Văn học Đàng Trong thời Lê trung hưng là một giai đoạn của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng từ năm 1593 đến những năm 1770 trong vùng lãnh thổ từ sông Gianh trở vào năm dưới quyền cai quản của chúa Nguyễn.
Thời kỳ đầu
Thế kỷ 17 chứng kiến 2 cuộc nội chiến: giữa họ Trịnh và tàn dư họ Mạc, đồng thời giữa họ Trịnh và họ Nguyễn. Đàng Trong ban đầu chỉ có vùng Thuận - Quảng, sau mới phát triển dần vào phía nam tới Nam Bộ. Do lịch sử mới hình thành, chưa có bề dày văn hiến như Đàng Ngoài, nhìn chung văn thơ Đàng Trong ít thành tựu hơn.
Tiêu biểu nhất thời kỳ đầu trong thế kỷ 17 là Đào Duy Từ với các tác phẩm chữ Nôm "Ngọa Long cương" và "Tư dung vãn". Đây là 2 tập thơ lục bát dài nói lên tâm trạng của kẻ sĩ ẩn dật chờ thời. Đào Duy Từ tự ví mình với Gia Cát Lượng ở đồi Ngọa Long khi chưa ra giúp Lưu Bị. Trong hoàn cảnh đó, ông vẫn tin tưởng sẽ có dịp lập công danh.
Từ cuối thế kỷ 17 sang thế kỷ 18, hòa bình lập lại đánh dấu sự phát triển thịnh vượng nhất của nền văn học cổ điển Việt Nam.
Thời kỳ sau
Ngoài ca dao, tục ngữ, trong văn học dân gian còn có những bài vè, điển hình nhất là bài vè Chàng Lía - thủ lĩnh phong trào chống chúa Nguyễn ở Quảng Ngãi.
Trong dòng văn học chính thống, những tác gia và tác phẩm lớn nhất ở Đàng Trong là Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Cư Trinh và Mạc Thiên Tứ.
Nguyễn Khoa Chiêm
Ông là nhà văn lớn của thời kỳ này với tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí kể về quá trình chống chúa Trịnh, gây dựng cơ nghiệp Đàng Trong của chúa Nguyễn. Nhiều tình tiết trong tác phẩm được xem như tư liệu lịch sử cho đời sau.
Nguyễn Hữu Hào
Là dòng dõi công thần của chúa Nguyễn, tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Song tinh bất dạ.
Song tinh bất dạ viết bằng thể thơ Nôm lục bát xen lẫn những bài thể thơ Đường. Tác phẩm thuật lại sự hưởng lạc của chúa Nguyễn và các đại thần sau khi mở mang được vùng đất phía nam, trong bối cảnh một câu chuyện tình giữa một Nho sinh tên là Song Tinh với cô gái Nhụy Châu. Mối tình đã vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến. Đây được đánh giá là tác phẩm có giá trị lớn nhất cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật.
Nguyễn Cư Trinh
Tác phẩm tiêu biểu của ông là Sãi Vãi viết năm 1751 khi đang là Tuần phủ Quảng Ngãi. Nội dung tác phẩm đề cao tư tưởng Nho giáo, phản đối tầng lớp quan liêu Đàng Trong tôn sùng đạo Phật.
Sãi Vãi được viết theo thể văn thịnh hành ở Đàng Trong là văn hát tuồng đồ - hình thức hát tuồng vốn rất phổ biến trong xã hội khi đó. Đây là một trong những tác phẩm có tác dụng động viên giáo dục trực tiếp với người đương thời.
Ngoài ra, Nguyễn Cư Trinh còn viết thơ chữ Hán với tập thơ Đạm Am thi tập.
Ngô Thế Lân
Ngô Thế Lân là người có tài nhưng không ra làm quan. Tác phẩm ông để lại có Phong trúc tập và Nam hành ký đắc tập. Phong trúc tập của ông ra đời vào lúc xã hội Đàng Trong dưới tay quyền thần Trương Phúc Loan, đứng về phía người lao động, có giá trị tố cáo sự bất lương của giai cấp thống trị. Ngòi bút của Ngô Thế Lân táo bạo và nói thẳng, không úp mở ví von. Nhìn tổng thể, tác phẩm của ông phản ánh sự bất lực của kẻ sĩ trước thời cuộc.
Mạc Thiên Tứ và nhóm Chiêu Anh Các
Là công thần của chúa Nguyễn trong việc gây dựng vùng đất Nam Bộ, Mạc Thiên Tứ đã sáng tác tập thơ Hà Tiên thập cảnh khi đang trấn thủ Hà Tiên.
Tác phẩm là 10 khúc ngâm vịnh cảnh đẹp Hà Tiên vừa theo thể song thất lục bát vừa theo thể Đường luật bát cú. Ông xem đất Hà Tiên đẹp như bức tranh thủy mặc, hơn cả chốn thị thành.
Tư tưởng chủ đạo của Mạc Thiên Tứ trong tập thơ này là tư tưởng an nhàn. Cái an nhàn đó khác với sự an nhàn của các sĩ phu Đàng Ngoài bất mãn với thời cuộc và rút về ở ẩn. Cái an nhàn của Mạc Thiên Tứ xuất phát từ sự mãn nguyện với cuộc sống thanh bình, ấm no.
Thơ của ông tuy không điêu luyện như các nhà thơ đương thời Đàng Ngoài.
Mạc Thiên Tứ đã tập hợp một thi xã là nhóm Chiêu Anh Các đến từ các nơi (Phúc Kiến, Quảng Đông – Trung Quốc và Quy Nhơn, Gia Định – Đàng Trong). Nhóm ban đầu gồm có 25 người Hoa và 6 người Việt, sau đó chọn ra 18 người gọi là Thập bát anh lập làm Chiêu Anh Các.
Hai tập thơ của nhóm để lại là Hà Tiên vịnh tập và Lư Khê nhân điếu. Hà Tiên vịnh tập gồm 320 bài thơ tập trung vào 10 đề tài cảnh được xem là đẹp nhất Hà Tiên:
Kim dư lan đào (đảo Kim Dư chắn sóng)
Bình Sơn điệp thúy (Núi Bình Sơn xanh trập trùng)
Tiêu tự thần trung (tiếng chuông chùa Tiêu)
Giang Thành dạ cổ (tiếng trống canh Giang Thành)
Thạch Động thốn vân (Hang đá nuốt mây)
Chân Nham lạc lộ (Cò đậu Chân Nham)
Đông Hồ ấn nguyệt (Trăng soi Đông Hồ)
Nam Phố trừng ban (Sáng ngời Nam Phố)
Lộc Trĩ thôn cư (cảnh quê Lộc Trĩ)
Lư Khê ngư bạc (xóm chài Ngư Khê)
Lư Khê nhân điếu chỉ có 30 bài phú, đều viết về đề tài Khe Lư. Qua đề tài câu cá của các bài thơ toát lên cảnh sống no đủ, an nhàn, lạc quan yêu đời của các nhà thơ đương thời.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Văn học Đàng Trong thời Lê trung hưng** là một giai đoạn của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
**Văn học Việt Nam thời Lê trung hưng** là sự phản ánh tiến trình văn học Việt Nam thời Lê trung hưng. ## Đặc trưng Do hoàn cảnh lịch sử, nước An Nam bị chia
nhỏ|600x400px|_Võ quan vinh quy đồ_ (**武官榮歸圖**) **Võ học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh việc đào tạo và thi cử võ bị của chính quyền Lê-Trịnh trong lịch sử Việt Nam. ## Trước
**Tiền tệ Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. Từ đầu
thumb|Võ sĩ Đàng Trong thế kỷ 17 trong tranh cuộn Trà ốc tân lục Giao Chỉ độ hàng đồ quyển 朱印船交趾渡航図巻 **Quân đội Đàng Trong thời Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân
**Tôn giáo Đàng Trong thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Trong nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chúa Nguyễn cai quản.
Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục khoa cử của Đàng Trong** và Đàng Ngoài hoàn toàn tách biệt dưới hai chế độ cai trị của chúa Nguyễn
Tranh vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. **Hành chính Đàng Ngoài thời Lê trung hưng**, hay còn gọi là **hành chính Đại Việt thời
**Tôn giáo Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những ảnh hưởng của các tôn giáo đối với lãnh thổ Đàng Ngoài nước Đại Việt thời Lê trung hưng do chính quyền vua Lê
nhỏ|320x320px|Tiền thông dụng thời Lê Trang Tông **Tiền tệ Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê trung hưng (1593-1789) trong
**Thủ công nghiệp Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** có những biến đổi lớn so với thời Lê Sơ, do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây. Không
**Khoa học kỹ thuật Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** phản ánh các thành tựu về sử học, y học và khoa học quân sự miền Bắc nước Đại Việt dưới quyền cai quản của
nhỏ|phải|"Văn quan vinh quy đồ (文官榮歸圖)". quan văn diễu hành, Nghệ An thế kỷ 18 Do nước Đại Việt bị chia cắt thời Lê trung hưng, việc **giáo dục thi cử của Đàng Ngoài** và
Dù Đàng Trong tách thành chính quyền độc lập, **thủ công nghiệp Đàng Trong** về cơ bản cũng có những nét tương đồng so với Đàng Ngoài. Do sự tác động từ sự du nhập
nhỏ|Diễu binh ở phủ chúa Trịnh **Quân đội nhà Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều
**Văn học đời Lê sơ** là một giai đoạn văn học Việt Nam dưới thời kỳ đầu nhà Hậu Lê nước Đại Việt từ năm 1428 đến năm 1527. ## Khái quát Các thể loại
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
Đàng Trong và [[Đàng Ngoài (1757).]] **Đàng Trong** (chữ Nôm: 唐冲), hay **Nam Hà** (chữ Hán: 南河) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt do chúa Nguyễn kiểm soát, xác định từ sông Gianh
**Văn học đời Trần** là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400). ## Tổng quan văn học thời Trần Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều
**Văn học đời Lý** là thời kỳ đầu của nền văn học Việt Nam được hình thành trong giai đoạn lịch sử của nhà Lý (1009-1225). ## Đặc điểm chính :_Về lịch sử, xem bài
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
[[Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1443) niên hiệu Đại Bảo thứ 3, là bia tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam.|phải]] **Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long**, hay **bia
nhỏ|Đàng Ngoài và [[Đàng Trong (1757)]] nhỏ|phải|Bản đồ lãnh thổ Đàng Ngoài (Tonkin), cùng [[Đàng Trong (Cochinchina) và Lào, năm 1771.]] phải|nhỏ|Bản đồ vẽ [[Vân Nam, Ai Lao (phía dưới) và Miền Bắc Việt Nam
phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688. **Ải Lê
**Tiền tệ Đại Việt thời Lê sơ** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lê sơ (1428-1527) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống
**Xã trưởng thời Hậu Lê** trong lịch sử Việt Nam là chức quan được giao nhiệm vụ quản lý xã – đơn vị hành chính cấp trên thôn và dưới hương. Chức này không phải
**Đặng Trần Côn** là tác giả của Chinh phụ ngâm, kiệt tác văn học viết bằng chữ Hán của Việt Nam. Tiểu sử của Đặng Trần Côn cho đến nay biết được còn rất ít.
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
**Văn hóa Lê–Mạc** (hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lê–Mạc** hay cụ thể hơn nữa là **Thời kỳ chuyển giao Lê–Mạc**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
** Lê Trọng Thứ** hay ** Lê Phú Thứ** (1693 – 1783), đôi khi còn gọi là ** Lê Trung Hiến**, là quan đại thần thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Quý Kiệt hoàn dân Thì Trung phát phối** (chính văn: 貴傑還民時中發配) là nhan đề học giới đặt cho một văn tự án chấn động Bắc Hà năm 1775. ## Lịch sử Theo _Tứ bình thực
**Văn học tiếng Latinh** hay **văn học Latin/Latinh** bao gồm các bài tiểu luận, lịch sử, thơ ca, kịch và các tác phẩm khác được viết bằng ngôn ngữ Latinh. Sự khởi đầu của văn
**Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954** gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng căn bản và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội Việt Nam:
**Văn học Mỹ** trong bài viết này có ý nói đến những tác phẩm văn học được sáng tác trong lãnh thổ Hoa Kỳ và nước Mỹ thời thuộc địa. Để bàn luận chi tiết
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
nhỏ|Đá khắc chữ Rune **Văn học Thụy Điển** bắt đầu từ hòn đá khắc chữ Rune ở Rök và bao gồm nhiều nhà văn nổi tiếng như August Strindberg, Esaias Tegnér, Selma Lagerlöf và Astrid
Đền Thờ Hồ Sỹ Dương: Nơi Tôn Vinh Danh Nhân Lê Trung Hưng và Kiến Trúc Đền Thờ Cổ Nghệ An Trong lòng làng Hoàn Hậu (nay là thôn 5, xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh
**Văn học** (chữ Hán: 文學) theo cách nói chung nhất, là bất kỳ tác phẩm nào bằng văn bản. Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, thì văn học là dạng văn bản được coi là một
Một cảnh trong Mahabharata tại công trình đá Angkor Vat đã phục chế:hai thần phi thiên (asura)- hai anh em Sunda và Upasunda, chiến đấu để giành lấy nàng tiên [[apsara Tilottama xinh đẹp. Một
thumb|[[Cỗ máy Antikythera|Máy Antikythera là một chiếc máy tính analog trong khoảng thời gian từ 150TCN đến 100TCN được thiết kế để tính toán vị trí của các vật thể thiên văn]] **Thiên văn học
**Nguyễn Đăng** (1577-?) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Đăng người làng Đại Toán, huyện Quế Dương, nay là thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc
**Nguyễn Đăng Đạo** (chữ Hán: 阮登道, 1651–1719) là một trong số rất ít trạng nguyên làm quan tới chức tể tướng thời Lê trung hưng. Ông còn có tên là **Trạng Bịu**. ## Tiểu sử
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
**Lê Minh Hưng** (sinh ngày 11 tháng 12 năm 1970) là một chính khách Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII, Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII, Trưởng ban