✨Phan Thanh Giản

Phan Thanh Giản

Phan Thanh Giản (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867), tự Tĩnh Bá (靖伯), Đạm Như (淡如), hiệu Mai Xuyên (梅川), Lương Khê (梁溪); là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là Tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, song cũng người đã đàm phán và chấp thuận cắt 3 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp.

Thân thế và sự nghiệp

Phan Thanh Giản tự là Tịnh Bá, Đạm Như, hiệu Lương Khê, biệt hiệu Mai Xuyên, sinh vào giờ Thìn ngày 12 tháng 10 năm Bính Thìn (1796), tại làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (sau là làng Bảo Thạnh, tổng Bảo Trị, huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, tỉnh Vĩnh Long; nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).

Tổ phụ của ông là Phan Thanh Tập (có nơi chép là Chỉnh), hiệu Ngẫu Cừ, vốn là người Hoa Nam đời nhà Minh. Khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ, gia đình họ Phan cũng như những người không tùng phục triều đình Mãn Thanh trốn sang Việt Nam, ở làng Hội Trung, tổng Trung An, tỉnh Bình Định. Ở đây, Phan Thanh Tập cưới Huỳnh Thị Học, sinh ra Phan Thanh Ngạn. Năm Tân Mão (1771) nhà Tây Sơn dấy binh nổi dậy chống lại chúa Nguyễn, Phan Thanh Tập cùng gia đình di cư xuống phía Nam.

Ban đầu gia quyến họ Phan Thanh sống ở Trang Tông, thuộc tỉnh Định Tường (Mỹ Tho ngày nay), rồi dời xuống Mân Thít (thuộc trấn Vĩnh Thanh, Vĩnh Long ngày nay), kế đến huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, cũng ở trong tỉnh Vĩnh Long, sau dời qua làng Tân Thành, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (sau đổi ra làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoằng Đạo, tỉnh Vĩnh Long; nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Định cư tại làng Tân Thạnh, cất nhà ở gảnh Mù U, bãi Ngao tức Ngao Châu, Phan Thanh Ngạn tục gọi là Xán, hiệu Mai Thự, cưới Lâm Thị Bút người làng Phú Ngãi, tổng Bảo Thuận, sinh ra Phan Thanh Giản giữa lúc chúa Nguyễn Phúc Ánh chiêu quân kịch lại nhà Tây Sơn. Sau khi kết hôn, Thanh Ngạn lên tỉnh Vĩnh Long làm chức Thư Lại.

Năm Mậu Ngọ (1798), lãnh phận sự vận lương trên chiếc thuyền "Hồng Nhật", tới vịnh Đà Nẵng không may gặp bão, thuyền lương trôi đến tận đảo Hải Nam, Thanh Ngạn may mắn còn sống sót, lần về quê quán. Rồi nhờ có nhiều công lao, Thanh Ngạn được thăng chức Thủ Hợp, tòng bát phẩm.

Năm Nhâm Tuất (1802) Lâm Thị Búp qua đời khi mới 26 tuổi (1776-1802).

Gia Long năm thứ hai (Quý Hợi 1803), Phan Thanh Ngạn cưới người vợ thứ hai là Trần Thị Dưỡng. Người mẹ kế này cũng không đến nỗi khắc nghiệt với Thanh Giản, cho Giản học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi.

Năm Ất Hợi (1815), Thanh Ngạn bị khép tội phải phạt một năm tù. Thanh Giản bấy giờ đã 20 tuổi, thân hành lên tỉnh, xin vào yết kiến quan Hiệp trấn Lương, nhưng quan không thể nào làm khác được, chỉ an ủi Giản nên cố lo tương lai và hết lòng giúp đỡ cho Giản ăn học.

Sau khi Thanh Ngạn mãn hạn tù, Hiệp trấn Lương bèn khuyên Thanh Ngạn nên để Giản ở lại Vĩnh Long mà học cho tiện. Từ ấy, Phan Thanh Giản ở học tại tỉnh, thọ giáo với một người họ Võ (không rõ tên là gì, nhưng chắc chắn không phải là cụ Võ Trường Toản như nhiều người đã nói, vì khi cụ Võ Trường mất năm Nhâm Tý (1792) Phan Thanh Giản còn chưa ra đời).

Ra làm quan

Chân dung Phan Thanh Giản Năm 1825, ông đậu Cử nhân khoa Ất Dậu. Sau đó một năm, ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826), vào năm 30 tuổi. Theo tác giả Lê Thọ Xuân, khoa thi Đình năm 1826 ban đầu chỉ có 9 vị tiến sĩ. Khi đệ trình lên vua Minh Mạng, nhà vua thấy từ Thừa Thiên Huế trờ vào nam không có ai, bèn chỉ thị lấy thêm một vài người. Nhờ thế Phan Thanh Giản mới trở thành vị tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ.

Từ đấy, ông làm quan trải 3 triều, là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, trải qua nhiều chức vụ và nhiều lần thăng giáng.

Vào tháng 8 năm Minh Mạng thứ 7 (1826), Phan Thanh Giản được triệu về kinh để giữ chức Biên tu ở Hàn Lâm Viện. Sau đó ông được thăng chức rất mau: Lang trung bộ Hình (1827), Tham hiệp Quảng Bình và là giám khảo thi Hương trường Thừa Thiên (1828). Năm 1829 ông được bổ nhiệm làm Quyền nhiếp Tham hiệp Nghệ An rồi được triệu về kinh giữ chức Phủ doãn Thừa Thiên. Khoảng năm 1931 ông làm Hiệp trấn Quảng Nam và bị giáng (lần thứ nhất) làm Tiền quân hiệu lực vì bị thua trận trong khi được phái đi dẹp loạn Cao Gồng ở Chiên Đàn (phía Bắc tỉnh Quảng Nam).

Năm 1839, từ Thái Nguyên ông được triệu về triều lãnh chức Thông chánh phó sứ rồi thăng lên Thị lang bộ Hộ, nhưng sau đó lại bị giáng (lần thứ 4) xuống Thông chánh phó sứ vì bị vua Minh Mạng cho là có "tư tưởng bè phái" trong việc Đình thần, Cơ mật viện và và các quan đốc, phủ, bố, án bàn xử Vương Hữu Quang tuần phủ Nam Ngãi. Bấy giờ đang vào mùa đông, đúng khoảng thời gian mưa dầm, Tuần phủ Nam Ngãi Vương Hữu Quang được nhà vua sai làm lễ cầu tạnh tại miếu Đô thành hoàng. Cầu suốt một ngày mà trời mưa không dứt, Vương Hữu Quang ra mật tấu cho rằng nguyên nhân là do vua Minh Mệnh đụng chạm đến thần linh khi nhà vua nói đùa ở điện Văn Minh và cho diễn vở “Quần tiên hiến thọ” tại Duyệt Thị Đường. Vì vậy Vương Hữu Quang “xin đốt sách ấy đi để tạ trời đất thần minh”, nếu mà trời vẫn không đổi thì xin chịu tội chết về việc dối trá. Vua Dụ rằng: “Vương Hữu Quang làm lễ cầu tạnh không được, lại muốn đổ lỗi cho người trên. Lại thấy ngày ấy trẫm hơi se mình, dám nói bậy bạ cho trẫm có tội với trời đất thần minh, sao điêu toa dối bậy quá thế! Vả lại, truyện “Quần tiên hiến thọ” là thuộc viện Nội các bọn Nguyễn Bá Nghi soạn ra, dẫu trong ấy trẫm có chỉ bảo một vài câu, nhưng là lời thần bếp, thầy kiện răn bảo đó thôi, có điều gì đùa cợt thần minh đâu, huống hồ dám động đến trời đất ư?” Đình thần và các quan đốc, phủ, bố, án xin đem Hữu Quang cách chức trị tội. Thị lang Phan Thanh Giản (người cùng làng với Vương Hữu Quang) cùng với Tham tri Nguyễn Công Trứ, Doãn Uẩn, Thị lang Bùi Quỹ khi đó bàn khác đi là xin xử nhẹ giáng 2 cấp lưu, nên vua Minh Mạng bất bình, cho rằng hoặc Phan Thanh Giản bè đảng, hoặc ông mưu hại Vương Hữu Quang. Nguyễn Công Trứ, Doãn Uẩn, Phan Thanh Giản, Bùi Quỹ sau đó đã dâng sớ nhận tội “ngu tối, kiến thức thấp kém, chứ không dám dụng tâm về bè cứu viện cho nhau”. Theo lệnh của vua, Vương Hữu Quang bị cách chức, giam lại. Phan Thanh Giản bị phạt giáng một cấp, đổi đi nơi khác (Nguyễn Công Trứ, Doãn Uẩn, Bùi Quỹ được xác định chỉ có vai trò phụ họa nên bị giáng một cấp lưu, không cho lấy công khác khấu trừ). Sau đó, vua Minh Mạng tha tội cho Vương Hữu Quang, giáng ông làm Tư vụ Bộ Công.

Năm 1853, Phan Thanh Giản được triệu về Kinh lãnh chức Hiệp biện đại học sĩ, lãnh Binh bộ thượng thư, sung chức ở tòa kinh diên và viện Cơ mật (8-1853); Chánh tổng tài Quốc sử quán, trực tiếp chỉ đạo việc biên soạn bộ Khâm định Việt Sử thông giám cương mục (1856-1859); Hiệp biện đại học sĩ, lãnh Lễ bộ thượng thư, kiêm quản Hộ bộ ấn triện, sung Kinh diên giảng quan, sung Cơ mật viện đại thần, kiêm Quốc Tử Giám sự vụ (1859).

Tuy việc thương nghị với phía Pháp, vua Tự Đức có cho ông tùy nghi tình thế mà định đoạt nhưng về việc cắt đất, nhà vua có căn dặn Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ráng sức chuộc lại 3 tỉnh với giá 1.300 vạn lạng, còn nếu phía Pháp đòi cắt đất luôn thì kiên quyết không nghe, nhưng Phan Thanh Giản đã đồng ý cả việc cắt đất lẫn việc bồi thường chiến phí. Do đó mà 2 ông khi trở về đã bị quở trách nặng nề.

thumb|Sứ đoàn Phan Thanh Giản gặp mặt hoàng đế [[Napoleon III tại triều đình Đệ Nhị Đế chế Pháp.]] Việc chuộc 3 tỉnh không thành, Phan Thanh Giản bị cách lưu làm Tổng đốc Vĩnh Long, nhưng rồi lại được cử làm Chánh sứ (Phó sứ là Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản) sang nước Pháp để điều đình một lần nữa về việc chuộc lại 3 tỉnh miền Đông (1863), lúc đầu đoàn sứ thần đã đạt được nhiều kết quả khả quan, Hoàng đế Napoleon III của Đệ Nhị Đế chế Pháp đã cử Gabriel Aubaret làm lãnh sự ở Vọng Các (Bangkok, Thái Lan), đồng thời đến Kinh đô Huế để đàm phán với Đại Nam một bảng hòa ước mới thay thế Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Theo tác giả Trần Quốc Giám, vào năm 1864, khi phe thực dân chưa thắng thế thì quyển "Vấn đề Nam Kỳ xét theo quyền lợi của nước Pháp" của đại tá Rieunier (bút hiệu H. Abel) được tung ra đã làm cho dư luận ủng hộ lập trường của phe thực dân. Song song với sự chuyển biến dư luận đó ở Pháp, Aubaret đến Huế và bắt đầu thảo luận với Phan Thanh Giản về Dự thảo Hòa ước Aubaret, 18/19 điều đã được thông qua và ký sơ bộ, trong đó có điều khoản quan trọng nhất là cho Nhà Nguyễn chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, nhưng bù vào đó thì phải cho Pháp bảo hộ 6 tỉnh Nam Kỳ. Sau khi dự thảo của hòa ước mới ký tắt được 6 ngày thì Aubaret nhận phản lệnh từ chính phủ Pháp, yêu cầu ông không được ký kết hoà ước mới, tiếp tục bảo lưu hoà ước 1862. Thư này được ký và gửi đi bởi Ngoại trưởng Édouard Drouyn de Lhuys, vào ngày 06/06/1864. Tháng 11 năm 1864, Chasseloup-Laubat, bộ trưởng Hải quân Pháp đệ trình lên Napoleon III một bản phúc trình thứ 2, dựa theo quan điểm của de La Grandière về các khía cạnh chính trị và tài chính, đã xác định các giá trị về sự thịnh vượng của Nam Kỳ thuộc Pháp, chỉ trích kịch liệt các ý kiến về sự chiếm đóng thu hẹp ở Nam Kỳ, và để nghị giữ nguyên hòa ước 1862. Soái phủ Pháp là Pierre-Paul de La Grandière sai đưa linh cữu ông với đoàn binh hộ tống về Bảo Thạnh an táng. Mộ ông rất khiêm nhường, đề 7 chữ Nho: Lương Khê Phan lão nông chi mộ (梁溪潘老農之墓), giao cho Phan Đôn Hậu và Phan Đôn Khải chăm nom.

Đền thờ Phan Thanh Giản được xây dựng năm 2004, hiện ở ấp Thạnh Nghĩa, xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

Nhận định

Bàn thờ Phan Thanh Giản trong [[Văn Thánh Miếu Vĩnh Long.]] Năm 1852, Phan Thanh Giản được vua Tự Đức ban thưởng một tấm kim khánh trên khắc 4 chữ: "Liêm, Bình, Cần, Cán".

Một sĩ quan Pháp là đại tá Rieunier, để cổ vũ cho sự chiếm cứ ở Nam kỳ, ông xuất bản dưới bút hiệu H.Abel hai cuốn sách: La question de Cochinchine au point de vue des intérêts Français (Vấn đề Nam Kỳ xét theo quyền lợi của nước Pháp)Solution pratique de la question de Cochinchine (Giải pháp thiết thực cho vấn đề Nam Kỳ). Trong đó, đại tá Rieunier đã có nhận xét về Phan Thanh Giản như sau: :Sống trong 4 tháng gần vị lão thành cao thượng ấy, chúng tôi có thể đánh giá các đức tính của ông ta... trong thời gian vượt biển này (chuyến đi sứ sang Pháp) ông không ngớt được khuyến khích bởi lòng nhiệt thành ái quốc của ông, và thúc đẩy bởi nguyện vọng thực hiện được công chuyện hữu ích cho nước nhà...

Trong sách Đi & ghi nhớ của Sơn Nam (xuất bản năm 2008), một lần nữa, nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản lại được đề cập trong một đoạn viết như sau: :Hồi xưa, lúc còn nhỏ, tôi (lời thuật của một giáo viên lớn tuổi đi cùng với Sơn Nam) được dạy cẩn thận, khi đi ngang qua miếu Văn Thánh, học trò phải giở nón, cúi đầu để chào ông Phan. Chào ông Phan, (được xem như) là lời thề rửa hận cho ông, cho chớ không phải để bắt chước ông... Người có công nghiên cứu về Phan Thanh Giản là Lê Thọ Xuân, đăng báo Đồng Nai đâu từ năm 1931... với những chi tiết thú vị. Tuy làm quan to nhưng ông tự xem mình như người dân thường ở nông thôn, đối xử như người bình dân, không bao giờ phô trương quyền lực. Xin đề nghị: Trong chương trình Sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ lý đủ tình... Ông đã để lại cho đời sau chút gì khó quên, khó xóa nhòa, gọi là tâm linh, phóng khoáng, thơ mộng.

Thái độ với Pháp

Ngày 5 tháng 6 năm 1862, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp, cùng với Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn đã ký với Bonard và Palanca một hiệp ước gọi là Hòa ước Nhâm Tuất (1862), cắt đứt 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, bồi thường chiến phí trong 10 năm, mỗi năm 400 ngàn quan cho đại diện của Pháp ở Sài Gòn. Trước đó, vua Tự Đức dặn rằng có thể chấp thuận bồi thường chiến phí chứ tuyệt đối không được cắt lãnh thổ đất nước cho Pháp. Biết tin Phan – Lâm không làm theo lời dặn, vua Tự Đức đã trách mắng: ::"Ôi con dân mấy triệu, tội gì mà khổ thế? Thật là đau lòng. Hai người không những chỉ là tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế".

Do hành động này mà dân gian có câu truyền "Phan, Lâm mãi quốc; triều đình khí dân" (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước; triều đình bỏ dân chúng).

Tương phản với thái độ hòa hoãn với Pháp, theo giáo sư Đinh Xuân Lâm, đối với phong trào chống Pháp của Trương Định và nhiều toán nghĩa quân khác, Phan Thanh Giản giữ một thái độ ngờ vực và có nhiều cách xử sự rất có hại: ::"Phan Thanh Giản thủy chung lời nói không xứng với việc làm, đem học vấn danh vọng một đời trút sạch xuống biển Đông, thực là táng tận lương tâm, quá đỗi phụ ơn.". Mãi đến 19 năm sau (1886), dưới thời Pháp thuộc, ông được vua Đồng Khánh khôi phục nguyên hàm Hiệp tá đại học sĩ và cho khắc lại tên ở bia tiến sĩ. Việc vua Đồng Khánh khôi phục chức vị cho Phan Thanh Giản có lẽ là do sức ép của Pháp, vì chính Đồng Khánh cũng là ông vua do Pháp đưa lên ngôi để có danh nghĩa chống lại vị vua yêu nước Hàm Nghi.

Cũng có những trí thức đương thời thì tỏ ra thông cảm cho ông. Như Nguyễn Thông đã từng dâng sớ lên vua Tự Đức để giãi bày nỗi lòng cho ông. Và nhà thơ đương thời Nguyễn Đình Chiểu cũng đã tỏ thái độ thương tiếc, trân trọng ông qua bài thơ điếu: :''Non nước tan tành hệ bởi đâu? :''Dàu dàu mây bạc cõi Ngao châu :''Ba triều công cán đôi hàng sớ :''Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu :''Trạm Bắc ngày chiều tin điệp vắng :''Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu :''Minh tinh chín chữ lòng son tạc, :Trời đất từ rày mặc gió thu.

Phó đô đốc La Grandière, chỉ huy quân đội Pháp trong chiến dịch chiếm đóng 3 tỉnh Tây Nam Kỳ năm 1867 đã tỏ thái độ thương tiếc, trân trọng Phan Thanh giản qua bức thư điếu tang gửi gia đình ông:

::"Cái kỷ niệm rất đáng kính phục mến yêu quan lớn Phan thì người Pháp hằng ghi vào lòng, dầu cho sự ghen ghét của kẻ nghịch cũng không làm phai được. Đối với triều đình thì trừ ra một mình quan lớn Phan là thấy rõ đâu là ích lợi nước nhà, vì chẳng muốn sai cái chủ nghĩa (?) và ngồi xem kết quả nguy vong cho nước Nam nên quan lớn Phan mới đành lòng tự tử. Bức thư này tỏ lòng thương tiếc và tôn kính của bản chức, xin hãy tin chắc rằng người Pháp hằng bền một lòng trân trọng đối với quan lớn Phan và gia quyến của ngài... Bản chức hứa hết lòng bao bọc cho con cháu quan lớn Phan, ai muốn tước Lộc chi bản chức sẽ xin cho vừa ý..."

Trong văn bia tại lăng mộ, vua Tự Đức kết tội những quan đại thần được sai đi bàn định điều ước với Pháp (trong đó Phan Thanh Giản dẫn đầu), rằng "không hiểu vì lý do gì lại dễ dàng lập thành hòa nghị. Bỗng chốc đem cả nhân dân cùng đất đai của các triều nhọc nhằn gây dựng cho giặc hết..." Vua Tự Đức còn có kết luận rằng: "Hai ngươi (chỉ Phan và Lâm) không chỉ là tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân của vạn thế."

Tuy vậy, ông có hai con trai là Phan Tôn (1837 - 1893) và Phan Liêm (1833 - 1896) đều là các thủ lĩnh chống Pháp tại tỉnh Vĩnh Long.

Năm 1963, hành động giao nộp ba tỉnh miền Tây của ông đã bị sử gia Trần Huy Liệu đem ra chỉ trích, và ông bị kết tội là kẻ bán nước. Sau năm 1975, nhiều đường phố ở miền Nam Việt Nam mang tên Phan Thanh Giản đã bị đổi thành tên khác.

Đến khoảng những năm 1994-2008, đã có một số cuộc hội thảo được tổ chức nhằm đánh giá lại về Phan Thanh Giản, nhận định ông là một người "yêu nước, nhưng bất lực trước thời cuộc" . Viện Sử học đánh giá ông là người "nổi tiếng thanh liêm, đạo đức, có nhiều đóng góp lớn đối với lịch sử dân tộc trên các lĩnh vực văn học, sử học", và kết luận rằng "Với nhận thức mới trên quan điểm lịch sử cụ thể, nhân vật Phan Thanh Giản xứng đáng được tôn vinh bằng nhiều hình thức khác nhau".

Tác phẩm

Phan Thanh Giản là một nhà văn lớn với nhiều tác phẩm giá trị

  • Lương Khê thi thảo
  • Lương Khê văn thảo
  • Sứ Thanh thi tập
  • Tây phù nhật ký
  • Ước Phu thi tập
  • Tích Ung canh ca hội tập
  • Sứ trình thi tập
  • Việt sử thông giám cương mục (Chủ biên)
  • Minh Mạng chính yếu (Chủ biên)

Tên đường phố

Từ sau năm 1939, tại Sài Gòn đã có một con đường nhỏ mang tên đường Phan Thanh Giản. Đến ngày 22 tháng 3 năm 1955, nhà cầm quyền Việt Nam Cộng hòa cho đổi tên thành đường Ngô Tùng Châu. Ngày 4 tháng 4 năm 1985, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh lại lần nữa quyết định đổi tên thành đường Lê Thị Riêng cho đến ngày nay.

Cuối năm 1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Mặt trận Việt Minh đã cho đổi tên đường trước đây mang tên người Pháp thành đường phố mang tên danh nhân người Việt Nam, trong đó có đường Phan Thanh Giản ở thành phố Hà Nội (nay là đường Lê Phụng Hiểu) và ở thành phố Hải Phòng (nay là đường Ký Con). Tuy nhiên, sau khi thực dân Pháp chiếm lại được các thành phố này vào cuối năm 1946 thì tên đường Phan Thanh Giản cũng bị mất đi và trở lại bằng các tên đường mang tên người Pháp như cũ.

Sau đó, chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu vốn trực thuộc khối Liên hiệp Pháp cũng cho đặt tên đường phố mang tên Phan Thanh Giản tại các thành phố này trên cơ sở một lần nữa xóa bỏ tên đường cũ mang tên người Pháp. Cụ thể, từ đầu năm 1951, tại thành phố Hà Nội lại có đại lộ Phan Thanh Giản và đến năm 1954 thành phố Hải Phòng cũng có đại lộ Phan Thanh Giản. Tuy nhiên, sau năm 1955 ở Hải Phòng con đường này đã đổi tên thành đường Cù Chính Lan cho đến nay; và tại Hà Nội đến năm 1964 thì đường Phan Thanh Giản cũng đổi tên thành đường Nguyễn Hữu Huân cho đến ngày nay.

Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (lúc đó bao gồm Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định) có tới hai con đường mang tên Phan Thanh Giản: Tại Đô thành Sài Gòn cũ, từ ngày 22 tháng 3 năm 1955 đường Phan Thanh Giản chính thức được đặt tên cho một trong những tuyến đường lớn và dài nhất. Ngày 14 tháng 8 năm 1975, đường này bị thay đổi tên thành đường Điện Biên Phủ (đoạn từ vòng xoay cầu Điện Biên Phủ đến vòng xoay ngã 7) theo Quyết định của Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định. Tại quận Gò Vấp thuộc tỉnh Gia Định cũ, từ sau năm 1955 đã có một con đường quan trọng mang tên là đường Phan Thanh Giản đi ngang qua khu vực trung tâm quận lỵ Gò Vấp. Mãi cho đến ngày 4 tháng 4 năm 1985, đường Phan Thanh Giản này mới bị thay đổi tên là đường Nguyễn Thái Sơn cho đến ngày nay theo Quyết định của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Còn ở Cần Thơ trước năm 1975 có ngôi trường trung học Phan Thanh Giản (dành cho nam sinh) tọa lạc ngay trên đường Phan Thanh Giản. Sau năm 1975, trường này bị đổi tên thành trường cấp 3 An Cư và đến năm 1985 lại đổi tên thành trường Trung học phổ thông Châu Văn Liêm; còn tên đường Phan Thanh Giản bị đổi thành Phan Đăng Lưu và không lâu sau lại đổi thành đường Xô Viết Nghệ Tĩnh cho đến ngày nay.

Tên đường Phan Thanh Giản vốn có từ trước năm 1975 ở nhiều thị xã, đô thị tỉnh lỵ và quận lỵ (hiện nay gọi là thị trấn, thị xã và thành phố) trên toàn miền Nam, từ Quảng Trị cho tới Cà Mau, song hầu hết đã bị đổi tên sau ngày 30/4, cụ thể như sau: Bạc Liêu: nay là đường Phan Ngọc Hiển Sóc Trăng: nay là đường Lê Hồng Phong Vị Thanh: nay là đường Hải Thượng Lãn Ông Rạch Giá: nay là đường Trần Quang Diệu

Sa Đéc: nay là đường Nguyễn Huệ Vĩnh Long: nay là đường 3 tháng 2 Bến Tre: nay là đường Đồng Khởi Trà Vinh: nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa Gò Công: nay là đường Lê Thị Hồng Gấm Tân An: nay là đường Phan Văn Đạt Tây Ninh: nay là đường Cách Mạng Tháng 8 Bà Rịa: nay là đường Nguyễn Đình Chiểu Vũng Tàu: nay là đường Lý Tự Trọng Đà Lạt: nay là đường Lê Thị Hồng Gấm Phan Thiết: nay là một phần của đường Chu Văn An Nha Trang: nay là đường Pasteur Pleiku: nay là đường Lê Hồng Phong Kontum: nay là đường Trần Phú Đà Nẵng: nay là đường Hoàng Văn Thụ Huế: nay là đường Lê Quý Đôn Tuy nhiên, tại một số đô thị ở miền Nam, tên đường Phan Thanh Giản như trước năm 1975 vẫn được giữ lại cho đến ngày nay, như tại Mỹ Tho, Lái Thiêu, Trà Ôn, Tân Châu, Giá Rai, và một số huyện ở tỉnh Bến Tre quê hương ông. Tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tên đường Phan Thanh Giản cũng đã được đặt mới cho các tuyến đường tại Bà Rịa (phường Long Toàn) và Phú Mỹ (phường Phước Hòa).

Gia quyến

  • Phan Thanh Tập (nội tổ phụ - ông nội), Huỳnh Thị Học (nội tổ mẫu - bà nội).
  • Phan Thanh Ngạn (thân phụ - cha ruột), Lâm Thị Búp (thân mẫu - mẹ ruột), Trần Thị Dưỡng (kế mẫu - mẹ kế), Phan Thanh Diệu (bào đệ - em ruột cùng mẹ).
  • Phan thanh Giản kết hôn với người vợ đầu tiên là bà Nguyễn Thị Mỹ, người làng Mỹ An, huyện Phước Lộc, Gia Định. Bà Mỹ mất sớm, có một người con gái (1822) nhưng chết yểu khi mới sinh.
  • Năm 1825, Phan thanh Giản kết hôn với người vợ thứ hai là bà Lê, người làng Long Hồ. Bà Lê không có con và bị xuất thê (bỏ vợ).
  • Năm 1828, khi đang là Tham Hiệp Quảng Bình, Phan thanh Giản cưới bà Trần Thị Hoạch, con gái Án Sát Trần Công Án làm chính thất. Bà Hoạch sinh được ba người con trai là Phan Hương, Phan Tòng (Liêm) và Phan Tuyển (Tôn).

Ảnh

Hình:Dền thờ PTG.jpg|Đền thờ Phan Thanh Giản tại Bảo Thạnh. Tập tin:TuongPTG.jpg|Tượng Phan Thanh Giản trong đền thờ ông ở Bảo Thạnh. File:Cửa Hữu thành Long Hồ.jpg|Cửa Hữu thành Long Hồ (phục dựng để kỷ niệm). Image:Đình thần Phan Thanh Giản.jpg|Đình Thần Phan Thanh Giản tại chân núi Ba Thê.
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trường trung học Phan Thanh Giản**, tiền thân là **Collège de Cần Thơ** là một trường trung học tại Cần Thơ. Thành lập năm 1917, trường là một trong các cơ sở giáo dục lâu
**Phan Thanh Giản** (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867), tự **Tĩnh Bá** (靖伯), **Đạm Như** (淡如), hiệu **Mai Xuyên** (梅川), **Lương Khê** (梁溪); là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là
**Phần mềm gián điệp**, còn được dùng nguyên dạng Anh ngữ là **spyware**, là loại phần mềm chuyên thu thập các thông tin từ các máy chủ (thông thường vì mục đích thương mại) qua
**Phan Thanh Phước** (1916-1947), là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. ## Tiểu sử **Phan Thanh Phước** sinh tại Huế. Cha ông là Phan Thanh Kỷ (thuộc dòng dõi Phan Thanh Giản), làm
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
**Phan Thiết** là một thành phố ven biển cũ và là tỉnh lỵ, khu chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. ## Địa lý ###
**Trận Tương Dương – Phàn Thành** là trận chiến thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa phe Lưu Bị (người sáng lập nước Thục Hán) và Tào Tháo (người sáng lập nước Tào
**Phan** (chữ Hán: 潘) là một họ tại Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên (Hangul: 반, Hanja: 潘, phiên âm theo Romaja quốc ngữ là **Ban**). Phan là họ phổ biến thứ 6 với
**Bạc Liêu** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Bạc Liêu cũ, Việt Nam. ## Địa lý giữa|nhỏ|Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu tại phường 2 Thành phố Bạc Liêu nằm ở
**Phan Thành Tài** (1878 - 1916), một nhà yêu nước Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Và là một trong những yếu nhân của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quang Phục Hội (thường gọi là
**Quảng Ngãi** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Quảng Ngãi, thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Quảng Ngãi nằm ở trung bộ Việt Nam; cách
Chốt Sales Đàm Phán Thành Công Chốt Sales chia sẻ những hiểu biết sâu sắc về nghề bán hàng với những kỹ năng & các bước quan trọng giúp mọi cá nhân có thể tiến
Chốt Sales Đàm Phán Thành Công Chốt Sales chia sẻ những hiểu biết sâu sắc về nghề bán hàng với những kỹ năng & các bước quan trọng giúp mọi cá nhân có thể tiến
nhỏ|phải|Mặt tiền nhà nguyện **Nhà nguyện Tòa tổng Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh** là một ngôi nhà cổ tọa lạc trong khuôn viên tòa tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ
**Phan Thanh** (1 tháng 6 năm 1908 – 1 tháng 5 năm 1939) là một chính khách kiêm nhà báo người Việt Nam. Ông là đảng viên Đảng Xã hội Pháp (S.F.I.O), dân biểu của
nhỏ|Bản vẽ thành Vĩnh Long Cửa Hữu thành Long Hồ (phục dựng để kỷ niệm) **Thành Vĩnh Long** hay **thành Long Hồ** ở Vĩnh Long, được xây dựng dưới triều Nguyễn, là thành trì và
khung|phải|Biểu trưng của Nhà văn hóa Thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh **Nhà Văn hóa Thanh Niên Thành phố Hồ Chí Minh** là một địa điểm tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh,
**Phan Thanh Hùng ** (sinh năm 1960 tại Đà Nẵng) là cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá Việt Nam. Ông từng là huấn luyện viên trưởng CLB SHB Đà Nẵng đội tuyển
Dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu ở Phú Quốc**Thủy Long Thánh Mẫu** hay Thủy Đức Thánh Phi, Thủy Long Nương Nương, Thủy Long Thần Nữ (gọi chung là Bà Thủy) là các tên gọi phổ
**Phan Thanh Nam**, sinh năm 1930 tại Quy Nhơn, quê tại Bến Tre, là nhạc sĩ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007. ## Tiểu sử Phan
**Phan Thanh Sơn Nam** (sinh ngày 09 tháng 10 năm 1977, tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) giảng viên chuyên ngành hoá học ở Việt Nam, từng là trưởng khoa kỹ
**Đạt Phản Thành** (chữ Hán giản thể: 达坂城区) là một quận thuộc địa cấp thị Ürümqi của Khu tự trị Tân Cương, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận này có diện tích 5042 ki-lô-mét
**Nhà thờ chính tòa Thanh Hóa** tọa lạc tại số 232A đường Trường Thi, phường Hạc Thành, tỉnh Thanh Hóa. Đây là nhà thờ chính tòa của giáo phận Thanh Hóa. Nhà thờ chính tòa
**Phân phối sản phẩm** (còn được biết đến trong tiếng Anh đơn giản là **place** hoặc **Product distribution**) là một trong 4 yếu tố của marketing. Phân phối là một tiến trình mà cung cấp
**Nguyễn Tư Giản** (阮思僩, 1823–1890), trước có tên: **Văn Phú**, **Địch Giản**, sau mới đổi lại là **Tư Giản**, tự: **Tuân Thúc**(洵叔), **Hy Bật**, hiệu: **Vân Lộc**(雲麓) và **Thạch Nông**(石農). Ông là một danh sĩ
[[Phần cứng|Phần cứng máy tính là nền tảng cho xử lý thông tin (sơ đồ khối). ]] **Lịch sử phần cứng máy tính** bao quát lịch sử của phần cứng máy tính, kiến trúc của
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:ClamTk_5.27.png|nhỏ|300x300px|[[ClamTk, một phần mềm diệt vi-rút mã nguồn mở dựa trên công cụ diệt virus ClamAV, ban đầu được Tomasz Kojm phát triển vào năm 2001.]] nhỏ|255x255px|Ảnh chụp giao diện phần mềm diệt virus có
|header1 = || |labelstyle = padding-right:0.3em; |rowclass2 = mergedrow |label2 = Phân cấp |data2 = Di tích cấp quốc gia |rowclass3 = mergedrow |label3 = Vị trí |data3 = Phường 4, thành phố Vĩnh
nhỏ|Một [[neutron được bắn vào một hạt nhân urani-235, biến nó thành một hạt nhân urani-236 với năng lượng kích thích được cung cấp bởi động năng của neutron cộng với các lực liên kết
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Phan Hiển Đạo** (潘顯道, 1822-1864)hay **Tấn Sĩ Đạo** là danh sĩ và là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh trưởng tại làng Vĩnh Kim Đông, huyện Kiến Hưng,
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
thumbtime=6|nhỏ|_Original Films Of Frank B. Gilbreth (Part I)_ **Nghiên cứu thời gian và chuyển động** (hay **nghiên cứu chuyển động** **thời gian**) là một kỹ thuật hiệu quả kinh doanh kết hợp công việc Nghiên
**Phân tích website (Website analytics)** là việc đo lường, thu thập, phân tích và báo cáo dữ liệu web nhằm mục đích hiểu và tối ưu hóa việc sử dụng web. Tuy nhiên, phân tích
Trong vật lý, **không–thời gian** là một mô hình toán học kết hợp không gian ba chiều và 1 chiều thời gian để trở thành một không gian bốn chiều. Sơ đồ không–thời gian có
Các thành phần chính của [[máy tính cá nhân để bàn.1: Màn hình, 2: Bo mạch chủ, 3: CPU, 4: Chân cắm ATA, 5: RAM, 6: Các thẻ cắm mở rộng chức năng cho máy,
Các bảng băm phân tán **Bảng băm phân tán** (tiếng Anh: _distributed hash table_, viết tắt **DHT**) là một lớp các hệ thống phân tán không tập trung, cung cấp một dịch vụ tra cứu
Trong toán học, **không gian Sobolev** là một không gian vectơ của các hàm số trang bị với một chuẩn là tổng của chuẩn _Lp_ của hàm số đó cùng với các đạo hàm cho
**Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh** là đơn vị sự nghiệp báo chí trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đài truyền hình đầu tiên ở Việt
**Frankfurt** là một thành bang lớn của Đế chế La Mã Thần thánh, là nơi diễn ra các cuộc bầu cử đế quốc từ năm 885 và là thành phố tổ chức Lễ đăng quang
**Gian lận ngân hàng** là việc sử dụng các phương tiện có khả năng bất hợp pháp để có được tiền, tài sản hoặc của cải khác được sở hữu hoặc nắm giữ bởi một
THE SIMPLE CALMING TONER Đây là một dòng sản phẩm của SCINIC.Scinic là một thương hiệu mỹ phẩm chất lượng hóa học của Hàn Quốc. Được thành lập vào năm 2009. Scinic lấp đầy các
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
Trong phân loại sinh học, **Phân loại giới Động vật** cũng như phân loại sinh học là khoa học nghiên cứu cách sắp xếp các động vật sống thành các nhóm khác nhau dựa vào:
**Phần Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Phần Lan**, là một quốc gia thuộc khu vực Bắc Âu. Phần Lan giáp với Thụy Điển về phía Tây, Nga về phía Đông, Na Uy về phía
phải|Cỗ kiệu rước bàn thờ thánh ở miền Bắc vào cuối [[thế kỷ 19]] thumb|Người dân tại đền thờ [[Trần Nhân Tông, Huế]] thumb|Cổng vào Dinh Bà Thủy Long Thánh Mẫu, tại [[Dương Đông]] thumb|Bàn
**Sa Đéc** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Vùng đất Sa Đéc xưa có tên Khmer là Phsar Dek, có hai cách hiểu thứ nhất người ta cho rằng Phsar
**Châu Thành** là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Châu Thành nằm ở phía nam tỉnh Long An, cách thành phố Tân An khoảng 12 km, cách trung tâm
**Phan Liêm** (潘簾, 29 tháng 8 năm 1833 - 1896), tên là **Phan Thanh Tòng** (hay **Tùng**), tên chữ là **Liêm**, tự **Thúc Thanh**, nên còn được gọi là Phan Thanh Liêm. Và vì người
**Phần mềm dạng dịch vụ** (**SaaS** ) là mô hình cấp phép và phân phối phần mềm trong đó phần mềm được cấp phép trên cơ sở đăng ký và được lưu trữ tập trung.