✨Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long

Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long

[[Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1443) niên hiệu Đại Bảo thứ 3, là bia tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam.|phải]] Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long, hay bia tiến sĩ Văn Miếu-Quốc Tử Giám là các bia đá ghi tên những người đỗ Tiến sĩ các khoa thi thời Lê sơ, thời Mạc và thời Lê trung hưng (1442-1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Việt Nam. Các bia đá này đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức Thế giới vào ngày 9/3/2010, tại Macau, Trung Quốc. Sau Mộc bản triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu là di sản tư liệu thứ hai của Việt Nam được đưa vào danh mục Di sản tư liệu thế giới.

Lịch sử

Các bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long được dựng trong thời gian gần 300 năm (từ năm 1484 (niên hiệu Hồng Đức thứ 15) đến năm 1780 (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 41), khắc các bài văn bia đề danh tiến sĩ Nho học Việt Nam của các khoa thi Đình từ năm 1442 (niên hiệu Đại Bảo thứ 3) đến năm 1779 (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40). Trong thời gian đó, có 124 khoa thi với 30 khoa thi không được dựng bia và 91 khoa thi được dựng bia nên số lượng bia đầy đủ ở đây phải là 91 tấm bia. Tuy nhiên, do biến thiên của lịch sử mà đến nay chỉ còn 82 tấm bia tiến sĩ, 9 tấm bia đã bị mất. Theo sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776 thì lúc đó có 124 khoa thi Tiến sĩ nhưng nay chỉ còn 82 bia. Như vậy 42 khoa thi có bao nhiêu khoa không được dựng bia, bao nhiêu khoa có dựng nhưng đã mất? Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì 9 khoa thi những năm 1469, 1472, 1484,  1490,1493, 1499, 1505, 1508 và 1634 đều được dựng bia nhưng nay không thấy có.

Năm 1484, với chủ trương đề cao Nho học và tôn vinh bậc tri thức Nho học đỗ đại khoa, vua Lê Thánh Tông đã cho dựng các tấm bia tiến sĩ đầu tiên tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám cho các khoa thi Đình các năm trước đó của nhà Hậu Lê, 7 bia đầu tiên, được dựng năm này. Trong số 7 bia tiến sĩ đầu tiên, thì 2 bia đầu được lập cho hai khoa thi Đình, được lấy làm đại diện, của các triều vua trước, là khoa thi năm 1442 và khoa thi năm 1448, được Lê Thánh Tông cử Trực học sĩ Hàn Lâm Quách Đình Bảo phụ trách xây dựng văn bia, cùng hai vị Đông Các đại học sĩ (sau này cũng là 2 phó soái Tao đàn Nhị thập bát Tú) là: Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận soạn các bài văn bia, và được dựng riêng trong hai bi đình Tả vu, Hữu vu. Số lượng bia tiến sĩ được dựng vào thời đại nhà Lê sơ gồm 12 bia tiến sĩ đầu tiên, cho các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1514 (bia tiến sĩ khoa thi năm 1514 được dựng năm 1521). Những người soạn nội dung văn bia đều là các danh nho bậc nhất đương thời của Đại Việt, như các tiến sĩ: Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Đào Cử, Đàm Văn Lễ, Lê Ngạn Tuấn, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Trùng Xác, Lưu Hưng Hiếu, Lê Trung, Vũ Duệ, Vũ Công Dự...

Nhà Mạc do điều kiện đang tiến hành nội chiến với nhà Lê Trung hưng, nên chỉ dựng được 2 bia tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám, mặc dù tổ chức được khá nhiều kỳ thi tiến sĩ Nho học, đó là bia tiến sĩ cho khoa thi năm 1529 (niên hiệu Minh Đức thứ 3), khoa thi đầu tiên của triều Mạc Thái Tổ, và bia tiến sĩ cho khoa thi năm 1518 (niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 thuộc triều đại Lê sơ, được dựng năm 1536). Như vậy, trong suốt thời kỳ nhà Mạc nắm giữ kinh thành Thăng Long, với 22 khoa thi Đình được tổ chức, nhưng chỉ có duy nhất một khoa thi tiến sĩ nhà Mạc được dựng bia tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám.

Sang triều đại Lê Trung hưng, các kỳ thi tiến sĩ Nho học được khôi phục ngay từ thời triều vua Lê Trung Tông khi đang còn đóng đô ở Thanh Hóa và chưa chiếm lại được Thăng Long, với khoa thi Điện (thi Đình) đầu tiên là khoa thi Chế khoa năm 1554. Sau khi chiếm lại được Thăng Long năm 1592, các kỳ thi Đình được tổ chức đều đặn hơn. Nhưng cũng phải đến năm 1653 (niên hiệu Thịnh Đức thứ nhất), thì nhà Lê Trung hưng mới tiến hành một đợt dựng bia tiến sĩ lớn nhất tại Văn Miếu Thăng Long, Thượng thư Bộ Lễ Dương Trí Trạch được giao tổ chức dựng 25 bia tiến sĩ từ khoa thi năm 1554 đến khoa thi năm 1652.

Sau đó, tới năm 1717 (niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 13), mới lại có đợt dựng bia lớn thứ 2 trong triều đại nhà Lê Trung hưng (do Thám hoa Nguyễn Quý Đức chủ trì), với 21 bia tiến sĩ cho các khoa thi từ năm 1656 đến khoa thi năm 1715. Với hai đợt dựng bia tiến sĩ lớn, sau đó là các lần dựng bia thường xuyên sau mỗi khoa thi (trung bình cứ 1 đến 4 năm sau mỗi khoa lại tiến hành dựng bia tiến sĩ cho khoa thi ngay trước đó, một số khoa dựng bia ngay trong năm thi Đình) cho tới bia tiến sĩ cuối cùng cho khoa thi năm 1779, nhà Lê trung hưng đã dựng phần lớn bia tiến sĩ (68).

Sang triều đại nhà Tây Sơn (không tổ chức thi tiến sĩ Nho học) và đặc biệt là nhà Nguyễn, kinh đô được chuyển vào Phú Xuân-Huế, Văn Miếu Thăng Long không còn là văn miếu quốc gia nữa nên các bia tiến sĩ không còn được dựng tại đây. Nhà Nguyễn bắt đầu cho dựng bia tiến sĩ tại Văn Thánh Miếu Huế từ khoa thi năm 1822.

Năm 1805, vua Gia Long cho xây thêm Khuê Văn Các. Khuê Văn Các gồm có 2 tầng, 8 mái, tầng dưới là bốn trụ gạch, tầng trên là kiến trúc gỗ, bốn mặt đều có cửa sổ tròn với những con tiện tỏa ra bốn phía tượng trưng cho hình ảnh sao Khuê tỏa sáng. Hai bên đi vào bằng hai cổng Bí Văn và Súc Văn. Khuê Văn Các là nơi tổ chức bình các bài thơ hay của các sĩ tử.

Không có thống kê chính thức số tiến sĩ được ghi trên các bia tiến sĩ này, các nguồn khác nhau cho biết trong khoảng thời gian đó đã có từ 1.303 đến 1.323 tiến sĩ , trong số này có 18 trạng nguyên, 21 bảng nhãn và 33 thám hoa. Tuy nhiên, số lượng 82 bia còn lại có thể không đầy đủ và không ghi hết các tên họ các vị tiến sĩ thời ấy.

Di sản

Với 3 đợt dựng bia tiến sĩ lớn vào các năm 1484 (7 bia), 1653 (27 bia), 1717 (19 bia), xen kẽ 2 giai đoạn dựng bia tiến sĩ thường xuyên vào cuối các triều đại Lê sơ và Lê trung hưng, 82 bia tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám (gồm: 13 bia khắc các khoa tiến sĩ triều đại nhà Lê sơ, 1 bia khắc khoa thi tiến sĩ triều đại nhà Mạc, 68 bia khắc các khoa thi tiến sĩ triều đại nhà Lê trung hưng), đề danh cùng thứ bậc và quê quán của 1304 vị tiến sĩ Nho học (3 người trong số đó là Trịnh Thiết Trường, Nguyễn Nguyên Chẩn và Nguyễn Nhân Bị đều dự thi và đỗ tiến sĩ hai lần).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
[[Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1443) niên hiệu Đại Bảo thứ 3, là bia tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam.|phải]] **Bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long**, hay **bia
nhỏ|phải|Tranh khắc mô tả hình ảnh một tiến sĩ thần học ở [[Viện Đại học Oxford, trong áo choàng có hai màu đỏ và đen tương ứng với học vị của mình; in trong cuốn
nhỏ|289x289px|_Khuê Văn Các_ - biểu tượng của Thủ đô [[Hà Nội. Đây là nơi học sinh thường hay chụp ảnh trong những lễ tốt nghiệp]]**Văn Miếu – Quốc Tử Giám** là quần thể di tích
:_Xem các công trình có tên **_Văn miếu_** tại bài Văn miếu (định hướng)_ Dưới triều nhà Nguyễn, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc được chính thức xây dựng
nhỏ|phải|Bia đá mạ vàng trên bảo tháp [[Thích Ca Phật Đài ở Thiền Lâm Tự, Bà Rịa-Vũng Tàu]] **Bia** (_chữ Hán_:碑; phiên âm: "_bi_") là vật tạo tác dạng phiến dẹp có mặt phẳng thường
**Văn miếu Mao Điền** thuộc làng Mậu Tài, xã Mao Điền, nay thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương là một trong số ít văn miếu còn tồn tại ở Việt Nam.
|header1 = || |labelstyle = padding-right:0.3em; |rowclass2 = mergedrow |label2 = Phân cấp |data2 = Di tích cấp quốc gia |rowclass3 = mergedrow |label3 = Vị trí |data3 = Phường 4, thành phố Vĩnh
**Văn miếu Bắc Ninh** là một trong 6 văn miếu của Việt Nam. Tại đây thờ Khổng tử, và 12 bia "Kim bảng lưu phương" lưu danh 677 vị đại khoa quê hương Kinh Bắc
phải|nhỏ|Văn miếu môn. **Văn miếu Trấn Biên** là "Văn miếu" đầu tiên được xây dựng (xây năm 1715) tại xứ Đàng Trong, để tôn vinh Khổng Tử, các danh nhân văn hóa nước Việt và
:_Xem các công trình có tên **_Văn miếu_** tại bài Văn miếu (định hướng)_ **Văn miếu** (chữ Hán: 文廟), tên ở dạng đầy đủ là **Văn Tuyên Vương miếu** (文宣王廟), còn được gọi là **Khổng
**Di sản tư liệu thế giới** (còn gọi là **Chương trình Ký ức thế giới**) của UNESCO ra đời từ năm 1994. Mục đích của chương trình là để ghi nhận các di sản văn
Văn Miếu Quốc Tử Giám là một trong những di sản văn hóa lâu đời và quan trọng nhất của Việt Nam. Nó được xây dựng từ thế kỷ 11 dưới thời vua Lý Thánh
nhỏ|Hoàng Kiêm **Hoàng Kiêm** (chữ Hán: 黃兼; 1870-1939), tự **Cấn Sơn**, hiệu là **Ngọc Trang** (玉莊), là một danh sĩ thời Nguyễn. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Giáp
nhỏ|phải|Nội và ngoại thất đền thờ Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị **Phạm Văn Nghị** (chữ Hán: _范文誼_, 1805-1884) hiệu **Nghĩa Trai**; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà
**Trần Tiễn Thành** (chữ Hán: 陳踐誠, 1813-1883), trước có tên là **Dưỡng Độn**, sau kỵ quốc úy đổi là **Thời Mẫn**, sau nữa được vua Tự Đức ban tên là **Tiễn Thành**, hiệu là **Tốn
**Danh hiệu UNESCO ở Việt Nam** gồm danh sách các di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển thế giới, di sản tư liệu thế giới, công viên địa chất toàn cầu, di sản
Biểu trưng và khẩu hiệu của ngành Du lịch Việt Nam giai đoạn 2012-2015 do Tổng cục Du lịch Việt Nam đưa ra. [[Vịnh Hạ Long]] nhỏ|Du khách thăm [[Đền Ngọc Sơn và cầu Thê
Bản đồ các vùng du lịch ở Việt Nam.PNG phải| Đền Kiếp Bạc - Hải Dương [[Hoàng thành Thăng Long ở Hà Nội]] phải|Quần đảo Cát Bà ở [[Hải Phòng]] **Vùng đồng bằng sông Hồng
**Duy Tiên** là một thị xã cũ nằm ở phía bắc tỉnh Hà Nam, Việt Nam. ## Địa lý Thị xã Duy Tiên nằm ở phía bắc tỉnh Hà Nam, nằm cách thành phố Phủ
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
là một cụm từ tiếng Nhật để chỉ các loại truyện tranh và tranh biếm họa của Nhật Bản. Bên ngoài Nhật Bản, Manga ám chỉ tính đặc trưng riêng biệt của truyện tranh Nhật
::_Xem các công trình có tên_ **Võ miếu** _tại bài Võ miếu (định hướng)_ Bia đá tại Võ miếu Huế, chứng tích còn lại của một di tích trong [[quần thể di tích cố đô
**Thanh Cao Tông** (chữ Hán: 清高宗, , 25 tháng 9 năm 1711 – 7 tháng 2 năm 1799), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng Đế** (文殊皇帝), là Hoàng đế thứ sáu của Nhà Thanh
nhỏ|phải|Một con rùa lớn, trong văn hóa, rùa biểu tượng cho vũ trụ, huyền cơ, sự trường thọ nhỏ|phải|Tượng rắn thần [[Naga, đây là hình mẫu mỹ thuật ở những nền văn hóa Ấn Độ
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
phải|Tượng thờ Doãn Khuê ở đình xã Nghĩa Thành huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. **Doãn Khuê** (chữ Hán: 尹奎; 1813-1878) là quan Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng giữ các chức
**Phan Thanh Giản** (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867), tự **Tĩnh Bá** (靖伯), **Đạm Như** (淡如), hiệu **Mai Xuyên** (梅川), **Lương Khê** (梁溪); là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là
**Nguyễn Đình Hoàn** (1661-1744), hiệu **Chu Phù** là thủ khoa nho học Việt Nam, một nhà thơ, và là danh thần của nhà Lê trung hưng. ## Tiểu sử thumb|Mộ và Nhà bia Đình nguyên
**Nguyễn Khả Trạc** (chữ Hán: 阮可濯, 1598-1672), tên thật **Nguyễn Văn Trạc** (阮文濯), là người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ. Ông theo Nho học, sau làm quan đến chức Công bộ thượng thư,
Xét từ khoa Tiến sĩ thời Lê Hồng Đức bắt đầu dựng bia ở Quốc tử giám, theo nếp người xưa, việc biên chép là để biết được truyền thống khoa cử. Xét những ghi
**Văn Cao** (tên khai sinh là **Nguyễn Văn Cao**, 15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ, chiến sĩ biệt động ái quốc người
**Nguyễn Quý Đức** (chữ Hán: 阮貴德, 1648 -1720), húy là **Tộ** (祚), tự **Bản Nhân** (体仁) hiệu **Đường Hiên** (堂軒), là nhà thơ, nhà giáo, nhà sử học, nhà chính trị Việt Nam thời Lê
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
nhỏ|phải|Phơi nắng trong công viên trong bộ bikini nhỏ|phải|Một phụ nữ mặc bikini tắm nắng **Áo tắm trong văn hóa đại chúng** (_Bikini in popular culture_) đề cập đến hình ảnh của Bikini trong văn
**Hà Công Trình** (1434 - 1511) còn có tên là **Hà Trình**, **Hà Tông Trình**, sinh tại tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến Thượng
Nước ta có một lịch sử lâu dài chống ngoại xâm, vì thế việc binh bị thường được coi trọng. Việc tuyển chọn người tinh thông võ nghệ để ra giúp nước thời nào cũng
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Lý Chấn Phiên**, thường được biết đến với nghệ danh **Lý Tiểu Long** (tiếng Trung: 李小龍, tiếng Anh: _Bruce Lee,_ 27 tháng 11 năm 1940 – 20 tháng 7 năm 1973), là một cố võ
**Trần Vũ** là một nhà văn tại hải ngoại, từng là chủ biên báo Hợp Lưu và nổi tiếng với lối viết văn táo bạo, thách thức, kết hợp giữa bạo lực và tình dục
nhỏ|Bản vẽ thành Vĩnh Long Cửa Hữu thành Long Hồ (phục dựng để kỷ niệm) **Thành Vĩnh Long** hay **thành Long Hồ** ở Vĩnh Long, được xây dựng dưới triều Nguyễn, là thành trì và
**La Vân Hi** (sinh ngày 28 tháng 7 năm 1988), tên thật là La Dực (), tên tiếng Anh là **Leo** (Còn gọi là Leo Luo), là một ca sĩ, diễn viên, nghệ sĩ người
**Nhà Lê** (chữ Nôm: 茹黎, chữ Hán: 黎朝, Hán Việt: _Lê triều_), hay còn được gọi là **nhà Tiền Lê** (chữ Nôm: 家前黎, Chữ Hán: 前黎朝, Hán Việt: _Tiền Lê triều_) là một triều đại
**Đào Vũ Thường** (chữ Hán: 陶武常) tên hiệu là **Đoan Hiên tiên sinh** (1705-1754) là một vị tiến sĩ đời nhà Lê. Ông từng làm công khoa cấp sự trung và Ngự sử Kinh Bắc.
**Thế vận hội** hay **Olympic** , còn có tên gọi cũ là _Thế giới vận động hội_, là cuộc tranh tài trong nhiều môn thể thao giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Thế
**Đặng Văn Hòa** (1791 - 1856) là một quan đại thần dưới triều đại nhà Nguyễn. Làm quan gần 40 năm, nằm giữ những chức vụ quan trọng từ tổng đốc đến thượng thư, ông
**Trần Quang Vinh**, thường được biết đến với nghệ danh **Quang Vinh** (sinh ngày 18 tháng 5 năm 1982), là một nam ca sĩ người Việt Nam. ## Khởi đầu sự nghiệp Quang Vinh sinh
**Đinh Nhật Thận** (丁日慎, 1815-1866), tự: **Tử Úy**, hiệu: **Bạch Mao Am**; là danh sĩ Việt Nam thời Nguyễn. ## Tiểu sử **Đinh Nhật Thận** là người xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ
**Tao Đàn nhị thập bát tú** (騷壇二十八秀) hoặc **Hội thơ** **Tao Đàn** là tên gọi của hậu thế cho hội xướng họa thi ca mà Hoàng đế Lê Thánh Tông sáng lập vào năm 1495
**Lê Văn Đức** (chữ Hán: 黎文德; 1793 – 1842), là danh tướng trải hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Ông là người ở huyện An Bảo
**Nguyễn Cấu** (1442-1522 ) là một vị quan trong nhiều đời thời Lê. Ông sinh ra ở làng Thanh Thù, Đồng Tiến, thành phố Phổ Yên , tỉnh Thái Nguyên. Ông đỗ Đệ tam giáp