vịnh Bái Tử Long).

Lạng Sơn

Trấn Lạng Sơn (諒山) gồm 1 phủ:

  • Phủ Trùng Khánh (重慶) (tỉnh Lạng Sơn hiện nay) gồm các châu: Thất Tuyền (七泉, vốn là Thất Nguyên trước thời nhà Mạc) (huyện Tràng Định hiện nay), Văn Uyên (文淵) (huyện Văn Lãng hiện nay), Thoát Lãng (脫朗), Văn Lan (文蘭) (một phần Chi Lăng và Văn Quan hiện nay), Ôn (温州) (một phần Chi Lăng hiện nay), Lộc Bình (祿平) (Lộc Bình và Cao Lộc hiện nay), An Bác (安搏) (Đình Lập và huyện Sơn Động, Bắc Giang hiện nay).

Thái Nguyên

Trấn Thái Nguyên (thời Lê sơ từng là Ninh Sóc (寧朔)) gồm các phủ:

  • Phủ Phú Bình (富平) gồm các huyện Phổ Yên (普安) (Phổ Yên thuộc Thái Nguyên hiện nay), Đại Từ (大慈) (Đại Từ thuộc Thái Nguyên hiện nay), Tư Nông (司農) (Phú Bình hiện nay), Bình Tuyền (平泉, trước thời nhà Mạc là Bình Nguyên) (Bình Xuyên, Vĩnh Phúc hiện nay), Đồng Hỷ (同喜) (Đồng Hỷ hiện nay), Phú Lương (富良), Văn Lãng (Văn Lang (文郎)) (ngày nay thuộc đất huyện Đại Từ), Võ Nhai (武崖) (Võ Nhai hiện nay) và châu Định Hóa (定化) (Định Hóa hiện nay).
  • Phủ Thông Hóa (通化) (tỉnh Bắc Kạn hiện nay) gồm huyện Cảm Hóa (感化) (Ngân Sơn và Na Rì hiện nay) và châu Bạch Thông (白通) (Bạch Thông, Chợ Đồn và Chợ Mới hiện nay).

Cao Bình

Từ năm 1677 sau khi dẹp họ Mạc cát cứ, lập ra trấn Cao Bình (高平) (tương đương tỉnh Cao Bằng hiện nay), gồm các châu: Thạch Lâm (石林) (Hòa An, Nguyên Bình và Thạch An hiện nay), Quảng Uyên (Nguyên) (廣源) (Quảng Uyên và Phục Hòa hiện nay), Thượng Lang (上琅) (Trà Lĩnh và Trùng Khánh hiện nay), Hạ Lang (下琅) (Hạ Lang hiện nay).

Tuyên Quang

Trấn Tuyên Quang (宣光, có thời gọi là Minh Quang (明光), thời chúa Bầu cát cứ gọi là dinh An Tây (An Tây thừa tuyên, 安西丞揎) gồm có 1 phủ:

  • Phủ Yên Bình (安平) gồm huyện Phúc Yên (福安) (Yên Sơn và Hàm Yên hiện nay), và các châu: Vị Xuyên (渭川, nguyên là châu Bình Nguyên (平原) thời Hồng Đức (1470-1497) nhà Lê sơ) (Vị Xuyên và Hoàng Su Phì thuộc Hà Giang hiện nay), Lục Yên (陸安), Thu Vật (收芴) (Yên Bình thuộc Yên Bái hiện nay), Đại Man (大蠻) (Chiêm Hóa hiện nay), Bảo Lạc (保樂) (Bảo Lạc thuộc Cao Bằng hiện nay).

Hưng Hóa

Bản đồ Phủ An Tây trấn Hưng Hóa của Đại Việt thời Hậu Lê cho đến giữa thế kỷ 17. Bản đồ châu Thủy Vĩ phủ Quy Hóa trấn Hưng Hóa nước Đại Việt thời Hậu Lê cho đến gữa thế kỷ 17. Trấn Hưng Hóa (興化) gồm các phủ:

  • Phủ Thiệu Thiên (Thiệu Hóa) gồm các huyện Thụy Nguyên (từng mang tên Ứng Thụy và Lương Giang, tức các Thiệu Hóa và Ngọc Lặc), Vĩnh Ninh (huyện Vĩnh Lộc), Đông Sơn, Lôi Dương (huyện Thọ Xuân và một phần huyện Thường Xuân), Yên Định, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Bình Giang (tây bắc huyện Thạch Thành). Phủ Hà Trung có các huyện: Hoằng Hóa, Thuần Hựu (huyện Hậu Lộc), Tống Sơn (huyện Hà Trung), Nga Sơn. Phủ Tĩnh Gia có các huyện: Nông Cống (các huyện Nông Cống, Triệu Sơn và Như Xuân), Ngọc Sơn (thị xã Nghi Sơn), Quảng Xương. *Phủ Thanh Đô có huyện Thọ Xuân (huyện Thường Xuân, khác với huyện Thọ Xuân thuộc phủ Thiệu Thiên) và các châu: Quan Gia (gần biên giới Lào hiện nay), Tầm (tây bắc huyện Quan Hóa), Lang Chánh, Sầm (Sầm Nưa thuộc Lào hiện nay).

Nghệ An

Xứ Nghệ An (乂安) tương đương hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay, gồm các phủ:

  • Phủ Diễn Châu (演州) gồm các huyện Đông Thành (Diễn Châu và Yên Thành hiện nay), Quỳnh Lưu (Quỳnh Lưu và một phần Nam Đàn hiện nay)
  • Phủ Anh Đô (英都) gồm các huyện: Hưng Nguyên (Hưng Nguyên hiện nay), Nam Đường (Anh Sơn và Nam Đàn hiện nay)
  • Phủ Đức Quang gồm các huyện Thiên Lộc (Can Lộc hiện nay), Chân Phúc (Nghi Lộc hiện nay), Thanh Chương (Thanh Chương hiện nay), Hương Sơn (Hương Sơn và Hương Khê hiện nay), Nghi Xuân (Nghi Xuân hiện nay).
  • Phủ Hà Hoa gồm các huyện Thạch Hà (Thạch Hà hiện nay), Kỳ Hoa (Kỳ Anh và Cẩm Xuyên hiện nay).
  • Phủ Quỳ Châu (葵州) (huyện Quỳ Châu hiện nay), gồm các huyện Thúy Vân và Trung Sơn.
  • Phủ Trà Lân (茶麟) gồm 4 huyện Tương Dương (Tương Dương hiện nay), Kỳ Sơn (Kỳ Sơn hiện nay), Vĩnh Khang (một phần Tương Dương hiện nay), Hội Nguyên (tả ngạn sông Lam từ Thanh Chương đến cửa Rào)
  • Phủ Ngọc Ma (玊麻) gồm có châu Trịnh Cao (châu gồm 12 động) thuộc Lào hiện nay).
  • Phủ Lâm An (臨安) chỉ có 1 châu Quy Hợp (歸合) gồm 12 động và 11 sách, vốn là đất Bồn Man nay khoảng huyện Hương Khê Hà Tĩnh và huyện Nakai Khăm Muộn Lào, đầu nguồn của sông Ngàn Sâu
  • Phủ Trấn Ninh (鎮寜): gồm 7 huyện đặt năm 1480 thời Hồng Đức nhà Lê sơ: Quang Vinh (光荣), Minh Quảng (明廣), Cảnh Thuần (景淳), Kim Sơn (金山), Thanh Vị (清渭), Châu Lang (珠琅), Trung Thuận (忠顺), đều thuộc Xiêng Khoảng Lào hiện nay).
  • Phủ Trấn Biên: thuộc đất Hủa Phăn Lào hiện nay.
  • Ngoài ra, còn có Châu Bắc Bố Chính (thị xã Ba Đồn và các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa thuộc tỉnh Quảng Bình hiện nay) vốn thuộc trấn Thuận Hóa.

Bộ máy chính quyền địa phương

Cơ quan cấp trấn

Đứng đầu các trấn là các cơ quan Trấn ty, Thừa ty và Hiến ty. Trấn ty có nhiệm vụ như Đô ty thời Lê Thánh Tông, là giữ binh quyền và phụ trách tuần phòng địa phương.

Đứng đầu cơ quan Trấn ty là quan Trấn thủ, Đốc trấnLưu thủ. Các trấn gần thì đặt chức Trấn thủ nhưng các trấn xa thì đặt chức Đốc trấn; với Thanh Hoa là đất căn bản thì đặt chức Lưu thủ. Tuy tên gọi khác nhau nhưng thực chất nhiệm vụ thì như nhau. Chức quan trấn thủ ở địa phương là quan trọng nhất nên các chúa Trịnh chỉ dùng người thân thích và tin cậy vào chức vụ này.

Sang thời Trịnh Cương đặt thêm chức Tuần thủ ở các trấn để đi tuần phòng. Đến thời Trịnh Giang đổi gọi các chức Lưu thủ, Trấn thủ, Đốc trấn thành Đốc phủ. Ngoài ra tại các trấn còn có chức Đốc đồng (coi việc kiện cáo); tại trấn lớn như Nghệ An đặt thêm chức Đốc thị coi việc biên cương, lấy cả quan văn vào làm.

Sang niên hiệu Cảnh Trị thời Lê Huyền Tông (1663-1672), chúa Trịnh Tạc đề ra quy định khảo xét Xã trưởng 3 năm 1 lần; những ai có thành tích được thăng làm quan huyện.

Sau khi Trịnh Cương mất (1729), chính sự thời Trịnh Giang suy đồi, phép khảo xét định kỳ đối với Xã trưởng không thực hiện. Bộ máy cấp xã dần dần thêm lỏng lẻo, chức Xã trưởng cũng không được coi trọng. Sang thời Lê Thuần Tông (1732 – 1735), Trịnh Giang để cho nhân dân địa phương hoàn toàn tự quyết việc lập Xã trưởng. Chính quyền càng ngày càng không quản lý nổi địa bàn cấp xã, thôn.

Việc để mất lãnh thổ phía bắc sang Trung Quốc trong các thế kỷ 17, 18

Việc để mất 6-7 châu (các châuː Hợp Phì, Tung Lăng (còn gọi là Cao Lăng), Quảng Lăng, Tuy Phụ, Hoàng Nham, Lễ Tuyền và Khiêm) thuộc phủ An Tây trấn Hưng Hóa vào khoảng giữa thế kỷ 17, thường được các sử quan triều đình vua Lê - chúa Trịnh chép trong chính sử nhà Lê trung hưng là do Hoàng Công Toản con trai Hoàng Công Chất sau khi bị quân triều đình đánh dẹp, chạy sang Vân Nam Trung Quốc và dâng các đất đai vùng tây bắc Đại Việt này cho nhà Thanh.

phải|Ức Trai di tập, Quyển 6 trang 15-18, địa dư chí viết về Hưng Hóa và Tuyên Quang. phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**Hành chính Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương ở Đàng Trong - miền Đại Việt từ sông Gianh trở vào, thuộc quyền cai
nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông **Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong
thumb|Sứ thần triều cống và chức sắc [[Chăm pa, Lan Xang, Ayutthaya, Taungoo, Demak, Khơme, Lan Na, Ba Tư, Lưu Cầu,... yết kiến triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa (tranh thế kỷ 16)]] **Thương
**Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không
**Tôn giáo Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Ngoài nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chính quyền vua Lê
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
nhỏ|600x400px|_Võ quan vinh quy đồ_ (**武官榮歸圖**) **Võ học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh việc đào tạo và thi cử võ bị của chính quyền Lê-Trịnh trong lịch sử Việt Nam. ## Trước
**Khoa học kỹ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các thành tựu về sử học, y học và khoa học quân sự miền Bắc nước Đại Việt dưới quyền cai quản của
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, nông nghiệp Đại Việt thời Lê trung hưng bao gồm 2 nội dung _nông nghiệp Đàng Ngoài_ và nông nghiệp Đàng Trong. Nông
nhỏ|phải|"Văn quan vinh quy đồ (文官榮歸圖)". quan văn diễu hành, Nghệ An thế kỷ 18 Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục thi cử của Đàng Ngoài** và
**Tiền tệ Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. Từ đầu
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
**Thương mại Đàng Trong thời Lê trung hưng** bao gồm các hoạt động thương mại trong và ngoài nước của miền nam Đại Việt thời Lê trung hưng dưới quyền cai quản của các chúa
**Văn học Đàng Trong thời Lê trung hưng** là một giai đoạn của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Trong nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chúa Nguyễn cai quản.
Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục khoa cử của Đàng Trong** và Đàng Ngoài hoàn toàn tách biệt dưới hai chế độ cai trị của chúa Nguyễn
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, **nông nghiệp Đại Việt** thời Lê trung hưng bao gồm 2 bộ phận: nông nghiệp Đàng Ngoài và **nông nghiệp Đàng Trong**. Nông
nhỏ|Diễu binh ở phủ chúa Trịnh **Quân đội nhà Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều
phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688. **Ải Lê
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
**Hành chính Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh bộ máy chính quyền trung ương tới địa phương của hai triều đình Lê-Mạc từ năm 1527-1592 trong lịch sử Việt Nam. Bộ máy hai
**Phân cấp hành chính thời quân chủ Việt Nam** được tính từ khi Việt Nam giành được độc lập sau thời kỳ bắc thuộc đến khi người Pháp xâm lược và chiếm đóng hoàn toàn
nhỏ|Đàng Ngoài và [[Đàng Trong (1757)]] nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ Đàng Ngoài (Tonkin), cùng [[Đàng Trong (Cochinchina) và Lào, năm 1771.]] phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam, Ai Lao (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Xã trưởng thời Hậu Lê** trong lịch sử Việt Nam là chức quan được giao nhiệm vụ quản lý xã – đơn vị hành chính cấp trên thôn và dưới hương. Chức này không phải
**Hành chính Việt Nam thời Lý** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương của nước Đại Việt thời nhà Lý (1009-1225) trong lịch sử Việt Nam. Từ thời nhà Đinh,
**Hành chính Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam từ năm 980 đến năm 1009 trong lịch sử Việt Nam. ## Chính
**Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn** ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của nhà Tây Sơn từ năm 1778 đến năm 1802, không chỉ giới hạn trong phạm vi
Vườn hoa Thủy Vĩ thành phố Lào Cai, mang tên gọi của huyện (châu) Thủy Vĩ phủ Quy Hóa trấn Hưng Hóa Đại Việt- Việt Nam xưa, nằm dọc bờ trái dòng sông Nậm Thy
**Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài** là phong trào nổi dậy của nông dân miền Bắc nước Đại Việt giữa thế kỷ 18 thời vua Lê chúa Trịnh, hay thời Lê mạt, bắt đầu từ
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3** phản ánh bộ máy cai trị tại Việt Nam của hai triều đại phương Bắc là nhà Tùy và nhà Đường từ năm 602 đến năm
**Lê Duy Mật** (黎維樒, ? – 1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến
**Tiền tệ Đại Việt thời Lê sơ** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê sơ (1428-1527) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống
Tùy theo quan điểm của các sử gia, thời kỳ Bắc thuộc lần 1 của Việt Nam kéo dài ít nhất là 150 năm và lâu nhất là 246 năm (xem bài _Bắc thuộc lần
**Đặng Trần Côn** là tác giả của Chinh phụ ngâm, kiệt tác văn học viết bằng chữ Hán của Việt Nam. Tiểu sử của Đặng Trần Côn cho đến nay biết được còn rất ít.
**Hà Nội** là thủ đô, là thành phố trực thuộc trung ương và cũng là một đô thị loại đặc biệt của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội nằm về
nhỏ|Bản đồ hành chính tỉnh [[Nam Định]] **Nam Định** là một tỉnh cũ thuộc vùng nam đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. ## Lịch sử tổ chức hành chính ### Trước khi thành lập tỉnh
Địa danh **Hà Tĩnh** xuất hiện từ năm 1831, khi vua Minh Mệnh chia tách Nghệ An để đặt tỉnh Hà Tĩnh. Tuy nhiên, vùng đất Hà Tĩnh đã được hình thành và phát triển
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Hưng Yên** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. ## Trước khi thành lập tỉnh Nguyên xưa, vùng đất Hưng Yên thuộc đất Sơn Nam. Sách Đại Nam Nhất thống chí chép vùng
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Đồng Nai** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, miền Nam Việt Nam. ## Thời Chúa Nguyễn và Nhà Tây Sơn Năm Mậu Dần **1698**, chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Nông nghiệp Đại Việt thời Tây Sơn** phản ánh chính sách và kết quả hoạt động nông nghiệp nước Đại Việt từ năm 1778 đến năm 1802, không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ