✨Phạm Văn Nghị

Phạm Văn Nghị

nhỏ|phải|Nội và ngoại thất đền thờ Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị Phạm Văn Nghị (chữ Hán: 范文誼, 1805-1884) hiệu Nghĩa Trai; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà Nguyễn theo đường lối kháng Pháp ở thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.

Thân thế

phải|Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân Phạm Văn Nghị trên Bia Tiến sĩ năm Mậu Tuất (1838), đặt tại Văn Thánh Miếu Huế, bia thứ 6 nhà bia Hữu vu. Phạm Văn Nghị là người ở xã Tam Đăng, tổng An Trung, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện Ý Yên tỉnh Nam Định). Là con của một ông đồ nghèo, nhưng nhờ chăm chỉ học, nên ông lần lượt đỗ: Tú tài (1826), cử nhân (1837) và Hoàng giáp (1838, lúc 33 tuổi), nên được người đời gọi là Hoàng Tam Đăng.

Thăng trầm chốn quan trường

Sau khi đỗ đạt cao, ông được bổ làm Tu soạn viện Hàn lâm, rồi làm Tri phủ Lý Nhân. Ở đấy, hễ dân có việc tranh tụng, thì ông thường lấy điều nhân nghĩa để khuyên bảo; vậy mà, có lúc ông bị giáng đến ba cấp , sau lại được trở về Biên tu ở Quốc sử quán.

Năm 1845, ông cáo bệnh từ quan về nhà mở trường dạy học. Ở gần cửa biển Đại An, thấy đất gần cửa biển bỏ hoang, ông bèn chiêu tập người cùng làng đến khai khẩn, lập ấp, đặt tên mới là trại Sĩ Lâm (sau thành tổng Sĩ Lâm, nay là ba xã: Nghĩa Lâm, Nghĩa Hùng, Nghĩa Hải, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định).

Năm Tự Đức thứ 11 (1858), ông lại được triều đình triệu ra giữ chức Đốc học Nam Định.

Nghĩa dũng sĩ phu

Tháng Bảy (âm lịch) năm Tự Đức thứ 11 (Mậu Ngọ, 1858), tàu chiến Pháp nổ súng đánh phá Sơn Trà (Đà Nẵng), dù đang có bệnh, ông vẫn quyết định tạm giao công việc cho bạn đồng khoa là Tiến sĩ Doãn Khuê, dâng lên vua "Trà Sơn kháng sớ" (Sớ kháng nghị việc Sơn Trà), rồi cùng với học trò và một số sĩ phu yêu nước ở Nam Định, lập ngay một đội quân nghĩa dũng gồm 365 người rồi xin vua cho vào Đà Nẵng đánh quân Pháp.

Nhưng khi đội quân nghĩa dũng tới Huế, thì quân Pháp đã rút khỏi nơi đó để vào đánh Gia Định. Vua Tự Đức không chuẩn y sớ của ông xin tiếp tục được vào Nam đánh đuổi ngoại xâm, mà chỉ ban lời khen ngợi, nên ông đành phải quay về . Tuy vậy, nghĩa cử này đã làm rúng động cả sĩ phu Nam Bắc

Về tới đất Bắc, ông tiếp tục làm chức vụ cũ. Khi ấy, có nhóm thổ phỉ người Trung Quốc tràn sang quấy nhiễu ở vùng Đông Bắc, ông đem ngay số nghĩa dũng vừa chiêu mộ được, đến đóng đồn phòng giữ khi yên mới thôi. Triều đình thăng ông làm Hàn Lâm viện Thị giảng Học sĩ, nhưng vì bệnh nên ông lại xin nghỉ.

Năm 1866, ông được sung chức Thương biện, đóng quân ở Hà Cát để trông coi vùng biển. Năm Tự Đức thứ 26 (1873), triều đình thăng ông làm Thị độc Học sĩ, ban cho thẻ bài bằng vàng.

Mùa đông năm ấy, Pháp đem quân đánh chiếm Hà Nội, rồi đánh luôn Nam Định. Bấy giờ tuy đã 68 tuổi, Phạm Văn Nghị vẫn tổ chức dân binh chặn đánh quân Pháp ở ngã ba Độc Bộ. Do quân ít, chống không nổi, ông cho rút nghĩa quân về lập căn cứ ở Yên Hàn (Ý Yên, Nam Định).

Về ở ẩn

Hiệp ước Giáp Tuất được ký vào ngày 15 tháng 3 năm 1874, trong đó có điều khoản triều đình Huế phải giao đứt toàn bộ Nam Kỳ cho Pháp. Biết được tin này, Phạm Văn Nghị buồn bực, viện cớ tuổi cao, xin về dưỡng lão, mặc dù ông vừa được sung làm Thương biện Nam Định.

Sau triều đình truy xét lại việc để thành Nam Định bị thất thủ, ông bị tước đoạt hết mọi chức tước, bổng lộc. Về ở ẩn, ông sống đạm bạc, nơi động Hoa Lư, Ninh Bình, lấy hiệu là "Liên Hoa Động chủ".

Năm 1884, ông mất vì già yếu, được vua Tự Đức chuẩn cho khai phục nguyên chức hàm cũ là Thị độc Học sĩ.

Ghi nhận

Nhân cách

Sử nhà Nguyễn chép:

Năm ông 70 tuổi, nhiều người có liễn đối, thơ mừng thọ, trong số đó có câu của Tống Duy Tân: :Phong lãng kỉ hồi, đại nghĩa ná tri đầu phát bạch, :Giang sơn vô dạng, cố viên nhưng hữu cúc hoa hoàng. :Dịch: :Sóng gió nhiều phen, nghĩa lớn sá chi đầu tóc bạc; :Giang sơn yên ổn, vườn xưa còn đấy luống hoa vàng.

Văn nghiệp

Phạm Văn Nghị viết nhiều và chủ yếu đều bằng chữ Hán. Tác phẩm gồm có: *Tự ký* (Tự mình ghi chép) Tùng Viên văn tập (Tập văn Tùng Niên) Hoa động đồ trung thập vịnh (mười bài thơ vịnh cảnh đẹp động Hoa Lư) Nghĩa Trai thi văn tập** (Tập thơ văn Nghĩa Trai) Và bài "Trừ văn hịch" (Hịch trừ muỗi).

Về chữ Nôm, ông có bài "Tứ thành thất thủ phú" (Phú kể lại việc Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất) và một số bài thơ khác ông làm khi về ở ẩn.

Thơ văn yêu nước của ông biểu lộ thái độ căm thù quân xâm lược sâu sắc, đả kích không thương tiếc những quan lại yếu hèn. Nhưng cũng qua đó, người đọc cũng dễ dàng thấy ở ông một tấm lòng yêu dân thiết tha, lòng kính trọng những anh hùng liệt sĩ đã dám xả thân vì nghĩa lớn.

Về cuối đời, "thơ ông nặng về tư tưởng nhàn, song tấm lòng son sắt với dân, với nước thì không hề phai nhạt"...

Giáo dục

Nhờ công ông dạy dỗ, nhiều học trò của ông sau này đều đỗ đạt cao, trở thành người hữu ích như: Nguyễn Khuyến, Trần Bích San, Nguyễn Quang Bích, Đỗ Huy Liêu, Phạm Thận Duật, Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Nguyễn Cao, Lã Xuân Oai, Vũ Hữu Lợi, Phạm Nhân Lý, Trần Văn Gia, Trần Đình Liêm,..

Phần các con ông, có: con trưởng là Phạm Văn Giảng, thi Hội đỗ Phó bảng, làm quan đến chức Bố chánh Thanh Hóa; các con thứ là Phạm Văn Hân, Phạm Văn Hàm, Phạm Văn Phả đều thi đậu cử nhân.

Tưởng nhớ

Phạm Văn Nghị mất, có rất nhiều câu đối, thơ điếu. Giới thiệu hai câu: :{| valign="top" width="100%" | width="50%"| :Phu tử tiên thiên hạ chi ưu, kỷ độ thăng trầm thân thế; :Đệ tử thị tiên sinh do phụ, bách niên tồn một thủy chung. :Tạm dịch: :Tiên sinh lo việc trước người đời, thân thế nổi chìm ôi mấy độ; :Đệ tử coi thầy như cha, mất còn chung thủy mãi trăm năm. :(Tống Duy Tân) |width="50%"| :Tích yên, nghĩa lỗ nhân can, Độc Bộ ba đào câu nộ sắc; :Kim dã, nghiêm sương hàn lộ, Hoa Lư thảo thụ đối sầu nhan. :Tạm dịch: :Xưa chèo nghĩa buồm nhân, Độc Bộ cồn cồn sóng giận; :Nay băng đông sương giá, Hoa Lư ảm đạm cây sầu. :(Khuyết danh)

TAM ĐĂNG HOÀNG GIÁP HẠ THỌ

Kiều sở Ngô châu thuyết đại phương/ Bách tùng trinh cốt ngạo hàn sương/ Dân niên sở thường khám thần đoán/ Bái khánh đình gian phủ liệt chương/ Nhất kiến Giang đồn, thiên địa khoát/ Bán song sơn động, thạch tuyền hương/ Tường kim kế tiết tri đa nhật/ Vị trụy tư văn chính mạch trường/ Môn sinh NGUYỄN QUANG BÍCH

Dịch thơ : Chót vót châu ta bậc đại phương / Bách tùng ngạo nghễ cợt phong sương / Sớ tâu tuổi hạc, lệnh trên nghỉ / Áo mũ sân hoè, lễ thọ dâng / Một kiếm sông ngăn, trời đất rộng / Nửa non động khép, đá thơm hương Bám tay ngày hãy còn dài lắm / Mạch chính nền văn vẫn vững vàng / Nguyễn văn Huyền dịch

Để ghi nhớ công đức của Phạm Văn Nghị, nhân dân đã lập đền thờ ở Sĩ Lâm và ở Tam Đăng (cả hai nơi này đều được công nhận là di tích lịch sử văn hoá). Hàng năm lễ hội tưởng niệm được tổ chức tại Sĩ Lâm (xã Nghĩa Lâm) vào ngày 14 và 15 tháng Giêng (âm lịch), và tại Tam Đăng vào ngày 12 tháng Chạp (âm lịch).

Ngoài ra, tên ông còn được chọn để đặt tên cho nhiều đường phố trong cả nước Việt Nam, trong đó có tên đường trước cửa Trường THPT Phạm Văn Nghị đoạn từ ngã tư Mậu Lực đến cầu Yên Thắng; tên đường trước học viện cảnh sát, Cổ Nhuế, Bắc Từ Liêm, Hà Nội; đường Phạm Văn Nghị ở thành phố Nam Định, thành phố Ninh Bình (đường Phạm Văn Nghị, phường Đông Thành), thành phố Đà Nẵng , thành phố Vũng Tàu (đường Phạm Văn Nghị, phường Thắng Nhất)..

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Nội và ngoại thất đền thờ Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị **Phạm Văn Nghị** (chữ Hán: _范文誼_, 1805-1884) hiệu **Nghĩa Trai**; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà
**Phạm Văn Dần** là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng (nay là Tổng cục Chính trị, Bộ Công an
nhỏ|231x231px|Chân dung ông Pham Văn Thụ **Phạm Văn Thụ** (范文樹, 1866 - 1930), tự **Đàn Viên** (檀園), là một đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Trước đây, ông từng bị đánh giá
**Louis (hay Aloisio hoặc Luy) Phạm Văn Nẫm** (1919–2001) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục phụ tá của Tổng giáo phận Thành phố Hồ
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,
**Phạm Hữu Nghi** (; 1797 – 1862) tự **Trọng Vũ** (), hiệu **Đạm Trai** (), là một quan viên dưới triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng làm quan qua 3 triều
**Phạm Văn Quyến** (sinh ngày 29 tháng 4 năm 1984) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam, hiện đang làm trợ lý huấn luyện viên của câu lạc
**Vinh Sơn Phaolô Phạm Văn Dụ** (1922–1998) là một giám mục Công giáo Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa tiên khởi của Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng. Giám mục Phạm
**Phạm Quang Nghị** (sinh ngày 2 tháng 9 năm 1949) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII nhiệm kì 2011-2016 thuộc đoàn đại biểu Hà
**Giuse Phạm Văn Thiên** (1907–1997) là một giám mục của Giáo hội Công giáo người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Phú Cường, đồng thời giữ chức vụ này từ
**Phạm Văn Nhân** (1745 – 1815) là một võ quan đại thần vào cuối thời chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong và đầu triều Nguyễn. Ông đã theo chúa Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau
**Phạm Vân Anh** (sinh năm 1980 tại Hải Phòng) là nhà văn, nhà biên kịch, dịch giả hiện sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Bà hiện là Hội viên Hội Nhà văn Việt
** Phạm Văn Hiểu** (sinh năm 1964) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân Thành phố Cần Thơ ## Lý
**Phạm Ngọc Nghị** (sinh năm 1965) là chính khách Việt Nam. Ông từng là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk khóa IX và khóa X nhiệm kỳ
**Phạm Văn Các** (sinh năm 1960) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (C04), Bộ Công an
**Phạm Đình Nghị** (sinh năm 1965) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định khóa XVIII, nhiệm kỳ 2016–2021. ##
**Phạm Văn Út** (11 tháng 11 năm 1925 – 20 tháng 4 năm 2002) là sĩ quan quân đội và chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Chủ tịch Hạ nghị viện Việt
**Phạm Văn Đức** là một Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu. Ông từng giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an, Phó trưởng Ban
**Alexis Phạm Văn Lộc** (1919 – 2011) là một Giám mục thuộc Giáo hội Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Kon Tum trong
**Phạm Văn Toàn** (24 tháng 3 năm 1922 – 21 tháng 9 năm 2019) là thẩm phán, luật sư, quan chức và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, đồng thời là cựu Đại sứ
** Phạm Văn Cành** (sinh năm 1958) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương khóa IX, nhiệm kỳ 2016–2021. Trong Đảng Cộng sản Việt
**Phạm Văn Quang** là kiểm sát viên cao cấp Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương. ## Tiểu sử Phạm Văn Quang là đảng viên
**Phạm Văn Long** (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1946) là một tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung
** Phạm Văn Tân** (sinh năm 1960) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh khóa IX, nhiệm kỳ 2016–2021.
**Phạm Văn Vững** là sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Chuẩn đô đốc. Ông nguyên là Chính ủy Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. ##
**Phạm Văn Thạch** là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thiếu tướng. ## Tiểu sử Phạm Văn Thạch là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông được Thủ tướng
**Phạm Văn Thịnh** (sinh năm 1963) là thẩm phán cao cấp người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình. ## Tiểu sử Phạm Văn Thịnh sinh
**Phạm Tử Nghi** (范子儀, 1509 -1551) là một võ tướng dưới triều đại nhà Mạc. Phạm Tử Nghi là con ông Phạm Hành (mất sớm) và bà Nguyễn Thị Bèo, (bà người huyện Nghi Dương,
**Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng** là công hàm do Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng
**Phạm Văn Hạnh** (1 tháng 3 năm 1913 - 7 tháng 6 năm 1987) là một nhà thơ, nhà báo Việt Nam, và là một cây bút nòng cốt trong nhóm Xuân Thu nhã tập
**Phạm Văn Xô** (1910-2005) là một trong 13 người tham dự Đại hội lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Macao năm 1935 và được bầu ủy viên trung ương chính
**Phạm Văn Điềm** một tướng lĩnh kiệt xuất, trung thành của phong trào Tây Sơn ## Tiểu sử Phạm Văn Điềm được giữ chức Tham đốc, An Phủ sứ phủ Phú Yên thời Cảnh Thịnh.
**Phạm Văn Đổng** (1919-2008) nguyên là một cựu tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Quân đội Pháp mở ra ở
**Nicôla Huỳnh Văn Nghi** (1927–2015) là một Giám mục Công giáo người Việt, từng giữ chức Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Sài Gòn, rồi Giám mục chính tòa Giáo phận Phan Thiết và
**Phạm Văn Trà** (sinh ngày 19 tháng 8 năm 1935, xã Phù Lãng, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) là một chính khách Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt
**Phạm Văn Điển** (范文典, 1769- 1842), là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng xông pha nhiều trận mạc, trải nhiều gian lao, nhưng nổi bật hơn cả là việc ông
**Phạm Văn Sinh** (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1958 tại xã Quỳnh Minh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) là một chính khách người Việt Nam. Ông từng kinh qua các chức vụ lãnh
**Phạm Văn Phú ** (1928 – 1975) nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân
**Phạm Văn Bạch** (1910 – 1986), tên thường gọi là **Hai Bạch**, là Giáo sư, Luật sư, ông nguyên là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam Bộ, Chánh án Tòa án nhân
**Phạm Văn Nhận**, sinh năm 1921 tại làng Vẽ, Hà Nội, Bắc Kỳ) là một nhà điện ảnh người Pháp. ## Tiểu sử Phạm Văn Nhận có nguyên quán tại Hà Đông nhưng sinh năm
**Phạm Văn Thiều** (sinh ngày 24 tháng 4 năm 1970) là một chính khách người Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Cà Mau, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh
**Phạm Văn Chua** (1957 – 30 tháng 8 năm 2020) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên là Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Phó
Phạm Văn Thông. **Phạm Văn Thông** (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1986) là một nhà nghiên cứu và bảo tồn động vật hoang dã tại Việt Nam. Anh đã làm việc cho nhiều tổ
:_Xem các công trình có tên **_Văn miếu_** tại bài Văn miếu (định hướng)_ Dưới triều nhà Nguyễn, Văn Miếu của cả triều đại và cũng là của toàn quốc được chính thức xây dựng
**Chợ Phạm Văn Hai** tọa lạc trên đường Phạm Văn Hai thuộc địa phận Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, với diện tích khoảng 11288 m². Chợ được biết đến như là một
**Hội đồng Chính phủ Phạm Văn Đồng lần 5**, hay còn được gọi là **Chính phủ Quốc hội khóa VI** là chính phủ thứ 29 của Việt Nam, và được Quốc hội khóa VI phê
**Nguyễn Văn Siêu** (chữ Hán: 阮文超, 1799 - 1872), ban đầu tên là **Định**, sau đổi là **Siêu**, còn gọi là **Án Sát Siêu**, tự: **Tốn Ban**, hiệu: **Phương Đình**, là nhà thơ, nhà nghiên
**Phạm Văn Dỹ** (sinh năm 1958) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 7. ## Thân thế
**Phạm Văn Hưng** (sinh năm 1958) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng ## Thân thế binh nghiệp Năm
**Phạm Văn Lập** (sinh 1959) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, từng giữ các chức vụː Chính ủy Cục Xe-Máy, Cục trưởng Cục Chính trị,