✨Lịch sử hành chính Thành phố Hồ Chí Minh

Lịch sử hành chính Thành phố Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành chính trải qua nhiều lần thay đổi trong lịch sử tồn tại của thành phố.

Lịch sử hình thành

Thời Tiền Đại Việt (Giai đoạn trước 03/1698)

Trong thời kỳ Tiền Đại Việt địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thuộc về Phù Nam và sau đó là Chân Lạp. Chưa có tư liệu lịch sử nào cho thấy: Các nước nêu trên đã từng thiết lập một hình thức đơn vị hành chính hoặc cơ quan chính quyền, nhằm quản lý khu vực này. Tuy nhiên, vào năm 1623, Chân Lạp cho phép Đàng Trong Đại Việt lập hai đồn thu thuế tại Prei Nokor (nay tương ứng với địa bàn một phần các quận: 1 và 4) và Kas Krobei (nay tương ứng với địa bàn một phần thành phố Thủ Đức). Đây là những địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Đại Việt đi Chân Lạp và Xiêm La.

Thời Đại Việt - Việt Nam - Đại Nam (Giai đoạn 03/1698 - 27/02/1861)

Tháng 3/1698 Lễ Thành Hầu, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh phụng lệnh Quốc chúa Đàng Trong Đại Việt vào kinh lược vùng đất Đông Nam Bộ ngày nay, xác lập chủ quyền của Đại Việt trên vùng đất mới này.. Quan Thống suất thiết lập: Dinh Phiên Trấn, gồm huyện Tân Bình có bốn tổng (Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc, Bình Thuận) và dinh Trấn Biên, gồm huyện Phước Long có bốn tổng (Tân Chánh, Bình An, Long Thành, Phước An). Năm 1808 Hoàng đế Việt Nam (Việt Nam là quốc hiệu chính thức từ năm 1804) nâng huyện Tân Bình thành phủ Tân Bình thuộc trấn Phiên An (tức dinh Phiên Trấn đổi tên), bốn tổng trực thuộc thành bốn huyện (riêng huyện Bình Thuận đổi tên thành huyện Thuận An). Năm 1832 Hoàng đế Việt Nam đổi trấn Phiên An thành tỉnh Phiên An và cắt hai huyện Phước Lộc và Thuận An (huyện này năm 1837 đổi tên là Cửu An) của phủ Tân Bình, nhập sang phủ Tân An (mới lập) cùng tỉnh. Đến năm 1838 tỉnh Phiên An đổi tên thành tỉnh Gia Định. Năm 1841 Hoàng đế Đại Nam (quốc hiệu Việt Nam đổi thành Đại Nam từ ngày 15/02/1839) tách huyện Bình Dương, lập huyện mới Bình Long thuộc phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Do phủ Hòa Thạnh (lập năm 1841, với hai huyện: Tân Hòa và Tân Thạnh) giải thể nhập vào phủ Tân An từ năm 1851; nên đến trước lúc bị Pháp xâm chiếm, tỉnh Gia Định chỉ còn ba phủ trực thuộc: Tân Bình (gồm ba huyện: Bình Dương, Bình Long và Tân Long), Tân An (gồm bốn huyện: Cửu An, Phước Lộc, Tân Hòa và Tân Thạnh) và Tây Ninh (lập năm 1838, gồm hai huyện: Quang Hóa và Tân Ninh). Riêng phủ Tân Bình có 03 huyện với 18 tổng, 365 thôn (hoặc các đơn vị hành chính cơ sở khác tương đương như: ấp, bang, điếm, giáp, hộ, lân, nậu, phường, sóc, thủ, thuộc, xã) trực thuộc: Huyện Bình Dương có sáu tổng với 123 thôn (hoặc các đơn vị hành chính cơ sở khác tương đương): Tổng Bình Trị Thượng có 27 thôn; Tổng Bình Trị Trung có 21 thôn; Tổng Bình Trị Hạ có 26 thôn; Tổng Dương Hòa Thượng có 20 thôn; Tổng Dương Hòa Trung có 21 thôn; *Tổng Dương Hòa Hạ có 08 thôn; *Huyện Bình Long có sáu tổng với 85 thôn (hoặc các đơn vị hành chính cơ sở khác tương đương): Tổng Bình Thạnh Thượng có 16 thôn; Tổng Bình Thạnh Trung có 11 thôn; Tổng Bình Thạnh Hạ có 12 thôn; Tổng Cầu An Hạ có 12 thôn; Tổng Long Tuy Thượng có 20 thôn; *Tổng Long Tuy Trung có 14 thôn; *Huyện Tân Long có sáu tổng với 157 thôn (hoặc các đơn vị hành chính cơ sở khác tương đương): Tổng Tân Phong Thượng có 29 thôn; Tổng Tân Phong Trung có 31 thôn; Tổng Tân Phong Hạ có 21 thôn; Tổng Long Hưng Thượng có 22 thôn; Tổng Long Hưng Trung có 19 thôn; Tổng Long Hưng Hạ có 08 thôn. Năm 1808 Hoàng đế Việt Nam nâng huyện Phước Long thành phủ Phước Long thuộc trấn Biên Hòa (tức dinh Trấn Biên đổi tên), bốn tổng trực thuộc thành bốn huyện (riêng huyện Tân Chánh đổi tên thành huyện Phước Chánh). Năm 1832 Hoàng đế Việt Nam đổi trấn Biên Hòa thành tỉnh Biên Hòa; năm 1838 tách huyện Bình An, lập thêm huyện Ngãi An thuộc phủ Phước Long. Đồng thời cắt hai huyện Phước An và Long Thành của phủ này, nhập sang phủ Phước Tuy cùng tỉnh. Đến năm 1839 lập thêm huyện Phước Bình thuộc phủ Phước Long. Cho đến trước lúc bị Pháp xâm chiếm, phủ Phước Long thuộc tỉnh Biên Hòa có bốn huyện (Phước Chánh, Bình An, Ngãi An, Phước Bình) với 21 tổng. Huyện Nghĩa An thuộc phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa có năm tổng với 51 thôn (hoặc các đơn vị hành chính cơ sở khác tương đương): Tổng An Bình có 10 thôn; Tổng An Điền có 09 thôn; Tổng An Thổ có 10 thôn; Tổng An Thủy có 14 thôn; *Tổng Chánh Thiện có 08 thôn. *Tổng Long Vĩnh Hạ thuộc huyên Long Thành, phủ Phước Tuy, tỉnh Biên Hòa có 12 thôn. Địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay chủ yếu tương đương với các địa bàn dưới đây có trước khi Pháp chiếm Miền Đông Nam Kỳ, hợp lại: Phần lớn phủ Tân Bình thuộc tỉnh Gia Định, gồm: Toàn bộ huyện Bình Dương; nay tương ứng với địa bàn các quận: 1, 3, 4, 7, Phú Nhuận, Tân Bình, Tân Phú, Gò Vấp, Bình Thạnh, một phần của hai quận: 10 và 12 cùng hai huyện: Cần Giờ và Nhà Bè; Phần lớn huyện Bình Long; nay tương ứng với địa bàn hai huyện: Hóc Môn, Củ Chi, phần lớn quận 12 và một phần huyện Bình Chánh; *Phần lớn huyện Tân Long; nay tương ứng với địa bàn các quận: 5, 6, 8, 11, Bình Tân, một phần quận 10 và phần lớn huyện Bình Chánh; Một phần huyện Phước Lộc thuộc phủ Tân An, tỉnh Gia Định; nay tương ứng với địa bàn một phần huyện Bình Chánh; Phần lớn huyện Ngãi An thuộc phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa; nay tương ứng với phần lớn địa bàn thành phố Thủ Đức; Tổng Long Vĩnh Hạ thuộc huyện Long Thành, phủ Phước Tuy, tỉnh Biên Hòa; nay tương ứng với một phần thành phố Thủ Đức.

Thời Pháp thuộc và thời Đế quốc Việt Nam - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Quốc gia Việt Nam (Giai đoạn 28/02/1861 - 25/10/1955)

phải|nhỏ|Bản đồ thành phố Sài Gòn năm 1882 phải|nhỏ|Bản đồ Hạt 20, một đơn vị hành chính do [[Thống đốc Nam Kỳ quyết định thành lập bao gồm khu vực trung tâm đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn, năm 1882]] phải|nhỏ|Bản đồ hạt Sài Gòn năm 1885 phải|nhỏ|Bản đồ Sài Gòn và Chợ Lớn năm 1923

Tổng quan

Sau khi lần lượt xâm chiếm ba tỉnh (province) Miền Đông Nam Kỳ của nước Đại Nam: Gia Định (ngày 28/02/1861), Định Tường (ngày 12/04/1861) và Biên Hòa (ngày 18/12/1861), trong thời gian đầu chính quyền Pháp tạm thời duy trì các phủ (département), huyện (arrondissement) trực thuộc ba tỉnh này; bổ nhiệm các Tri phủ, Tri huyện quản lý người Việt, dưới sự chỉ đạo, giám sát chặt chẽ của viên Bố chánh tỉnh người Pháp (theo quyết định số 145 ngày 14/08/1862 của Thống đốc Nam Kỳ). Đồng thời chính quyền Pháp từng bước tổ chức hệ thống hành chính mới, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng chế độ cai trị trực tiếp tại vùng chiếm đóng. Chủ trương này được chính quyền Pháp đẩy mạnh, sau khi chiếm nốt ba tỉnh Miền Tây Nam Kỳ: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên trong thời gian năm ngày (20/06/1867-24/06/1867). Trên địa bàn tỉnh Gia Định (đến ngày 16/08/1867 đổi tên thành tỉnh Sài Gòn), chính quyền Pháp thành lập tuần tự các đơn vị hành chính dưới đây: Thành phố (Ville) Sài Gòn; Khu thanh tra (Inspection) Tây Ninh (lập ngày 17/02/1863) trên địa bàn phủ Tây Ninh (phủ này từ ngày 11/02/1864 có hai huyện trực thuộc là Quang Hóa và Tân Ninh); Khu thanh tra Tân An (lập ngày 9/11/1864) trên địa bàn hai huyện: Cửu An và Tân Thạnh của phủ Tân An; Khu thanh tra Phước Lộc (lập ngày 9/11/1864 trên địa bàn huyện Phước Lộc của phủ Tân An, sau đổi tên là khu thanh tra Cần Giuộc ngày 16/08/1867, rồi giải thế nhập vào khu thanh tra Chợ Lớn và khu thanh tra Tân An ngày 5/06/1871); Khu thanh tra Tân Hòa (lập ngày 9/11/1864 trên địa bàn huyện Tân Hòa của phủ Tân An, sau đổi tên là khu thanh tra Gò Công ngày 16/08/1867); Thành phố Chợ Lớn; Khu thanh tra Sài Gòn; Khu thanh tra Quang Hóa (lập ngày 3/02/1866 trên địa bàn huyện Quang Hóa của phủ Tây Ninh. Khu này tách ra từ khu thanh tra Tây Ninh, sau đổi tên là khu thanh tra Trảng Bàng ngày 16/08/1867, rồi giải thế nhập vào khu thanh tra Chợ Lớn và khu thanh tra Tây Ninh ngày 5/06/1871); *Khu thanh tra Chợ Lớn. Ngoài hai thành phố Sài Gòn vá Chợ Lớn có tổ chức hành chính riêng; các khu thanh tra tại Nam Kỳ chia thành tổng (canton), tổng chia thành thôn (village). Số lượng khu thanh tra lúc cao nhất (vào năm 1868), toàn Nam Kỳ có 27. Đến ngày 5/06/1871 các khu thanh tra đổi thành hạt (arrondissement) và thôn đổi thành làng (village). Đồng thời chính quyền Pháp chính thức giải thể các phủ, huyện có từ thời nước Đại Nam, được duy trì tạm trong thời kỳ đầu chiếm đóng Nam Kỳ. Số lượng hạt lúc cao nhất (vào năm 1882), toàn Nam Kỳ có 21. Từ ngày 1/01/1900 hạt gọi là tỉnh (mới). Số lượng tỉnh (mới) lúc cao nhất (vào năm 1944), toàn Nam Kỳ có 21. Từ thập niên 1900 chính quyền thuộc địa bắt đầu lập cấp hành chính trung gian giữa tỉnh (mới) và tổng, gọi là quận (circonscription) hoặc cơ sở phái viên hành chánh (délégation administrative ou poste administratif). Về sáu tỉnh tại Nam Kỳ (cũ) có từ thời Đại Nam, ngày 5/01/1876 Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định giải thể các tỉnh này (trong đó có tỉnh Sài Gòn, vốn chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, sau khi lập các khu thanh tra và thành phố trực thuộc). Thay bằng bốn khu vực hành chánh (circonscription administrative): Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát Xắc, đứng đầu mỗi khu vực là viên Thanh tra (Inspecteur). Khu vực hành chánh Sài Gòn có địa bàn rộng hơn, gồm cả hai tỉnh: Sài Gòn và Biên Hòa (cũ) hợp lại. Bốn khu vực hành chánh tồn tại đến ngày 10/10/1907 thì giải thể, thay thế bằng vùng I (Première région ou 1ère région) và vùng II, theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương. Đứng đầu mỗi vùng là viên Thanh tra. Vùng I có địa bàn rộng lớn, do hai khu vực hành chánh (cũ): Sài Gòn và Mỹ Tho tạo thành. Tuy nhiên, đến ngày 26/05/1911 hai vùng đều bị Toàn quyền Đông Dương ký nghị định bãi bỏ. Từ thời gian này, giữa chính quyền Nam Kỳ và các tỉnh (mới) không còn cấp trung gian nào nữa. *Địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, chủ yếu tương đương với thành phố Sài Gòn, thành phố Chợ Lớn, khu thanh tra Sài Gòn và một phần khu thanh tra Chợ Lớn nêu trên trong giai đoạn đầu của thời Pháp thuộc, hợp lại.

Tổ chức các đơn vị hành chính

Dưới đây tóm lược quá trình hình thành, tồn tại của những đơn vị hành chính trong giai đoạn 28/02/1861 - 25/10/1955, có địa giới là một phần của Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay: *Thành phố Sài Gòn Chính quyền Pháp thành lập thành phố Sài Gòn vào ngày 11/04/1861 theo nghị định của Thống đốc Nam Kỳ, trên địa bàn một số thôn của hai tổng: Bình Trị Thượng và Bình Trị Trung thuộc huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Địa giới hành chính lúc đầu chỉ gồm một phần của quận 1 hiện nay, diện tích 2 km², dân số năm 1864 10.577 người. Trong thời gian đầu Thống đốc Nam Kỳ, thông qua Nha Nội chánh (Direction de l'Intérieur), cai trị trực tiếp thành phố. Đến ngày 3/10/1865 Thống đóc Nam Kỳ ra nghị định xác định cụ thể ranh giới giữa thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn, theo nghị định này diện tích thành phố Sài Gòn là 3 km². Ngày 4/04/1867 Thống đốc Nam Kỳ ký nghị định số 53 thành lập Ủy hội thành phố (Commission municipale) đứng đầu là vị Ủy viên thành phố (Commissaire municipal), để quản lý thành phố. Đến ngày 8/07/1869 Thống đốc Nam Kỳ ký nghị định mới số 131 thay thế: Chức vụ Ủy viên thành phố được đổi thành Thị trưởng (Maire - một số tài liệu gọi là "Đốc lý"), đồng thời Ủy hội thành phố đổi thành Hội đồng thành phố (Conseil municipal) gồm 13 thành viên, có nhiều quyền hạn hơn. Ngày 8/01/1877 Tổng thống Pháp ký sắc lệnh công nhận thành phố Sài Gòn là đô thị (municipalité) loại I. Sau khi thành lập Liên bang Đông Dương vào ngày 17/10/1887, chức vụ Thị trưởng thành phô Sài Gòn do Hội đồng thành phố bầu chọn, Thống đốc Nam Kỳ đề nghị và Toàn quyền Đông Dương quyết định chuẩn y. Qua thời gian, các vùng đất lân cận được sáp nhập dần vào thành phố. Năm 1884 diện tích thành phố là 4,06 km², năm 1894 là 7,91 km², năm 1906 là 13,17 km², năm 1912 là 16,38 km². Năm 1881 dân số thành phố Sài Gòn có 13.481 người, năm 1884 có 14.459 người, năm 1902 có 50.870 người, năm 1910 có 64.121 người, năm 1930 tăng lên 143.306 người. Đến tháng 9/1889 thành phố Sài Gòn được chia thành hai quận cảnh sát (arrondissement policier): 1 và 2, chỉ đảm trách an ninh, trật tự trên địa bàn, không phải cấp hành chính; tháng 12/1920 lập thêm quận 3. Đứng đầu mỗi quận cảnh sát là vị Quận trưởng cảnh sát (Commissaire). *Thị trưởng quản lý thành phố thông qua các hộ (quartier) trực thuộc, là cấp hành chính đại diện. Năm 1896 thành phố có ba hộ: Cầu Ông Lãnh, Đa Kao và Khánh Hội. Đứng đầu mỗi hộ là Hộ trưởng (Chef-quartier ou Chef du quartier). Từ ngày 30/08/1905 số hộ trực thuộc là sáu. Thành phố Chợ Lớn phải|nhỏ|Bản đồ thành phố Chợ Lớn năm 1874 Thành phố Chợ Lớn được lập vào ngày 6/06/1865 theo nghị định của Thống đốc Nam Kỳ, trên địa bàn một số thôn của ba tổng: Tân Phong Thượng (tổng này mặc nhiên giải thế), Tân Phong Trung và Tân Phong Hạ thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đến ngày 3/10/1865 địa giới thành phố được xác định cụ thể với diện tích gần 1 km², chỉ là một phần quận 5 hiện nay. Quản lý thành phố trong thập niên 1870 có một cơ quan hành chính lâm thời gọi là Ban Đại diện thành phố (Délégation municipale), đứng đầu là vị Chủ tịch (Président). Ngày 20/10/1879. Thống đốc Nam Kỳ ban hành nghị định công nhận thành phố Chợ Lớn là đô thị loại II. Sau khi thành lập Liên bang Đông Dương vào ngày 17/10/1887, chức vụ Thị trưởng thành phố Chợ Lớn do Ủy hội thành phố (Commission municipale) bầu chọn, Thống đốc Nam Kỳ đề nghị và Toàn quyền Đông Dương quyết định chuẩn y. Địa giới hành chính của thành phố được mở rộng dần bằng việc sáp nhập các vùng lân cận. Khi mới thành lập thành phố chia thành năm phường (quartier - phân biệt với "quartier" của thành phố Sài Gòn được nhiều tài liệu dịch là hộ), đánh số từ 1 đến 5; năm 1903 thành phố có chín phường; năm 1912 tăng thêm phường 10. Tuy nhiên chức vụ Thị trưởng của hai thành phố: Sài Gòn và Chợ Lớn còn duy trì, cho đến năm 1934 mới bãi bỏ. RIêng hoạt động của hai tòa thị chánh (mairie ou hôtel de ville - còn gọi là dinh Xã Tây) Sài Gòn và Chợ Lớn còn tạm duy trì, để xử lý công việc hành chính. Đến ngày 19/12/1941 hai tòa thị chánh này kết thúc hoạt động. Phụ tá cho Khu trưởng quản lý khu vực thành phố Chợ Lớn cũ có vị Đặc phái viên Khu trưởng (Délégué spécial de l'Administrateur de la région à Cholon). Khu Sài Gòn - Chợ Lớn (chính thức hoạt động từ ngày 1/01/1932) có tổng diện tích 51 km², dân số năm 1931 khoảng 350.000 người, về hành chính khu chia thành mười tám hộ đánh số từ 1 đến 18; đứng đầu là Hộ trưởng. Về quản lý trị an, ngày 31/08/1933 khu được chia thành năm quận cảnh sát: 1, 2, 3, 4 và 5. Khu vực thành phố Sài Gòn cũ có ba quận: 1, 2 và 3; khu vực thành phố Chợ Lớn cũ có hai quận: 4 và 5. Đến ngày 22/09/1941 lập thêm quận cảnh sát 6 tại khu vực thành phố Sài Gòn cũ và năm 1952 lập quận cảnh sát 7 tại khu vực thành phố Chợ Lớn cũ. Ngày 26/03/1955 thành lập Nha Cảnh sát Đô thành tập trung thống nhất công tác quản lý trị an trên địa bàn de Saigon - Cholon_ ou _Ville-capitale de Saigon - Cholon''). Ngày 27/12/1952 chính quyền tiến hành điều chỉnh hành chính: Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn giải thể mười tám hộ trực thuộc (theo sắc lệnh số 104-NV của Thủ tướng Quốc gia Việt Nam), thành lập bảy quận. Từ ngày 5/06/1871 khu thanh tra Sài Gòn đổi thành hạt (một số tài liệu gọi là "hạt tham biện") Sài Gòn, đứng đầu là vị Chánh tham biện (Premier administrateur ou 1er administrateur) do Thống đốc Nam Kỳ bổ nhiệm. Đồng thời thôn cũng đổi tên gọi thành làng. Ngày 18/12/1872 thành lập hai tổng: Tổng Cần Giờ gồm 05 làng, từ phần đất cắt ra của hai tổng: Bình Trị Trung và Bình Trị Hạ; Tổng An Thành gồm 09 làng, từ phần đất cắt ra của tổng An Bình. Năm 1874 hạt Sài Gòn có mười bảy tổng và 231 làng: **Địa bàn huyện Bình Dương (cũ) có bảy tổng (Dương Hòa Thượng, Dương Hòa Trung, Dương Hòa Hạ, Bình Trị Thượng, Bình Trị Trung, Bình Trị Hạ, Cần Giờ) và 111 làng; Địa bàn huyện Bình Long (cũ) có bốn tổng (Long Tuy Thượng, Long Tuy Trung, Bình Thạnh Trung, Bình Thạnh Hạ) và 60 làng; *Địa bàn huyện Ngãi An (cũ) có sáu tổng (An Thổ, An Thủy, An Bình, An Điền, An Thành, Long Vĩnh Hạ) và 60 làng. Ngày 24/08/1876 hạt Sài Gòn đổi tên thành hạt Bình Hòa. Năm 1879 dân số hạt Bình Hòa là 243.430 người. Ngày 16/12/1885 hạt Bình Hòa đổi tên thành hạt Gia Định theo quyết định của Thống đốc Nam Kỳ. Từ ngày 1/01/1900 hạt Gia Định đổi tên gọi thành tỉnh Gia Định (căn cứ theo nghị định ký ngày 20/12/1899 của Toàn quyền Đông Dương). Đứng đầu tỉnh Gia Định là viên Chủ tỉnh (Chef-province ou Chef de la province) do Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Bên cạnh Chủ tỉnh có Hội đồng tỉnh (Conseil provincial - một số tài liệu gọi là "Hội đồng địa hạt"); giữ vai trò tư vấn trong việc quản lý địa phương. Tỉnh lỵ (Chef-lieu) tỉnh Gia Định đặt tại Bình Hòa. Năm 1902 dân số tỉnh Gia Định là 217.605 người, năm 1910 là 249.380 người, năm 1930 là 276.157 người. Năm 1905 tỉnh Gia Định có 18 tổng với 190 làng. So với năm 1874, tỉnh Gia Định giảm tổng Dương Hòa Trung (nhập sang hạt Chợ Lớn từ ngày 24/02/1885); thêm hai tổng: An Thít (chia tách từ tổng Cần Giờ vào ngày 28/02/1875) và Long Tuy Hạ (chia tách từ tổng Long Tuy Trung vào ngày 24/02/1885). Diện tích tỉnh Gia Định vào năm 1912 là 1.802,73 km². Từ ngày 1/01/1911 tỉnh Gia Định chia thành bốn quận: Thủ Đức, Nhà Bè, Gò Vấp và Hóc Môn. Đứng đầu mỗi quận là viên Chủ quận (Chef de la circonscription) do Thống đốc Nam Kỳ bổ nhiệm. *Dưới quận là tổng do Chánh tổng - còn gọi là Cai tổng (Chef du canton) đứng đầu. Chánh tổng do Chủ tỉnh bổ nhiệm. Năm 1940 tỉnh Gia Định có mười bảy tổng, cụ thể như sau: Quận Thủ Đức có sáu tổng: An Bình,An Điền, An Thành (tổng này giải thể từ 25/01/1945, các làng thuộc tổng sáp nhập vào hai tổng: An Bình và Long Vĩnh Hạ cùng quận), An Thổ, An Thủy và Long Vĩnh Hạ. Quận Nhà Bè có bốn tổng: Bình Trị Hạ, Dương Hòa Hạ, An Thít (còn gọi là An Thịt) và Cần Giờ. Quận Gò Vấp có ba tổng: Bình Trị Thượng, Dương Hòa Thượng, và Bình Thạnh Hạ. ***Quận Hóc Môn có bốn tổng: Bình Thạnh Trung, Long Tuy Thượng, Long Tuy Trung và Long Tuy Hạ.

Như thế so với năm 1905, vào năm 1940 tỉnh Gia Định giảm tổng Bình Trị Trung (giải thể từ 01/01/1917, các làng thuộc tổng sáp nhập vào hai tổng: An Bình và Bình Trị Thượng cùng tỉnh). Quận Thủ Đức tương đương với địa bàn huyện Ngãi An cũ; quận Hóc Môn chiếm phần lớn địa bàn huyện Bình Long cũ; quận Nhà Bè tương đương với một phần địa bàn huyện Bình Dương cũ; quận Gò Vấp tương đương với một phần của địa bàn hai huyện Bình Dương và Bình Long cũ. Tổng chia thành làng, đứng đầu là Hội đồng Kỳ mục (còn gọi là Hội đồng Hương chức Hội tề) (Conseil de Grand Notable ou Conseil villageois), hoạt động theo nghị định ngày 27/08/1904 của Toàn quyền Đông Dương. Hội đồng nảy do Hương cả phụ trách chung. Ngày 11/05/1944 17 làng và một số khu vực (nằm kế cận Khu Sài Gòn - Chợ Lớn) thuộc các quận: Gò Vấp, Nhà Bè và Thủ Đức của tỉnh Gia Định tách ra, để lập tỉnh Tân Bình mới. Tháng 8/1945 tỉnh Tân Bình giải thể, trả lại các vùng lấy trước đây cho ba quận Gò Vấp, Nhà Bè, Thủ Đức như cũ. Tái lập tổng Dương Hòa Thượng gồm bảy làng: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Hòa, Tân Hòa, Vĩnh Lộc và Phú Thọ Hòa, thuộc quận Gò Vấp. Ngày 3/05/1947 hai tổng: Cần Giờ và An Thít của quận Nhà Bè tách khỏi tỉnh Gia Định, chuyển sang thuộc tỉnh Vũng Tàu. Từ ngày 26/09/1947 chức danh Chủ tỉnh Gia Định đổi thành Tỉnh trưởng Gia Định. Hạt Hai Mươi Ngày 13/12/1880 Thống đốc Nam Kỳ ký nghị định tách một số làng (nằm kế cận thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn) của hạt Bình Hòa và hạt Chợ Lớn, lập hạt Hai Mươi (Vingtième arrondissement ou 20e arrondissement). Hạt này do Nha Nội chánh trực tiếp cai trị; gồm hai tổng: Bình Chánh Thượng có 7 làng trực thuộc, Dương Minh có 9 làng trực thuộc. Đến ngày 12/01/1988 hạt Hai Mươi giải thể: Tổng Dương Minh nhập vào hạt Chợ Lớn; tổng Bình Chánh Thượng bãi bỏ, các làng trực thuộc tổng này sáp nhập vào thành phố Sài Gòn và tổng Dương Hòa Thượng của hạt Gia Định. Tỉnh Tân Bình** Ngày 11/05/1944 Toàn quyền Đông Dương ký nghị định tách một số vùng (nằm kế cận Khu Sài Gòn - Chợ Lớn) của tỉnh Gia Định; bao gồm: Toàn bộ tổng Dương Hòa Thượng (có bảy làng: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Hoà, Tân Hòa, Vĩnh Lộc và Phú Thọ Hoà) của quận Gò Vấp, năm làng (Hanh Thông Xã, Hanh Thông Tây, Bình Hòa Xã, Thạnh Mỹ Tây và An Hội) thuộc tổng Bình Trị Thượng, quận Gò Vấp, năm làng thuộc tổng Bình Trị Hạ (Tân Thuận Đông, Tân Quy Đông, Phú Mỹ Tây, Phước Long Đông và Phú Xuân Hội) cùng một phần làng Long Đức Đông thuộc tổng Dương Hòa Hạ của quận Nhà Bè và một phần làng An Khánh Xã thuộc tổng An Bình của quận Thủ Đức; để lập tỉnh Tân Bình. Tỉnh lỵ tỉnh Tân Bình đặt tại Phú Nhuận. Tỉnh này chì có duy nhất quận Châu Thành lập ngày 19/09/1944, không có tổng trực thuộc, được chia ra ba khu vực quản lý: Gia Định, Thủ Thiêm và Nhà Bè. Đến ngày 25/10/1944 hai làng: An Hội và Hanh Thông Tây sáp nhập, lập thành làng Thông Tây Hội. Tỉnh Tân Bình tồn tại đến tháng 8/1945 thì giải thể. *Quận Cần Giờ - Quận Trung Quận - Quận Bình Xuyên Quận Cần Giờ thành lập từ 03/05/1947 thuộc tỉnh Vũng Tàu (đến năm 1952 tỉnh này đổi thành thị xã Vũng Tàu), trên cơ sở tách hai tổng: Cần Giờ và An Thít của quận Nhà Bè, tỉnh Gia Định. Quận Châu Thành thuộc tỉnh Chợ Lớn (đơn vị hành chính riêng biệt với thành phố Chợ Lớn) thành lập năm 1918 với lỵ sở đặt chung trong thành phố Chợ Lớn, đến năm 1930 đổi tên thành quận Trung Quận hay còn gọi là quận Trung ương. Từ ngày 4/02/1947 đổi thành quận Gò Đen, do lỵ sở dời về thị tứ mang tên này (tuy nhiên tên gọi Trung Quận vẫn thông dụng hơn). Quận có bốn tổng: Tân Phong Hạ, Long Hưng Thượng, Long Hưng Trung và Long Hưng Hạ. **Quận Bình Xuyên thuộc tỉnh Chợ Lớn tồn tại trong các thời gian từ 02/05/1933-12/1944 và từ 01/1953-22/10/1956, do tách ra tổng Tân Phong Hạ của quận Trung Quận. Sau đó quận Bình Xuyên giải thể, trả lại tổng Tân Phong Hạ cho quận Trung Quận như cũ.

Thời Việt Nam Cộng hòa (Giai đoạn 26/10/1955 - 29/04/1975)

Dưới đây tóm lược quá trình hình thành, tồn tại của những đơn vị hành chính trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, có địa giới là một phần của Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay:

Đô thành Sài Gòn

Tổ chức chính quyền Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22/10/1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn đổi thành Đô thành Sài Gòn. đứng đầu là Đô trưởng do Tổng thống bổ nhiệm (thời kỳ đầu là viên chức dân sự, giai đoạn từ năm 1963 trở đi do tình hình chiến cuộc, chức vụ này thường do một sĩ quan cấp Đại tá trở lên đảm nhiệm), có một Tổng thơ ký và hai Phó Đô trưởng phụ tá (một phụ trách nội an, một phụ trách hành chính). Đô thành chia thành quận, dưới quận là phường, dưới phường là khóm; đứng đầu lần lượt là Quận trưởng, Phường trưởng và Khóm trưởng. Quận, phường và khóm chỉ là những cấp hành chính mang tính chất đại diện cho chính quyền Đô thành trên địa bàn quản lý. Khóm thường gồm từ 10-30 liên gia (có khoảng 20-40 gia đình/ liên gia), đứng đầu là Liên gia trưởng do dân bầu chọn. Sắc lệnh số 74-TTP ngày 23/03/1959 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa quy định quy chế quản trị Đô thành Sài Gòn, theo đó các chức vụ Đô trưởng và Quận trưởng do Tổng thống bổ nhiệm. Đô thành Sài Gòn có Hội đồng Đô thành (đứng đầu là vị Chủ tịch), gồm 35 nghị viên do dân bầu. Trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba (tức ba quận: 1, 2, 3 cũ) giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính): Quận Nhứt, địa giới quận 1 cũ; Quận Nhì, địa giới quận 2 cũ; Quận Ba, địa giới quận 3 cũ; Quận Tư, địa giới thuộc quận 6 cũ; Quận Năm, địa giới quận 7 và phần địa giới thuộc quận 4 cũ, phía bắc Kênh Tàu Hủ; Quận Sáu, một phần địa giới của quận 5 cũ; Quận Bảy, một phần địa giới của quận 5 cũ; *Quận Tám, phần địa giới thuộc quận 4 cũ, phía nam Kênh Tàu Hủ. Nghị định số 504-BNV/NC/8 ngày 22/04/1959 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa lập cấp hành chính phường dưới cấp quận; tám quận của Đô thành Sài Gòn chia thành 41 phường trực thuộc. Năm 1965 Đô thành Sài Gòn có tám quận, bao gồm 54 phường, 707 khóm với tổng cộng 1.485.295 dân. Sắc lệnh số 100-SL/NV ngày 15/06/1966 của Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương Việt Nam Cộng hòa cắt xã An Khánh Xã của quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định; nhập vào quận Nhứt. Diện tích Đô thành tăng lên 67,53 km² vả không thay đổi đến tháng 4/1975. Ngày 5/12/1966 xã An Khánh Xã được chia thành hai phường mới: An Khánh và Thủ Thiêm trực thuộc quận Nhứt. Sắc lệnh số 9-SL/ĐUHC ngày 17/01/1967 của Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương Việt Nam Cộng hòa lập quận Chín mới, trên cơ sở hai phường: An Khánh và Thủ Thiêm tách khỏi quận Nhứt. Sắc lệnh số 073-SL/NV ngày 1/07/1969 của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa thành lập quận Mười và quận Mười Một. Quận Mười hình thành từ hai phường: Chí Hòa, Phan Thanh Giản của quận Ba và hai phường: Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương của quận Năm; quận Mười Một hình thành từ phường Phú Thọ của quận Năm và ba phường: Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa của quận Sáu. Từ thời gian này Đô thành có tổng cộng mười một quận. *Về số phường, năm 1959 Đô thành Sài Gòn có 41 phường: Quận Nhứt có 04 phường: Bến Nghé, Hoà Bình, Tự Đức, Trần Quang Khải; Quận Nhì có 04 phường: Chợ Bến Thành, Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ; Quận Ba có 05 phường: Chí Hoà, Bàn Cờ, Đài Chiến Sĩ, Trương Minh Giảng, Yên Đổ; Quận Tư có 04 phường: Bến Xà Lan, Lý Nhơn, Xóm Chiếu, Vĩnh Hội; Quận Năm có 06 phường: An Đông, Chợ Quán, Trung ương, Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phú Thọ; Quận Sáu có 07 phường: Bình Tây, Bình Tiên, Chợ, Phú Lâm, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hoà; Quận Bảy có 06 phường: Bến Đá, Bình Đông, Cây Sung, Hàng Thái, Phú Định, Rạch Cát; Quận Tám có 05 phường: Bình An, Chánh Hưng, Hưng Phú, Rạch Ông, Xóm Củi. Qua thời gian do mở rộng địa giới và một số phường được chia nhỏ (có trường hợp đổi tên), số phường tăng dần: Năm 1962 có 54 phường, do: ****Quận Nhì lập thêm ba phường: Bùi Viện, Nguyễn Cảnh Chân và Nguyễn Cư Trinh. Như thế lúc này quận có 07 phường: Quận Ba giải thể phường Đài Chiến Sị; lập mới sáu phường: Cộng Hoà, Cư Xá Đô Thành, Hiền Vương, Lê Văn Duyệt, Phan Đình Phùng và Phan Thanh Giản. Như thế lúc này quận có 10 phường; Quận Tư giải thể phường Bến Xà Lan; lập mới hai phường: Cây Bàng và Khánh Hội. Như thế quận có 05 phường; Quận Năm giải thể phường Trung ương; lập mới năm phường: Đồng Khánh, Hồng Bàng, Khổng Tử, Nguyễn Huỳnh Đức và Trang Tử. Như thế lúc này quận có 10 phường; Năm 1966 Đô thành có 56 phường, do lập thêm hai phường: An Khánh và Thủ Thiêm tại quận Nhứt, như thế quận này có 06 phường; Đầu năm 1967, tách hai phường: An Khánh và Thủ Thiêm lập quận Chín, quận Nhứt còn 04 phường; Năm 1969 tách đất của ba quận: Ba, Năm và Sáu, để lập mới quận Mười với 04 phường (Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Chí Hòa) và quận Mười Một với 04 phường (Phú Thọ, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa). Như thế quận Ba còn 08 phường, quận Năm còn 07 phường và quận Sáu còn 04 phường. Tổng số phường của Đô thành vẫn là 56; Năm 1972 lập thêm bốn phường: Bình Phú tại quận Sáu (quận này có 05 phường); Nhật Tảo tại quận Mười (quận này có 05 phường); Bình Thạnh và Phú Thạnh tại quận Mười Một (quận này có 06 phường); đồng thời đổi tên phường Chợ Bến Thành của quận Nhì thành Bến Thành. Số phương Đô thành tăng lên 60; **Năm 1974 lập thêm hai phường: Trần Quang Diệu tại quận Ba (quận này có 09 phường) và Nguyễn Trãi tại quận Năm (quận này có 08 phường); số phường Đô thành là 62. Về số khóm, năm 1965 Đô thành có 707 khóm, năm 1972 tăng lên 861 khóm. Năm 1972 toàn Đô thành có 14.288 liên gia. Dân số Đô thành Sài Gòn năm 1968 là 1.750.606 người, năm 1970 là 1.759.816 người, năm 1974 là 1.825.297 người.

Tỉnh Gia Định

Tổ chức chính quyền Dưới thời Việt Nam Cộng hòa cấp tỉnh chia thành quận, quận chia thành tổng, dưới tổng là xã (trước 1956 gọi là làng). Đứng đầu lần lượt là: Tỉnh trưởng (do Tổng thống bổ nhiệm), Quận trưởng, Chánh tổng và Xã trưởng. Xã chia thành nhiều ấp, đứng đầu mỗi ấp là Ấp trưởng. Tỉnh Gia Định có Hội đồng tỉnh Gia Định (đứng đầu là vị Chủ tịch), gồm 30 nghị viên do dân bầu. Hội đồng này có thẩm quyền quyết định về ngân sách, các vấn đề dân sinh trên địa bàn và giám sát việc quản lý của Tỉnh trưởng. Quận và tổng không có Hội đồng tương ứng, do chỉ là cấp hành chính đại diên cho tỉnh. Riêng cấp xã do làng, xã Việt Nam theo truyền thống lịch sử có tính tự quản cao, nên có Hội đồng xã do dân bầu, có thẩm quyền trên các vấn đề đới sống của địa phương. Phân chia đơn vị hành chính Ngày 29/11/1955 chính quyền cắt tổng Bình Thạnh Hạ của quận Gò Vấp, nhập vào quận Hóc Môn. Tổng này được nhập thêm một phần tổng Long Tuy Thượng cùng quận Hóc Môn và đổi tên thành tổng Long Bình. Năm 1956 sáp nhập hai xã: Tân Đông Thượng và Đông Hưng Thuận cùng thuộc tổng Bình Thạnh Trung, quận Hóc Môn, thành xã Đông Hưng Tân. Đầu năm 1957 giải thể tổng An Thổ của quận Thủ Đức, các xã thuộc tổng này sáp nhập vào tổng An Thủy và tổng An Điền cùng quận. Ngày 8/04/1957 ba tổng: Tân Phong Hạ, Long Hưng Thượng và Long Hưng Trung (tổng này được nhập thêm ba xã: Hưng Long, Qui Đức và Tân Quý Tây của tổng Phước Điền Thượng, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn) thuộc quận Gò Đen (Trung Quận) của tỉnh Chợ Lớn giải thể (theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22/10/1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa) được sáp nhập vào tỉnh Gia Định, lập nên quận Bình Chánh mới. Riêng tổng Long Hưng Hạ cùng quận Gò Đen (Trung Quận) cũ, nhập vào quận Bến Lức mới lập của tỉnh Long An; Ngày 24/04/1957 chính quyền cắt bốn xã: Long Đức, Nhơn Đức, Hiệp Phước và Phú Lễ của tổng Dương Hòa Hạ, quận Nhà Bè chuyển sang thuộc quận Cần Giuộc, tỉnh Long An. Riêng hai xã: Long Kiểng và Phước Lộc Thôn của tổng này nhập vào tổng Bình Trị Hạ, quận Nhà Bè. Nghị định số 138-BNV/HC/NĐ ngày 29/04/1957 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa cắt tổng Dương Hòa Thượng (gồm bảy xã) của quận Gò Vấp, lập nên quận Tân Bình mới. Đây là quận thứ sáu của tỉnh Gia Định. Ngày 2/05/1957 chính quyền cắt hai tổng: An Thủy và Long Vĩnh Hạ của quận Thủ Đức, sáp nhập vào quận Dĩ An, tỉnh Biên Hòa. Ngày 30/08/1957 tách ba tổng: Long Tuy Thượng, Long Tuy Trung và Long Tuy Hạ của quận Hóc Môn, lập nên quận Củ Chi thuộc tỉnh Bình Dương. Ngày 29/02/1960 nhập xả Tân Hòa thuộc tổng Dương Hòa Thượng, quận Tân Bình, vào xã Vĩnh Lộc cùng tổng. Ngày 3/06/1960 nhập xả Quới Xuân thuộc tổng Bình Trị Thượng, quận Gò Vấp, vào xã Thạnh Lộc Thôn cùng tổng. Ngày 31/08/1961 hai xã: Long Đức và Nhơn Đức, tổng Dương Hòa Hạ, quận Cần Giuộc, tỉnh Long An trả lại cho quận Nhà Bè (nhập vào tổng Bình Trị Hạ). Ngày 10/10/1962 tổng Long Vĩnh Hạ, quận Dĩ An, tỉnh Biên Hòa trả lại cho quận Thủ Đức. Sau nhiều lần thay đổi, điều chỉnh địa giới hành chính, đến cuối năm 1962 tỉnh Gia Định có mười một tổng: **Quận Thủ Đức có ba tổng: An Bình,An Điền và Long Vĩnh Hạ. Quận Nhà Bè có một tổng là Bình Trị Hạ. Quận Gò Vấp có một tổng là Bình Trị Thượng. Quận Tân Bình có một tổng là Dương Hòa Thượng. Quận Hóc Môn có hai tổng: Bình Thạnh Trung và Long Bình. Quận Bình Chánh có ba tổng: Tân Phong Hạ, Long Hưng Thượng và Long Hưng Trung. Từ năm 1962 chính quyền bỏ dần, đến năm 1965 bỏ hẳn cấp hành chính tổng. Ngày 17/11/1965 hai quận: Quảng Xuyên và Cần Giờ được cắt từ tỉnh Biên Hoà nhập vào tỉnh Gia Định. Ngày 11/12/1965 lập xã Tân Phú thuộc quận Tân Bình, từ phần đất cắt ra của hai xã: Tân Sơn Nhì và Phú Thọ Hòa cùng quận. Tính đến cuối năm 1965 tỉnh Gia Định có diện tích 1.554,63 km², dân số 925.428 người, có 8 quận (Gò Vấp, Tân Bình, Thủ Đức, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ và Quảng Xuyên), 74 xã và 340 ấp. Ngày 15/06/1966 xã An Khánh Xã của quận Thủ Đức bị cắt nhập vào Đô thành Sài Gòn, diện tích tỉnh Gia Định giảm còn 1545,4 km² với 73 xã; từ đây địa giới hành chính của tỉnh giữ ổn định cho đến 30/04/1975. Ngày 4/04/1972 thành lập xã Phước Bình thuộc quận Thủ Đức, do chia tách từ xã Phước Long Xã cùng quận. Lúc này tổng số xã của tỉnh Gia Định là 74, lập thành quân Củ Chi mới. Dân số quận Củ Chi năm 1964 là 57.152 người, gồm 06 xã (Tân An Hội, Phước Hiệp, Thái Mỹ, Trung Lập, Phước Vĩnh Ninh và Tân Phú Trung) và 53 ấp, có diện tích 206,8 km². Năm 1973 lập thêm xã Tân Thông Hội từ phần đất cắt ra của xã Tân An Hội. *Toàn bộ tổng Long Tuy Trung và bốn xã còn lại của tổng Long Tuy Thượng (Tân Thạnh Đông, Bình Mỹ, Tân Hòa và Trung An), gồm tám xã phía đông vẫn thuộc thuộc tỉnh Bình Dương, lập nên quận Phú Hòa mới. Dân số quận Phú Hòa năm 1964 là 48.913 người, gồm 08 xã (An Nhơn Tây, Bình Mỹ, Nhuận Đức, Phú Hòa Đông, Phú Mỹ Hưng, Tân Hòa, Tân Thạnh Đông và Trung An) và 57 ấp, có diện tích 237 km². Năm 1972 chia xã Tân Hòa thành hai xã: Hòa Phú và Tân Thạnh Tây.

Dưới đây là Danh sách các phường, xã của Đô thành Sài Gòn, tỉnh Gia Định, quận Củ Chi và quận Phú Hòa đến ngày 29/04/1975.

Thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Giai đoạn 30/04/1975 - 01/07/1976)

*Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30/04/1975, ngày 3/05/1975 thành phố Sài Gòn - Gia Định được thành lập. Theo nghị quyết ngày 9/05/1975 của Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam thành phố Sài Gòn - Gia Định, thành phố hình thành trên cơ sở sáp nhập các đơn vị hành chính thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa dưới đây: Đô thành Sài Gòn gồm mười một quận; Tỉnh Gia Định gồm các quận Gò Vấp, Tân Bình, Hóc Môn, Thủ Đức, Bình Chánh và Nhà Bè. Riêng hai quận: Cần Giờ và Quảng Xuyên chuyển sang trực thuộc tỉnh Biên Hòa (hai quận này vốn thuộc địa bàn huyện Duyên Hải của tỉnh Biên Hòa theo phân chia đơn vị hành chính của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam trước ngày 30/04/1975, xem thêm Ghi chú (10c)); Quận Củ Chi thuộc tỉnh Hậu Nghĩa; Quận Phú Hòa thuộc tỉnh Bình Dương; Xã Hiệp Phước thuộc quận Cần Giuộc, tỉnh Long An; Một phần xã Đức Hòa, quận Đức Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa. Thành phố Sài Gòn - Gia Định mới lập được tổ chức lại thành 18 quận và 5 huyện, bao gồm: **Mười một quận của Đô thành Sài Gòn (cũ): Nhất (thay vì viết Nhứt như thời Việt Nam Cộng hòa), Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy, Tám, Chín, Mười và Mười Một. Bảy xã "đô thị hóa" của tỉnh Gia Định (cũ) được nâng thành quận: Bình Hòa (xã Bình Hòa Xã thuộc quận Gò Vấp cũ); Thạnh Mỹ Tây; Hạnh Thông (xã Hanh Thông Xã thuộc quận Gò Vấp cũ); Thông Tây Hội (gồm cả xã An Nhơn Xã thuộc quận Gò Vấp cũ); Phú Nhuận (xem thêm Ghi chú (10f)); Tân Sơn Nhì (gồm cả hai xã: Tân Phú và Phú Thọ Hòa thuộc quận Tân Bình cũ, xem thêm Ghi chú (10f)); **Tân Sơn Hòa (xem thêm Ghi chú (10f)). *Năm huyện: **Củ Chi (gồm hai quận Củ Chi và Phú Hòa nhập lại); Bình Chánh (gồm quận Bình Chánh, hai xã: Vĩnh Lộc và Bình Hưng Hòa của quận Tân Bình cũ và xã Bình Lợi là phần đất cắt từ xã Đức Hòa, quận Đức Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa cũ, xem thêm Ghi chú (9), sáp nhập với nhau); Hóc Môn (gồm quận Hóc Môn và hai xã: An Phú Đông, Thạnh Lộc Thôn của quận Gò Vấp cũ sáp nhập); Nhà Bè (gồm cả xã Hiệp Phước thuộc quận Cần Giuộc, tỉnh Long An); Thủ Đức. Dân số thành phố Sài Gòn - Gia Định vào tháng 5/1975 theo thống kê của chính quyền thành phố là 3.498.120 người. Ngày 20/05/1976 tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn - Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20/05/1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn - Gia Định): *Mười tám quận nội thành được chuyển thành mười hai quận mới gồm: Quận 1 (sáp nhập quận Nhất và quận Nhì cũ); Quận 3 (quận Ba cũ); Quận 4 (quận Tư cũ); Quận 5 (quận Năm cũ); Quận 6 (quận Sáu cũ); Quận 8 (sáp nhập quận Bảy và quận Tám cũ); Quận 10 (quận Mười cũ); Quận 11 (quận Mười Một cũ); Quận Bình Thạnh (sáp nhập hai quận Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây cũ); Quận Phú Nhuận; Quận Gò Vấp (sáp nhập hai quận Hạnh Thông và Thông Tây Hội cũ); Quận Tân Bình (sáp nhập hai quận Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Hòa cũ); **Riêng quận Chín giải thể, chia thành hai xã: Thủ Thiêm và An Khánh nhập vào huyện Thủ Đức. **Năm huyện (Củ Chi, Bình Chánh, Hóc Môn, Nhà Bè và Thủ Đức) giữ nguyên. Như thế thành phố Sài Gòn - Gia Định có 12 quận và 5 huyện. Đơn vị hành chính trực thuộc quận, huyện: Quận chia thành phường: Thời gian đầu, về cơ bản số phường, xã được giữ tương tự như thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Có những điều chỉnh do phường hiện hữu có diện tích quá nhỏ hoặc tương đối ít dân cư như: quận Nhất sáp nhập phường Hòa Bình vào phường Bến Nghé; quận Nhì sáp nhập phường Bến Thành vào phường Nhà thờ Huyện Sĩ, phường mới mang tên phường Huyện Sĩ; quận Năm sáp nhập phường Hồng Bàng vào phường Nguyễn Trãi, sáp nhập phường Khổng Tử vào phường Trang Tử; đồng thời quận Mười Một đổi tên phường Phú Thọ Hòa thành phường Phú Hòa, để tránh nhầm lẫn với phường Phú Thọ Hòa của quận Tân Sơn Nhì kế cận. Như thế lúc này quận Nhất còn ba phường, quận Nhì còn sáu phường và quận Năm còn sáu phường. Đối với các quận mới lập từ các xã "đô thị hóa", chuyển các ấp (cũ) thành phường như quận Phú Nhuận có tám phường (Đông Nhất, Đông Nhì, Đông Ba, Trung Nhất, Trung Nhì, Tây Nhất, Tây Nhì và Tây Ba) vốn là các ấp: Đông Nhứt, Đông Nhì, Đông Ba, Trung Nhứt, Trung Nhì, Tây Nhứt, Tây Nhì và Tây Ba của xã Phú Nhuận cũ. Tương tự quận Bình Hòa có mười phường, từ Dân Trí 1 đến Dân Trí 10; quận Thạnh Mỹ Tây có mười phường, từ Nhất Trí 1 đến Nhất Trí 10. *Đến tháng 5/1976 với việc sắp xếp lại các quận lần hai; các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 1 chia ra 25 phường, đánh số từ 1 đến 25 (địa bàn quận Nhất cũ có 10 phường từ 1-10, địa bàn quận Nhì cũ có 15 phường từ 11-25). Tương tự quận 3 có 25 phường; quận 4 có 18 phường; quận 5 có 24 phường; quận 6 có 20 phường; quận 8 có 22 phường; quận 10 có 25 phường; quận 11 có 21 phường; quận Phú Nhuận có 17 phường; quận Gò Vấp có 17 phường; quận Bình Thạnh có 28 phường (địa bàn quận Bình Hòa cũ có 14 phường từ 1-14, địa bàn quận Thạnh Mỹ Tây cũ có 14 phường từ 15-28) và quận Tân Bình có 28 phường. Tổng cộng số phường là 270. *Huyên chia thành xã và thị trấn. Tổng cộng có 01 thị trấn và 74 xã, cụ thể như sau: Huyện Thủ Đức: Sau 30/04/1975 chính quyền chuyển xã Linh Đông Xã thành thị trấn Thủ Đức; đổi tên năm xã: Tam Bình Xã thành Tam Bình, Long Phước Thôn thành Long Phước, Linh Xuân Thôn thành Linh Xuân, Phước Long Xã thành Phước Long và Hiệp Bình Xã thành Hiệp Bình, Đến tháng 5/1976 huyện nhận hai xã: An Khánh và Thủ Thiêm vốn là hai phường của quận Chín giải thể, nhập về. Như thế huyện Thủ Đức gồm 1 thị trấn (Thủ Đức) và 16 xã (An Khánh, An Phú, Bình Trưng, Hiệp Bình, Linh Xuân, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình, Phước Long, Tam Bình, Tăng Nhơn Phú, Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Thiêm); Huyện Bình Chánh: Sau 30/04/1975 huyện nhận thêm hai xã: Bình Hưng Hòa và Vĩnh Lộc của quận Tân Bình (cũ) và xã Bình Lợi (nguồn gốc xã này đã nêu tại phần trên). Đến tháng 5/1976 chính quyền sáp nhập hai xã: An Phú và Phong Đức với nhau, lập nên xã Phong Phú. Như thế huyện Bình Chánh có 17 xã (An Lạc, An Phú Tây, Bình Chánh, Bình Hưng, Bình Hưng Hòa, Bình Lợi, Bình Trị Đông, Đa Phước, Hưng Long, Phong Phú, Qui Đức, Tân Kiên, Tân Nhựt, Tân Quý Tây, Tân Tạo, Tân Túc, Vĩnh Lộc); Huyện Hóc Môn: Sau 30/04/1975 huyện nhận thêm hai xã: An Phú Đông và Thạnh Lộc (trước gọi là Thạnh Lộc Thôn) của quận Gò Vấp (cũ); đồng thời đổi tên xã Đông Hưng Tân thành Đông Hưng Thuận, xã Tân Thới Trung thành Tân Xuân; xã Tân Thới Nhứt viết lại thành Tân Thới Nhất. Như thế huyện Hóc Môn có 14 xã (An Phú Đông, Đông Hưng Thuận, Đông Thạnh, Nhị Bình, Tân Hiệp, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Tân Thới Nhì, Tân Xuân, Thạnh Lộc, Thới Tam Thôn, Trung Mỹ Tây, Xuân Thới Sơn, Xuân Thới Thượng); Huyện Nhà Bè: Sau 30/04/1975 huyện nhận thêm xã Hiệp Phước từ huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An; sáp nhập hai xã: Phước Long Đông và Long Kiểng với nhau, lập thành xã Phước Kiển; đổi tên xã Phú Mỷ Tây thành Phú Mỹ, xã Phú Xuân Hội thành Phú Xuân, xã Tân Quy Đông thành Tân Quy, xã Tân Thuận Đông thành Tân Thuận, xã Phước Lộc Thôn thành Phước Lộc và xã Long Đức thành Long Thới. Như thế huyện Nhà Bè có 9 xã (Hiệp Phước, Long Thới, Nhơn Đức, Phú Mỹ, Phú Xuân, Phước Kiển, Phước Lộc, Tân Quy, Tân Thuận); Huyện Củ Chi: Hình thành từ việc sáp nhập quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa (cũ) và quận Phú Hòa, tỉnh Bình Dương (cũ), có tổng cộng 16 xã khi lập huyện. Sau đó chính quyền đổi tên xã Phước Vĩnh Ninh thành Phước Vĩnh An, Tháng 5/1976 lập thêm hai xã mới: Pham Văn Cội 1 và Pham Văn Cội 2, từ các phần đất cắt ra của ba xã: Nhuận Đức, Phú Mỹ Hưng và An Nhơn Tây. Như thế huyên Củ Chi có 18 xã (An Nhơn Tây, Bình Mỹ, Hòa Phú, Nhuận Đức, Phạm Văn Cội 1, Phạm Văn Cội 2, Phú Hòa Đông, Phú Mỹ Hưng, Phước Hiệp, Phước Vĩnh An, Tân An Hội, Tân Phú Trung, Tân Thạnh Đông, Tân Thạnh Tây, Tân Thông Hội, Thái Mỹ, Trung An, Trung Lập). *Cấp phường, trong giai đoạn đầu sau khi tiếp quản, được chia thành nhiều khóm, xã chia thành nhiều ấp (tương tự như thời Việt Nam Cộng hòa). Từ tháng 12/1975 bỏ dần, đến tháng 5/1976 bỏ hẳn khóm tại các phường nội thành.

Về tổ chức chính quyền thời gian đầu sau khi tiếp quản, thành phố do Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định (đứng đầu là vị Chủ tịch) quản lý. Từ ngày 21/01/1976 trách nhiệm quản lý này được chuyển giao cho cơ quan thay thế là Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn - Gia Định (đứng đầu là vị Chủ tịch), do Chình phù Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thành lập

Ngày 18 tháng 9 năm 1976, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 164-CP thành lập huyện Côn Sơn trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 15 tháng 1 năm 1977, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI, kỳ họp thứ 2 ban hành nghị quyết phê chuẩn việc đổi tên huyện Côn Sơn thành huyện Côn Đảo và sáp nhập huyện Côn Đảo vào tỉnh Hậu Giang.

Ngày 23 tháng 3 năm 1977, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng ban hành Quyết định 55-BT. Theo đó, thành lập thị trấn Hóc Môn thuộc huyện Hóc Môn trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của các xã Tân Thới Nhì, Thới Tam Thôn và Tân Hiệp.

Ngày 13 tháng 4 năm 1977, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng ban hành Quyết định 80-BT. Theo đó, thành lập hai xã Lê Minh Xuân và Phạm Văn Hai thuộc huyện Bình Chánh ở vùng kinh tế mới.

Ngày 22 tháng 6 năm 1977, quận Tân Bình giải thể Phường 27 và Phường 28, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận.

Ngày 29 tháng 12 năm 1978, Quốc hội ban hành Nghị quyết phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Hà Sơn Bình, Vĩnh Phú, Cao Lạng, Bắc Thái, Quảng Ninh. Theo đó, sáp nhập huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai vào Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 52-CP. Theo đó: Giải thể Phường 3, Phường 11 và Phường 15 thuộc Quận 6, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận Giải thể Phường 10, Phường 13 và Phường 18 thuộc Quận 10, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận.

Ngày 12 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 67-HĐBT. Theo đó: Giải thể xã An Lạc thuộc huyện Bình Chánh để thành lập thị trấn An Lạc, thị trấn huyện lỵ huyện Bình Chánh Giải thể Phường 2, Phường 4 và Phường 6 thuộc Quận 3, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận *Giải thể Phường 4, Phường 17 và Phường 22 thuộc Quận 10, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận.

Ngày 26 tháng 8 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 147-HĐBT. Theo đó:

  • Giải thể các Phường 2, Phường 5, Phường 9, Phường 16 và Phường 22 thuộc Quận 1, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận
  • Giải thể Phường 16 và Phường 18 thuộc Quận 3, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận Giải thể Phường 11 thuộc Quận 4 để sáp nhập vào Phường 8 Giải thể Phường 6 và Phường 16 thuộc quận Phú Nhuận, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận *Giải thể Phường 8 và Phường 20 thuộc quận Bình Thạnh, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận.

Ngày 11 tháng 7 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 70-HĐBT. Theo đó: Giải thể Phường 2 thuộc Quận 11, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận Giải thể Phường 2, Phường 6, Phường 8, Phường 9 và Phường 14 thuộc quận Gò Vấp, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận Chia xã Trung Lập thuộc huyện Củ Chi thành hai xã: Trung Lập Thượng và Trung Lập Hạ Chia xã Phước Hiệp thuộc huyện Củ Chi thành hai xã: Phước Hiệp và Phước Thạnh Đổi tên xã Phạm Văn Cội 1 thuộc huyện Củ Chi thành Phạm Văn Cội Giải thể xã Phạm Văn Cội 2 thuộc huyện Củ Chi *Thành lập xã An Phú thuộc huyện Củ Chi trên cơ sở: Tách 2 ấp: Phú Trung, Phú Bình của xã Phú Mỹ Hưng Tách 2 ấp: Xóm Chùa, Xóm Thuốc của xã An Phú.

Ngày 1 tháng 2 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 25-HĐBT. Theo đó, thành lập thị trấn Củ Chi, thị trấn huyện lỵ huyện Củ Chi trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của xã Tân An Hội.

Ngày 1 tháng 11 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 258-HĐBT. Theo đó: Giải thể Phường 7 và Phường 17 thuộc Quận 4, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận Chia xã Vĩnh Lộc thuộc huyện Bình Chánh thành hai xã Vĩnh Lộc A và Vĩnh Lộc B.

Ngày 26 tháng 4 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 51-HĐBT. Theo đó, giải thể toàn bộ 25 phường thuộc Quận 5 để thành lập 15 phường mới đánh số từ 1 đến 15.

Ngày 17 tháng 7 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 87-HĐBT. Theo đó, điều chỉnh địa giới hành chính một số xã thuộc huyện Nhà Bè như sau: Chia xã Tân Quy thành hai xã Tân Quy Đông và Tân Quy Tây Chia xã Tân Thuận thành hai xã Tân Thuận Đông và Tân Thuận Tây *Thành lập thị trấn Nhà Bè, thị trấn huyện lỵ huyện Nhà Bè trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của các xã Phú Mỹ và Phú Xuân.

Ngày 14 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 33-HĐBT. Theo đó: Điều chỉnh địa giới hành chính một số xã thuộc huyện Thủ Đức như sau: Chia xã Tam Bình thành ba xã lấy tên là xã Tam Bình, xã Tam Phú và xã Linh Đông Chia xã Tăng Nhơn Phú thành ba xã lấy tên là xã Tăng Nhơn Phú, xã Hiệp Phú và xã Tân Phú Chia xã Linh Xuân thành hai xã lấy tên là xã Linh Xuân và xã Linh Trung Chia xã Hiệp Bình thành hai xã lấy tên là xã Hiệp Bình Phước và xã Hiệp Bình Chánh Giải thể toàn bộ 17 phường thuộc Quận 6 để thành lập 14 phường mới đánh số từ 1 đến 14 Giải thể toàn bộ 22 phường thuộc Quận 8 để thành lập 16 phường mới đánh số từ 1 đến 16 Giải thể toàn bộ 18 phường thuộc Quận 10 để thành lập 15 phường mới đánh số từ 1 đến 15 *Giải thể 19 phường thuộc Quận 11 (trừ Phường 1) để thành lập 15 phường mới đánh số từ 2 đến 16.

Ngày 27 tháng 8 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 136-HĐBT. Theo đó: Điều chỉnh hành chính một số xã thuộc huyện Hóc Môn như sau: Chia xã Tân Thới Nhất thành hai xã lấy tên là xã Tân Thới Nhất và xã Bà Điểm Thành lập xã Tân Chánh Hiệp trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của các xã Đông Hưng Thuận và Trung Mỹ Tây Giải thể Phường 4, Phường 9, Phường 10, Phường 16, Phường 18 và Phường 23 thuộc quận Bình Thạnh, địa bàn sáp nhập vào các phường kế cận *Giải thể toàn bộ 26 phường thuộc quận Tân Bình để thành lập 20 phường mới đánh số từ 1 đến 20. Ngày 17 tháng 9 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 145-HĐBT. Theo đó, giải thể 18 phường thuộc Quận 3 (trừ Phường 1 và Phường 3) để thành lập 12 phường mới.

Ngày 28 tháng 12 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 184-HĐBT. Theo đó, giải thể toàn bộ 20 phường thuộc Quận 1 để thành lập 10 phường: Tân Định, Đa Kao, Bến Nghé, Bến Thành, Nguyễn Thái Bình, Cầu Ông Lãnh, Cô Giang, Cầu Kho, Nguyễn Cư Trinh và Phạm Ngũ Lão.

Ngày 18 tháng 12 năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 405-HĐBT. Theo đó, đổi tên huyện Duyên Hải thành huyện Cần Giờ.

Ngày 6 tháng 1 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 03-CP. Theo đó: Giải thể huyện Thủ Đức Thành lập quận Thủ Đức trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Thủ Đức và 7 xã: Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Linh Đông, Linh Trung, Linh Xuân, Tam Bình, Tam Phú; một phần diện tích và dân số của 3 xã: Hiệp Phú, Phước Long, Tân Phú thuộc huyện Thủ Đức. Quận Thủ Đức có 12 phường: Bình Chiểu, Bình Thọ, Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Linh Chiểu, Linh Đông, Linh Tây, Linh Trung, Linh Xuân, Tam Bình, Tam Phú, Trường Thọ. Thành lập Quận 2 trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của 5 xã: An Khánh, An Phú, Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi và Thủ Thiêm thuộc huyện Thủ Đức. Quận 2 có 11 phường: An Khánh, An Lợi Đông, An Phú, Bình An, Bình Khánh, Bình Trưng Đông, Bình Trưng Tây, Cát Lái, Thạnh Mỹ Lợi, Thảo Điền, Thủ Thiêm. Thành lập Quận 9 trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của 7 xã: Long Bình, Long Thạnh Mỹ, Tăng Nhơn Phú, Long Phước, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình; phần diện tích và dân số còn lại của 3 xã: Hiệp Phú, Phước Long, Tân Phú thuộc huyện Thủ Đức. Quận 9 có 13 phường: Hiệp Phú, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình, Phước Long A, Phước Long B, Tân Phú, Tăng Nhơn Phú A, Tăng Nhơn Phú B, Trường Thạnh. Thành lập Quận 7 trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của 5 xã: Phú Mỹ, Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây; một phần diện tích và dân số của thị trấn Nhà Bè thuộc huyện Nhà Bè. Quận 7 có 10 phường: Bình Thuận, Phú Mỹ, Phú Thuận, Tân Hưng, Tân Kiểng, Tân Phong, Tân Phú, Tân Quy, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây. Thành lập Quận 12 trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của 5 xã: An Phú Đông, Đông Hưng Thuận, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Thạnh Lộc; một phần diện tích và dân số của 2 xã: Tân Chánh Hiệp, Trung Mỹ Tây thuộc huyện Hóc Môn. Quận 12 có 11 phường: An Phú Đông, Đông Hưng Thuận, Hiệp Thành, Tân Chánh Hiệp, Tân Hưng Thuận, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Thạnh Lộc, Thạnh Xuân, Thới An, Trung Mỹ Tây.

Ngày 5 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 130/2003/NĐ-CP. Theo đó: Thành lập quận Bình Tân trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn An Lạc và 3 xã: Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông và Tân Tạo thuộc huyện Bình Chánh. Quận Bình Tân có 10 phường: An Lạc, An Lạc A, Bình Hưng Hòa, Bình Hưng Hòa A, Bình Hưng Hòa B, Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Bình Trị Đông B, Tân Tạo, Tân Tạo A. Thành lập quận Tân Phú trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của Phường 16, Phường 17, Phường 18, Phường 19, Phường 20; một phần diện tích và dân số của Phường 14, Phường 15 thuộc quận Tân Bình. Quận Tân Phú có 11 phường: Hiệp Tân, Hòa Thạnh, Phú Thạnh, Phú Thọ Hòa, Phú Trung, Sơn Kỳ, Tân Quý, Tân Sơn Nhì, Tân Thành, Tân Thới Hòa, Tây Thạnh. Thành lập thị trấn Tân Túc, thị trấn huyện lỵ huyện Bình Chánh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Tân Túc Thành lập thị trấn Cần Thạnh, thị trấn huyện lỵ huyện Cần Giờ trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Cần Thạnh *Thành lập hai xã Trung Chánh và Xuân Thới Đông thuộc huyện Hóc Môn trên cơ sở một phần diện tích và dân số của xã Tân Xuân.

Ngày 23 tháng 11 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 143/2006/NĐ-CP. Theo đó: *Thành lậ

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
nhỏ|[[Chợ Bến Thành về đêm, nơi đây là biểu tượng không chính thức của Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Thành phố Hồ Chí Minh **là tên gọi chính thức từ tháng 7 năm 1976 khi
**Trường Đại học Kinh tế - Tài chính thành phố Hồ Chí Minh** (, viết tắt: _[https://euf.edu.vn/ UEF]_) là một đại học tư thục tại Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 1272/QĐ-TTg
**Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh** là người đứng đầu Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan hành chính của Thành phố Hồ Chí Minh. Chủ
Thành phố mà ngày nay được gọi là Thành phố Hồ Chí Minh () đã được gọi bằng một số tên khác nhau xuyên suốt lịch sử của nó, phản ánh sự định cư của
**Biên niên sử Thành phố Hồ Chí Minh** ghi lại các sự kiện lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh theo thứ tự thời gian. ## Thế kỷ 18 ***1782** **Thảm sát Chợ Lớn 1782
**Trận đấu giữa hai câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh và Long An**, còn được biết đến với cái tên **trò hề trên sân Thống Nhất**, diễn ra trong khuôn khổ vòng 6
**Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh** (, viết tắt là **VNUHCM**), mã đại học **QS**, là một trong hai hệ thống đại học quốc gia của Việt Nam bên cạnh Đại học
**Câu lạc bộ bóng đá Công an Thành phố Hồ Chí Minh** là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đội bóng này là hậu thân của
**Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh** là đơn vị sự nghiệp báo chí trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đài truyền hình đầu tiên ở Việt
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
**Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh City University of Education_ – **HCMUE**) được thành lập ngày 27 tháng 10 năm 1976 theo Quyết định số 426/TTg
**Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh (DHV)** là một đại học dân lập được thành lập năm 1995 bởi cố Giáo sư Tiến sĩ Ngô Gia Hy hiện do Ông Đặng
Đại dịch COVID-19 do virus SARS-CoV-2 gây ra xuất hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23 tháng 1 năm 2020. Đây cũng là nơi có ca mắc COVID-19 đầu tiên tại Việt
**Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh** là cơ quan quyền lực nhà nước địa phương ở Thành phố Hồ Chí Minh, tạo thành nhánh lập pháp trong Chính quyền Thành phố Hồ
**Xe buýt nội đô Thành phố Hồ Chí Minh** là hệ thống giao thông công cộng tại Thành phố Hồ Chí Minh, do Trung tâm Quản lý Giao thông công cộng trực thuộc Sở Giao
**Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh** là một bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, lạc tại số 65 Lý Tự Trọng, thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên
**Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh** (, tên viết tắt là _HCMC Metro_) là hệ thống đường sắt đô thị đang xây dựng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Dự án là
**Giao thông Thành phố Hồ Chí Minh** là tổng hòa của nhiều loại hình giao thông hiện hữu phục vụ nhu cầu đi lại trong phạm vi thành phố và giữa Thành phố Hồ Chí
**Trường Đại học Ngoại ngữ _–_ Tin học Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh City University of Foreign Languages – Information Technology_, tên viết tắt: **HUFLIT**) là một đại học tư
**Trường Trung học Phổ thông Lê Quý Đôn** là một trường trung học phổ thông công lập của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trường trung học đầu tiên của Sài Gòn, được thành
**Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh City University of Industry and Trade_; **HUIT**) là một là một cơ sở giáo dục đại học công lập trực
phải|[[Trụ sở Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh]] **Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh** là cơ quan hành chính nhà nước nằm trong phân cấp hành chính Cộng hòa
**Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh** (tên gọi quốc tế: **Ho Chi Minh City University of Culture**, viết tắt: **HCMUC**) là cơ sở giáo dục đại học công lập, trực thuộc
**Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh** (_, thường được gọi tắt là **UAH**)_ là trường đại học chuyên ngành, giữ vai trò tiên phong trong lĩnh vực đào tạo và nghiên
**Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong** (tiếng Anh: _Le Hong Phong High School for the Gifted_) là một trường trung học phổ thông chuyên tại quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
**Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được biết đến với tên gọi tắt **Cúp Truyền hình** hay **HTV Cup**, là một sự kiện thể thao
**Trường Đại học Kinh tế – Luật** ( – **UEL**) là trường đại học đào tạo và nghiên cứu khối ngành kinh tế, kinh doanh và luật hàng đầu Việt Nam nói chung và tại
**Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh** (gọi tắt là **_Bí thư Thành ủy Hồ Chí Minh_**) là chức vụ đứng đầu Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tại
nhỏ|phải|Người Hoa ở Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20 Người gốc Hoa sống tại Thành phố Hồ Chí Minh tập trung ở quận 5, quận 6, quận 8, quận 10 và quận 11. Theo
**Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn** ( – **USSH-VNUHCM**) là một thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – hệ thống đại học xếp hạng 158
**Xuân Hòa** là một phường thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây là một trong 168 phường, xã và đặc khu mới ở Thành phố Hồ Chí Minh sau đợt sắp xếp vào
**Công an Thành phố Hồ Chí Minh** là cơ quan Công an thành phố trực thuộc Trung ương (Loại đặc biệt) ở Việt Nam, thuộc hệ thống tổ chức của lực lượng Công an nhân
**Trường Đại học Công nghệ Thông tin** ( – **UIT**) là một trung tâm hàng đầu về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ về công nghệ thông tin – truyền thông, được
**Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh City University of Technology and Education_) là một trường đại học đa ngành tại Việt Nam, với thế
nhỏ|phải **Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh - HUTECH** là một đại học tư thục. Trường chính thức chuyển từ loại hình dân lập sang tư thục theo quyết định số 702/QĐ
**Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh University of Natural Resources and Environment_) là một trường đại học đa ngành tại Việt Nam. Trường
**Trường Trung học Võ Trường Toản** là một trường trung học cơ sở công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trường được thành lập năm 1955. Tên trường được đặt theo danh sĩ Võ
**Vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh** là một trong hai vùng đô thị của Việt Nam, nằm trong quy hoạch được Bộ Xây dựng Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ ngày 23
**Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh** (_Ho Chi Minh University of Banking_) là trường đại học công lập trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trường được thành lập năm
**Trường Trung học phổ thông Trần Phú** là một trường trung học phổ thông công lập tọa lạc tại Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập chính thức vào năm 1981. Với tên gọi
**Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh** là một thư viện công cộng tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh. Thư viện hiện trực thuộc Sở Văn hóa và Thể
**Trường Cao đẳng Lý Tự Trọng TP. Hồ Chí Minh** được thành lập theo Quyết định số 621/QĐ-BGD&ĐT-TCCB ngày 03 tháng 02 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (Việt Nam)
nhỏ|phải|Chùa Pháp Hoa Quận 3 nằm tại [[Kênh Nhiêu Lộc vào năm 2006]] Ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều cơ sở Phật giáo mang tên **Pháp Hoa**. Riêng bài viết này chỉ nói
**Long Sơn** là một xã thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. ## Địa lý Long Sơn là một xã đảo nằm ở phía bắc thành phố Vũng Tàu, có vị trí địa lý:
**Trường Đại học Bách khoa** (, **HCMUT**) là trường đại học đầu ngành về lĩnh vực kỹ thuật ở miền Nam Việt Nam, thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
**Trường Đại học Khoa học Sức khỏe** (tiếng Anh: _University of Health Sciences, Viet Nam National University, Ho Chi Minh City, Tên viết tắt: UHS_) là một cơ sở đào tạo đại học và sau
**Rạp Công Nhân**, đôi khi còn gọi là **_Nhà hát kịch Thành phố Hồ Chí Minh_**, là một công trình kiến trúc tại số 30 Trần Hưng Đạo, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh,
nhỏ|269x269px|Một góc của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên cơ sở 227 Nguyễn Văn Cừ **Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh** ( – **VNUHCM-US**
**Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh** là một trường đại học đa ngành tại Việt Nam, chuyên đào tạo và nghiên cứu nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp. Trường