Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, nông nghiệp Đại Việt thời Lê trung hưng bao gồm 2 nội dung nông nghiệp Đàng Ngoài và nông nghiệp Đàng Trong.
Nông nghiệp Đàng Ngoài phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp của miền bắc nước Đại Việt thời Lê trung hưng, dưới quyền cai quản thực sự của chúa Trịnh, trong khoảng thời gian từ 1592 đến 1786.
Chế độ ruộng đất
Từ thời nhà Mạc, do chiến tranh, triều đình phải ưu tiên quân sĩ khi thực hiện chính sách quân điền (chia ruộng công ở làng xã). Ruộng còn lại để chia cho dân đinh không được bao nhiêu. Sang thời Lê trung hưng, các chúa Trịnh vẫn tiếp tục phải ưu đãi binh lính vì các cuộc nội chiến trong nước còn tiếp diễn.
Đối với các công thần có công lao trung hưng nhà Lê, triều đình cũng áp dụng ban lộc điền như thời Lê Sơ nhưng quy mô ít hơn, mỗi lần cấp chỉ được khoảng 50 mẫu; hoặc thay vào đó là thưởng công bằng tiền hoặc bằng thóc.
Nhiều quý tộc và quan lại sau khi được cấp ruộng, khi chết không trả lại cho triều đình. Năm 1670, Trịnh Tạc ban hành mức thuế cho loại ruộng "miễn hoàn" (tha không phải trả lại cho triều đình khi người được cấp chết), chính thức thừa nhận sở hữu ruộng đất công của những người này.
Để bảo đảm thu nhập của triều đình, trừ các ruộng công thần, ruộng binh lính, chúa Trịnh cho thu thuế tất cả các loại ruộng khác, kể cả ruộng thế nghiệp, ruộng công, ruộng cấp tứ... Năm 1664, theo đề nghị của Phạm Công Trứ, nhà Lê ban hành phép "bình lệ". Theo đó, khi thống kê chỉ kê số dân đinh, số ruộng ở các xã rồi từ đó tính toán và ấn định số thuế phải nộp của xã đó. Số lượng thu đó được duy trì trong các năm tiếp theo, không cần tính tới sự thay đổi về số đinh hay thay đổi về ruộng đất của xã. Cách thu này dẫn đến sự thao túng, gian lận ruộng đất và các dân đinh của chức dịch ở làng xã, đồng thời xảy ra nạn bất công trầm trọng, đời sống nhân dân càng khó khăn.
Từ thế kỷ 17 sang thế kỷ 18, tình trạng tư hữu hóa ruộng đất càng nhiều, các quan lại, địa chủ nắm giữ phần lớn ruộng tư. Họ thường ép giá những người dân nghèo khổ phải bán ruộng đất để thôn tính đất đai. Năm 1711, theo đề nghị của Nguyễn Quý Đức, triều đình ban hành lại phép quân điền của thời Lê Sơ để ngăn chặn tình trạng này. Theo chính sách đó, người đã được cấp đủ ruộng tư hoặc ruộng lộc thì thôi không được cấp nữa. Dân đinh từ 18 tuổi trở lên được ban ruộng khẩu phần, đến 60 tuổi thì trả lại cho làng xã. Cách chia và khẩu phần thực hiện 6 năm 1 lần. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách quân điền năm 1711 không thực hiện được như mục đích ban đầu của triều đình, việc thôn tính đất đai vẫn diễn ra mạnh mẽ. Ruộng công sau khi phân cho quân lính còn lại rất ít cho dân, triều đình cũng không can thiệp vào việc chia đất ở làng xã như thời Lê Sơ nữa. Sau này Trịnh Doanh lên ngôi (1740) cũng ban hành phép "tỉnh điền" để lập lại công bằng nhưng cũng không thực hiện được.
Năm 1723, Trịnh Cương ban hành biểu thuế ruộng mới khá chi tiết. Theo biểu này, các quý tộc và quan lại được miễn thuế ruộng tư với diện tích nhất định theo phẩm hàm, cao nhất là nhất phẩm được miễn 25 mẫu. Các quan hầu trong cung và phụ nữ quý tộc được miễn tương ứng, với số gấp đôi (cao nhất là 50 mẫu). Nếu viên quan nào có quá nhiều ruộng tư quá số quy định thì phải nộp thuế trên số vượt quá đó; người nào có ít ruộng tư hơn mức được hưởng thì được thêm tiền theo phẩm trật. Riêng với vùng Thanh Nghệ - nơi trưng tập binh lính nanh vuốt của triều đình - mãi đến tận năm 1780 mới bắt đầu thu thuế ruộng tư.
Việc thu thuế ruộng tư nhằm giảm bớt sự bất công do chính sách miễn thuế ruộng tư từ thời Lê sơ gây ra và tăng thu cho ngân khố triều đình.
Sản xuất nông nghiệp
Thủy lợi và khai hoang
Kể từ khi đánh bại nhà Mạc, làm chủ vùng Bắc bộ, chính quyền Lê-Trịnh đã có nhiều cố gắng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất nông nghiệp.
Năm 1596, Lê Thế Tông ra chiếu tha lao dịch cho người dân lưu tán trở về quê trong 3 năm. Năm 1707, triều đình lại có lệnh: tha phú thuế và lao dịch cho dân lưu tán trong 3 năm, người trở về quá nghèo khổ cũng được miễn thuế trong 3 năm. Năm 1730, triều đình có lệnh: các làng ly tán nếu trở về đông đủ đúng hạn sẽ được thưởng, nếu không về đúng hạn sẽ bị phạt.
Đối với việc thủy lợi, triều đình Lê-Trịnh cũng quan tâm. Khi thời tiết hạn hán nặng, triều đình cử quan xuống các đạo xem xét và sai làm xe tát nước để chống hạn. Việc tuần tra, sửa chữa đê điều cũng thực hiện thường xuyên. Từ đầu thời Lê trung hưng không có chức quan chuyên trách đê điều như thời nhà Trần và thời Lê Sơ. Năm 1741, Trịnh Doanh lên ngôi chúa mới đặt ra chức Nông quan ở tứ trấn và chức quan Hà đạo trông coi sông ngòi và đường thủy.
Để đảm bảo cuộc sống, người nông dân Đàng Ngoài phải cố gắng khai hoang phục hóa đất đai để mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp. Vì thiếu đất nên mỗi người chỉ được một miếng đất nhỏ, người nông dân phải xen canh tăng vụ, tận dụng tối đa mảnh đất, mỗi năm thường thu hoạch 2-3 vụ.
Việc khai hoang đã mở thêm nhiều diện tích canh tác ở Sơn Nam, vùng trung du Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang... Nhiều làng mới được thành lập.
Kỹ thuật
Kỹ thuật sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng đạt trình độ khá cao. Phương pháp cày cấy chủ yếu dựa vào sức người, nông cụ giản đơn như liềm, cuốc, cày, bừa, hái.
Điểm tiến bộ là người nông dân đã cải tạo được nhiều giống lúa phù hợp với từng loại đất và đồng ruộng. Đến thế kỷ 18 đã có 64 giống lúa các loại, gồm 27 giống lúa mùa, 8 giống lúa chiêm, 29 giống lúa nếp; trong đó có nhiều giống lúa ngắn ngày. Trình độ thâm canh của nông dân khá cao. Giá trị nông sản tạo ra trên 1 khoảnh ruộng là hơn 200 quan. Ngay cả những vùng đất xấu như Nghệ An, người dân cũng biết cách canh tác thích hợp.
Kỹ thuật canh tác bước đầu đã được tổng kết lại. Lễ Bộ thượng thư Trần Cảnh, người làng Điền Trì, huyện Chí Linh (Hải Dương) đã viết cuốn Minh nông phả nói về thời tiết và kinh nghiệm với nghề nông.
Các loại cây trồng
Cây nông nghiệp
Ngoài lúa, nông dân còn trồng những cây lương thực khác như khoai lang, khoai sọ, khoai môn, sắn, củ mài và ngô. Lê Quý Đôn cho biết: từ cuối thế kỷ 17, cây ngô mới được du nhập vào Đại Việt do Tiến sĩ Trần Thế Vinh đi sứ nhà Thanh mang về.
Các loại rau được trồng phổ biến là rau muống (thả bè nổi trên ao hồ) và cà. Đậu do người Hà Lan mang đến, ban đầu được trồng thử ở vùng bãi sông Hải Dương, sau nhanh chóng lan ra nhiều nơi. Su hào và bắp cải cũng là những loại rau du nhập được trồng phổ biến.
Những nơi trồng nhiều chè có Am Thiềm, Am Giới, Am Các (huyện Ngọc Sơn, Thanh Hóa); làng Đông Lạc huyện Kim Hoa, làng Lương Quy huyện Đông Ngàn, làng Chi Nê huyện Mỹ Lương, làng Tuy Lai và Thượng Lâm huyện Chương Đức...
Kết quả
Do chính sách khuyến nông và sức lao động chăm chỉ của người dân, đến đầu thế kỷ 18, nông nghiệp Đàng Ngoài có những tiến bộ đáng kể.
Giáo sĩ Martini đến Đàng Ngoài thế kỷ 18 cũng ghi nhận:
:Đất đai màu mỡ không lúc nào nghỉ sản xuất... Người dân hiểu giá trị của ruộng đất nên không bao giờ họ bỏ đất hoang. Mỗi năm họ thường làm được 2 đến 3 vụ lúa.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, nông nghiệp Đại Việt thời Lê trung hưng bao gồm 2 nội dung _nông nghiệp Đàng Ngoài_ và nông nghiệp Đàng Trong. Nông
**Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không
Do nước Đại Việt bị chia cắt từ đầu thế kỷ 17, **nông nghiệp Đại Việt** thời Lê trung hưng bao gồm 2 bộ phận: nông nghiệp Đàng Ngoài và **nông nghiệp Đàng Trong**. Nông
thumb|Sứ thần triều cống và chức sắc [[Chăm pa, Lan Xang, Ayutthaya, Taungoo, Demak, Khơme, Lan Na, Ba Tư, Lưu Cầu,... yết kiến triều đình nhà Lê ở Thanh Hóa (tranh thế kỷ 16)]] **Thương
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
**Nông nghiệp Đại Việt thời Tây Sơn** phản ánh chính sách và kết quả hoạt động nông nghiệp nước Đại Việt từ năm 1778 đến năm 1802, không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ
nhỏ|Đàng Ngoài và [[Đàng Trong (1757)]] nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ Đàng Ngoài (Tonkin), cùng [[Đàng Trong (Cochinchina) và Lào, năm 1771.]] phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam, Ai Lao (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
**Thủ công nghiệp Đại Việt thời Lê Sơ** chiếm vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế Đại Việt thời Lê Sơ. Có hai loại hình là thủ công nghiệp trong nhân dân và
**Nông nghiệp Đại Việt thời Lý** phản ánh chế độ ruộng đất và việc sản xuất nông nghiệp thời nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. ## Chế độ ruộng đất ### Ruộng công Trong
**Nông nghiệp Đại Việt thời Trần** phản ánh chế độ ruộng đất và việc làm thủy nông thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Chế độ ruộng đất ### Ruộng công Có hai
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh chính sách ruộng đất và kết quả hoạt động nông nghiệp của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn khi còn độc lập, từ năm 1802 đến 1884.
**Nông nghiệp Đại Việt thời Mạc** phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp nước Đại Việt dưới quyền cai quản của nhà Mạc trong khoảng thời gian từ 1527 đến 1592.
**Xã trưởng thời Hậu Lê** trong lịch sử Việt Nam là chức quan được giao nhiệm vụ quản lý xã – đơn vị hành chính cấp trên thôn và dưới hương. Chức này không phải
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Lê Hữu Kiều** (黎有喬, 1691-1760) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lê Hữu Kiều người làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, nay là xã Liêu Xá,
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
## LỊCH SỬ KINH TẾ VIỆT NAM ### Thời mở nước * Kinh tế Việt Nam thời Hồng Bàng và An Dương Vương ### Thời Bắc thuộc + Kinh tế Việt Nam thời Bắc thuộc
nhỏ|350x350px| Một trang trại đô thị ở [[Chicago ]] **Nông nghiệp** **đô thị** **, trồng trọt** **đô thị**, hoặc **làm vườn đô thị** là hoạt động trồng trọt, chế biến và phân phối thực phẩm
**Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn** là cơ quan cũ của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy
**Nguyễn Quý Đức** (chữ Hán: 阮貴德, 1648 -1720), húy là **Tộ** (祚), tự **Bản Nhân** (体仁) hiệu **Đường Hiên** (堂軒), là nhà thơ, nhà giáo, nhà sử học, nhà chính trị Việt Nam thời Lê
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Khuyến nông Việt Nam** là các hoạt động, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp ở Việt Nam. Khuyến nông Việt Nam có lịch sử phát triển từ lâu đời gắn liền với lịch
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
**Trịnh Cương** (chữ Hán: 鄭棡, 9 tháng 7 năm 1686 – 20 tháng 12 năm 1729), còn có tên khác là **Trịnh Chù**, thụy hiệu là **Hy Tổ Nhân vương** (禧祖仁王), là vị chúa Trịnh
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Đại hội đại biểu Đảng bộ trực thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nhiệm kỳ 2020 -2025**, là các đại hội Đảng bộ các tỉnh thành trực thuộc Trung ương Việt Nam và
Hợp Tác Xã Dịch Vụ Nông Nghiệp Tịnh Thới là đơn vị duy nhất được thành lập từ hai hội quán Đồng Tâm và Thịnh Hưng.Chúng tôi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực
**Nguyễn Trù** (chữ Hán:阮儔, 1668-1738), tự **Trung Lượng**, hiệu **Loại Phủ**, **Loại Am**, người phường Đông Tác (Trung Tự), huyện Thọ Xương thuộc kinh thành Thăng Long, là một đại thần dưới triều Lê Trung
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Đỗ Thế Giai** (chữ Hán: 杜世佳, 1709 - 1766) là một đại thần nhà Lê trung hưng. Ông được một số báo mạng cho là người duy nhất thời Lê được phong vương (_Đỗ đại
**Phạm Đình Kính** (chữ Hán: 范廷鏡; 1669-1737), tên khai sinh là **Phạm Kim Kính**, là một vị quan thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Phạm Đình Kính là người tài cao, đức
Vua [[Bảo Đại ngồi trong ngự liễn (kiệu) trên đường tới Đàn Nam Giao làm lễ tế năm 1942]] **Lễ tế giao** (chữ Hán: / ), thường gọi **lễ tế Nam Giao** (chữ Hán: ),
**Nguyễn Cảnh Quế** (1599-1658) là một vị tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, từng giữ chức Tả đô đốc Phó tướng, Phò mã Đô úy tước Liêu quận công. Tổ tiên
**Nguyễn Danh Phương** (阮名芳, 1690-1751), hay còn gọi **Quận Hẻo**, là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ 18. ## Xuất thân Nguyễn Danh Phương là người
**Nguyễn Quang Thuận** (1678 - 1758) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Thượng thư (Bộ trưởng ngày nay) các bộ: Bộ Công, Bộ Lễ,
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Trịnh Sâm** (chữ Hán: 鄭森, 9 tháng 2 năm 1739 – 13 tháng 9 năm 1782), thụy hiệu **Thánh Tổ Thịnh vương** (聖祖盛王), là vị chúa thứ 8 của vương tộc Trịnh cầm quyền ở
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Chế định trách nhiệm dân sự** trong Luật Hồng Đức là tổng thể các quy định của Luật Hồng Đức (Hay còn được gọi là Quốc Triều Hình Luật) quy định các vấn đề liên
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Trịnh Kiểm** (chữ Hán: 鄭檢, 14 tháng 9, 1503 – 24 tháng 3, 1570), tên thụy **Thế Tổ Minh Khang Thái vương** (世祖明康太王), là nhà chính trị, quân sự có ảnh hưởng của Đại Việt
nhỏ|phải| [[Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên]]**Trung Bộ** (hay còn gọi là **miền Trung**) là khu vực địa lý nằm ở phần giữa đất liền của Việt Nam, nối Bắc Bộ