✨Phạm Văn Phú

Phạm Văn Phú

Phạm Văn Phú (1928 – 1975) nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở nam Cao nguyên Trung phần vào thời điểm Quân đội Quốc gia còn là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Ra trường, ông gia nhập vào Binh chủng Nhảy dù, về sau ông chuyển sang Chỉ huy Binh chủng Lực lượng Đặc biệt và Bộ binh cấp Sư đoàn. Sau cùng ông là Tư lệnh một trong 4 Quân đoàn và Vùng chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông là một trong năm tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh ngày 16 tháng 10 năm 1928, trong một gia đình Nho học tại Hà Đông, miền Bắc Việt Nam (nay thuộc Hà Nội). Năm 1948, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó ông được tuyển dụng làm công chức tại Hà Đông một thời gian đến khi gia nhập quân đội.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Giữa năm 1952, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 48/300.402. Ông theo học khóa 8 Hoàng Thụy Đông tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1952. Ngày 28 tháng 6 năm 1953, ông mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn phục vụ trong đơn vị Nhảy dù của Quân đội Liên hiệp Pháp. Sau đó, ông chuyển về Tiểu đoàn 5 Nhảy dù đảm trách chức vụ Trung đội trưởng. Tháng 12 cùng năm, ông được thăng cấp Trung úy giữ chức vụ Đại đội phó.

Ngày 14 tháng 3 năm 1954, ông được cử làm Đại đội trưởng Đại đội 1 của Tiểu đoàn 5 Nhảy dù Quốc gia Việt Nam. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị của Đại úy Phú nhảy dù xuống chi viện cho quân Pháp, ông đã từng bắt nhịp bài La Marseillaise (Quốc ca Pháp) cho lính dưới quyền vừa hát vừa xông lên phản kích ở đồi C1 nên được các sĩ quan Pháp cảm kích. Ngày 25 tháng 4, ông được tướng Pháp đặc cách thăng cấp Đại úy tại mặt trận do chiến tích của Đại đội ông chỉ huy đạt được trong nhiệm vụ tái chiếm cứ điểm trọng yếu là đồi Elianne (đồi C1). Khi Điện Biên Phủ thất thủ, Việt Minh bắt giam ông cùng với Bréchignac, Botella, Clédic, Mackowiak và nhiều quân nhân Pháp khác. Ngày 7 tháng 5, ông được ghi nhận là mất tích tại chiến trường do bị đối phương bắt làm tù binh, sau đó bị đưa về giam giữ ở trại giam Đình Cả, Thái Nguyên.

Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Ngày 8 tháng 7 năm 1955, sau Hiệp định Genève, Phạm Văn Phú cùng trong số 20 sĩ quan tù binh được Việt Minh trao trả qua ngã cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị thuộc vĩ tuyến 17. Sau đó được biên chế vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Tháng 9 cùng năm, ông được cử theo học lớp Dẫn đạo Chỉ huy tại Trung tâm Huấn luyện số 1 ở Quán Tre. Đến đầu tháng 2 năm 1956, ông được tái phục vụ trong Binh chủng Nhảy dù.

Giữa tháng 1 năm 1960, ông được biệt phái qua đơn vị Bảo an, giữ chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Kiến Phong. Tháng 5 cùng năm, ông được cử làm Quận trưởng quận Trà Cú thuộc tỉnh Vĩnh Long. Ngày 26 tháng 10 cuối năm, nhân dịp lễ Quốc khánh lần thứ năm của nền Đệ nhất Cộng hòa, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm.

Đầu tháng 8 năm 1961, ông được cử làm Liên đội trưởng Liên đội Quan sát số 1 thuộc Lực lượng Đặc biệt. Hạ tuần tháng 10 cùng năm, được cử đi du học lớp Thực tập hành quân và Huấn luyện Lực lượng Đặc biệt tại Okinawa, Nhật Bản trong thời gian một tháng.

Hạ tuần tháng 4 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý các tướng lĩnh trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng để giành quyền lãnh đạo của tướng Nguyễn Khánh, ông được cử làm Chỉ huy trưởng đơn vị Lực lượng Đặc biệt Vùng 3 Chiến thuật. Đến ngày 10 tháng 8, ông được kiêm chức vụ Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Binh chủng Lực lượng Đặc biệt thay thế Trung tá Nguyễn Hộ. Ngày 1 tháng 11 cùng năm, nhân kỷ niệm 1 năm cách mạng 11/1963, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.

Tháng 4 năm 1965, ông được thăng cấp Đại tá và chuyển ra miền Trung nhận công tác tại Bộ tư lệnh Quân đoàn I ở Đà Nẵng. Cuối tháng 6, Xử lý thường vụ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh và Biệt khu 12 chiến thuật trong thời gian Tư lệnh đương nhiệm của Sư đoàn là Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm kiêm Tư lệnh Quân đoàn I. Thượng tuần tháng 3 năm 1966, ông bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt lại cho Trung tá Nguyễn Hợp Đoàn, sau đó được cử làm Phụ tá cho Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh do Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận làm Tư lệnh. Hạ tuần tháng 10 cùng năm, ông được cử đi công cán tại Hồng Kông với nhiệm vụ đặc biệt trong thời gian 1 tuần lễ. Hạ tuần tháng 7 năm 1967, tiếp tục là Phụ tá Tư lệnh Sư đoàn 1 do Đại tá Ngô Quang Trưởng làm Tư lệnh.

Đầu tháng 7 năm 1968, ông thuyên chuyển về Vùng 4 Chiến thuật, được cử làm Tư lệnh Biệt khu 44 Chiến thuật khu vực Đồng Tháp Mười và khu vực biên giới Việt-Miên. Trung tuần tháng 4 năm 1969, ông được đặc cách thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.

Đầu tháng 1 năm 1970, được lệnh bàn giao Biệt khu 44 lại cho Đại tá Võ Hữu Hạnh, sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, thay thế Đại tá Phan Đình Thứ (tự Lam Sơn).

Tháng 8 năm 1970, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt lại cho Đại tá Hồ Tiêu. Sau đó ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn IV và Quân khu 4. Giữa tháng 4 năm 1971, ông được đặc cách thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm, do Sư đoàn 1 đạt được chiến công trong chiến dịch Lam sơn 719. Sau đó, ông được cử làm Trưởng đoàn hướng dẫn phái đoàn gồm 25 quân nhân các cấp có chiến tích ở Hạ Lào đi thăm viếng Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan).

Trung tuần tháng 9 năm 1972, ông xin từ nhiệm để dưỡng bệnh sau khi bàn giao Sư đoàn 1 lại cho Đại tá Nguyễn Văn Điềm (nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn). Đầu năm 1973, ông được chỉ định làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung thay thế Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng.

Đầu tháng 11 năm 1974, ông bàn giao Trung tâm Huấn luyện Quang Trung lại cho Thiếu tướng Trần Bá Di (nguyên Tư lệnh phó Quân đoàn IV). Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu 2 thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Toàn.

*Quân đoàn II vào thời điểm tháng 3/1975, nhân sự trong Bộ Tư lệnh Quân đoàn được phân bổ trách nhiệm như sau:

-Tư lệnh - Thiếu tướng Phạm Văn Phú
-Tư lệnh phó - Chuẩn tướng Lê Văn Thân
-Phụ tá 1 - Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm
-Phụ tá 2 - Chuẩn tướng Phạm Duy Tất
-Tham mưu trưởng - Đại tá Lê Khắc Lý
-An ninh Quân đội - Đại tá Nguyễn Văn Hãn
-Trưởng phòng 2 - Đại tá Vĩnh Phổ
-Trưởng phòng 3 - Trung tá Nguyễn Văn Đệ
-Trưởng phòng Tổng Quản trị - Trung tá Trần Tiệp
-Chỉ huy Pháo binh - Đại tá Nguyễn Ngọc Sáu
-Chỉ huy Tiếp vận - Đại tá Phạm Thanh Nghị

Trong năm 1975

Đầu tháng 3/1975, chiến dịch Tây Nguyên của Quân Giải phóng miền Nam nổ ra. Trước và trong chiến dịch, Phạm Văn Phú đã có những phán đoán sai lầm, cho rằng Quân Giải phóng miền Nam chỉ vờ đánh Buôn Ma Thuột để tập trung vào Kon Tum và Pleiku, nhưng thực tế thì hoàn hoàn ngược lại. Hậu quả là ông đã góp phần khiến tính hình chiến sự ngày càng xấu đi, làm suy sụp tinh thần và tan rã gần như hoàn toàn lực lượng của Quân đội Sài Gòn ở Cao nguyên Trung phần.

Ngày 16 tháng 3, theo chỉ thị của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc họp khẩn cấp ngày 14 tháng 3 tại Thị xã Cam Ranh, ông được chỉ thị tổ chức và chỉ huy cuộc triệt thoái toàn bộ Quân đoàn II và Quân khu 2 về Tuy Hòa để tái phối trí (Bộ tư lệnh Quân đoàn đặt ở Nha Trang). Cuộc triệt thoái này đã hoàn toàn thất bại, làm rối loạn và thiệt hại lớn cho Quân đoàn II và Quân khu 2. Sau đó ông bị triệu tập về Sài Gòn nhưng vì lâm bệnh nặng nên không thể trình diện Tổng thống Thiệu được. Đầu tháng 4, ông phải vào điều trị tại Tổng y viện Cộng hòa.

Đến sáng ngày 29 tháng 4 tại tư dinh số 19 đường Gia Long, Sài Gòn, sau khi nhờ Đại úy Đỗ Đắc Tân (sĩ quan tùy viên) đưa phu nhân và các con ông lên phi trường Tân Sơn Nhứt (nay là sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất) để di tản ra khỏi Việt Nam, ông đã tự sát bằng một liều thuốc độc cực mạnh. Một trung úy tên Mạnh (sĩ quan an ninh) biết được sự việc liền báo ngay cho phu nhân chưa kịp lên đường, quay trở lại đưa ông vào bệnh viện Grall cấp cứu nhưng vô vọng vì ông đã uống quá nhiều thuốc. Ông bị hôn mê đến 11 giờ 15 trưa ngày 30 tháng 4, tỉnh lại thều thào hỏi phu nhân về hiện tình chiến cuộc ra sao. Sau khi được biết Tổng thống Dương Văn Minh đã ra lệnh cho toàn thể Quân lực Việt Nam Cộng hòa buông súng đầu hàng và quân Giải phóng đã tiến vào Sài Gòn, nghe xong ông từ trần, hưởng dương 47 tuổi.

Huy chương

  • Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng

Gia đình

Thân phụ: Phạm Văn Tích Thân mẫu: Nguyễn Thị Nhiễm. Nhạc phụ: Đỗ Văn Lựu (nguyên là Trung tá Chỉ huy phó Ngự lâm quân ở Đà Lạt thời Quốc trưởng Bảo Đại). Nhạc mẫu: Vương Chúc Anh (người Hoa gốc Thượng Hải) Bào đệ: Phạm Văn Đương Bào muội: Phạm Thị Phương Phu nhân: Bà Đỗ Thị Lâm Đệ Các con: Phạm Ngọc Quý, Phạm Ngọc Vinh, Phạm Ngọc Hiển, Phạm Thị Phương Hà, Phạm Thị Phương Thảo, Phạm Thị Phương Dung, Phạm Ngọc Đông và Phạm Ngọc Phúc
(Trong số 8 người con, hiện có 1 người con gái đang sống ở Việt Nam, 7 người còn lại đã định cư ở Hoa Kỳ).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Văn Phú ** (1928 – 1975) nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân
**Phạm Văn Khoa** (15 tháng 3 năm 1913 – 24 tháng 10 năm 1992) là một đạo diễn điện ảnh người Việt Nam, được xem là một đạo diễn lão thành của nền điện ảnh
**Louis (hay Aloisio hoặc Luy) Phạm Văn Nẫm** (1919–2001) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục phụ tá của Tổng giáo phận Thành phố Hồ
nhỏ|231x231px|Chân dung ông Pham Văn Thụ **Phạm Văn Thụ** (范文樹, 1866 - 1930), tự **Đàn Viên** (檀園), là một đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Trước đây, ông từng bị đánh giá
**Giuse Phạm Văn Thiên** (1907–1997) là một giám mục của Giáo hội Công giáo người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Phú Cường, đồng thời giữ chức vụ này từ
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,
**Phạm Văn Nhân** (1745 – 1815) là một võ quan đại thần vào cuối thời chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong và đầu triều Nguyễn. Ông đã theo chúa Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau
**Phạm Vân Anh** (sinh năm 1980 tại Hải Phòng) là nhà văn, nhà biên kịch, dịch giả hiện sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Bà hiện là Hội viên Hội Nhà văn Việt
**Vinh Sơn Phaolô Phạm Văn Dụ** (1922–1998) là một giám mục Công giáo Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa tiên khởi của Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng. Giám mục Phạm
**Phạm Văn Quyến** (sinh ngày 29 tháng 4 năm 1984) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam, hiện đang làm trợ lý huấn luyện viên của câu lạc
**Alexis Phạm Văn Lộc** (1919 – 2011) là một Giám mục thuộc Giáo hội Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Kon Tum trong
**Phạm Văn Chánh** (sinh ngày 8 tháng 11 năm 1966) là sĩ quan Công an, chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ là Ủy
**Phạm Văn Huyến** (1905 – ?) là bác sĩ thú y và chính khách người Việt Nam, từng giữ chức Tổng Ủy trưởng Di cư Tỵ nạn và Tổng trưởng Bộ Lao động và Xã
**Hội đồng Chính phủ Phạm Văn Đồng lần 5**, hay còn được gọi là **Chính phủ Quốc hội khóa VI** là chính phủ thứ 29 của Việt Nam, và được Quốc hội khóa VI phê
**Phạm Văn Hổ** (sinh ngày 25 tháng 2 năm 1963, quê quán ở xã Hòa Quang Nam, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên) là một đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam và là
**Phạm Văn Vững** là sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Chuẩn đô đốc. Ông nguyên là Chính ủy Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. ##
**Phạm Văn Các** (sinh năm 1960) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu, nguyên Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (C04), Bộ Công an
**Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng**, hay còn được gọi là **Chính phủ đầu Quốc hội khóa VII** là chính phủ thứ 30 của Việt Nam, và được Quốc hội khóa VII phê chuẩn
**Phạm Văn Đức** là một Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu. Ông từng giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an, Phó trưởng Ban
**Phạm Văn Toàn** (24 tháng 3 năm 1922 – 21 tháng 9 năm 2019) là thẩm phán, luật sư, quan chức và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, đồng thời là cựu Đại sứ
**Phạm Văn Nhu** (24 tháng 6 năm 1902 – ?) là chính khách người Việt Nam từng giữ chức Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. ## Tiểu sử Phạm Văn Nhu chào đời
**Phạm Văn Thạch** là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thiếu tướng. ## Tiểu sử Phạm Văn Thạch là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông được Thủ tướng
**Phạm Văn Long** (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1946) là một tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng** là công hàm do Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng
**Phạm Văn Điển** (范文典, 1769- 1842), là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng xông pha nhiều trận mạc, trải nhiều gian lao, nhưng nổi bật hơn cả là việc ông
**Phạm Văn Điềm** một tướng lĩnh kiệt xuất, trung thành của phong trào Tây Sơn ## Tiểu sử Phạm Văn Điềm được giữ chức Tham đốc, An Phủ sứ phủ Phú Yên thời Cảnh Thịnh.
nhỏ|phải|Nội và ngoại thất đền thờ Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị **Phạm Văn Nghị** (chữ Hán: _范文誼_, 1805-1884) hiệu **Nghĩa Trai**; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà
**Phạm Văn Bạch** (1910 – 1986), tên thường gọi là **Hai Bạch**, là Giáo sư, Luật sư, ông nguyên là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam Bộ, Chánh án Tòa án nhân
**Phạm Văn Nhận**, sinh năm 1921 tại làng Vẽ, Hà Nội, Bắc Kỳ) là một nhà điện ảnh người Pháp. ## Tiểu sử Phạm Văn Nhận có nguyên quán tại Hà Đông nhưng sinh năm
**Phạm Văn Hạnh** (1 tháng 3 năm 1913 - 7 tháng 6 năm 1987) là một nhà thơ, nhà báo Việt Nam, và là một cây bút nòng cốt trong nhóm Xuân Thu nhã tập
**Phạm Văn Tráng** (? - 1913) còn có tên là **Nguyễn Thế Trung** (khi hoạt động cách mạng), là chiến sĩ thuộc Việt Nam Quang phục hội ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử
**Phạm Văn Sinh** (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1958 tại xã Quỳnh Minh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) là một chính khách người Việt Nam. Ông từng kinh qua các chức vụ lãnh
**Phạm Văn Đổng** (1919-2008) nguyên là một cựu tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Quân đội Pháp mở ra ở
**Phạm Văn Xô** (1910-2005) là một trong 13 người tham dự Đại hội lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Macao năm 1935 và được bầu ủy viên trung ương chính
**Phạm Vấn** (; ?-1436) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người thôn Nguyễn Xá, huyện Lương Giang (nay là huyện Thiệu Hóa), Thanh Hoá, Việt Nam. ## Gian
**Phạm Văn Tham** hay còn được gọi là **Phạm Văn Sâm** (; ?-1789) một tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn. ## Hành trạng Phạm Văn Tham có chị lấy vua Thái Đức Nguyễn Nhạc.
**Phạm Văn Trị** (范文治) hay còn gọi là Phạm Công Trị (范公治) hay Giả Vương, là một tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Phạm Văn Trị là con thứ
**Phạm Văn Hai** (1931-1966) là một liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. ## Thân thế và cuộc đời Ông sinh năm 1931 tại làng Tân Hòa, tổng Dương Hòa
**Phạm Văn Định** là một tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Phạm Văn Định là con của Thái úy Phạm Văn Hưng. Ông được phong chức Tư khấu, tước
**Phạm Văn Tán** (chữ Hán: 范文贊, ?-510?), còn có tên gọi khác là **Phạm Văn Tẩn**, **Phạm Văn Tổn**, là vua Chăm Pa từ 498 đến năm 510. Thân phụ Phạm Văn Tẩn là Phạm
**Phạm Văn Sơn** (1915 - 1978) là một sử gia Việt Nam và là sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. ## Thân thế Ông sinh ngày 15 tháng 8 năm 1915 tại
**Phạm Văn Hòa** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1962) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại biểu
**Phạm Văn Trà** (sinh ngày 19 tháng 8 năm 1935, xã Phù Lãng, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) là một chính khách Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt
**Phạm Văn** (tiếng Trung: 范文, ?-349) là vị vua mở đầu triều đại thứ hai của Lâm Ấp sau triều đại thứ nhất do Khu Liên thành lập. ## Tiểu sử ### Thân thế Ông
**Huỳnh Văn Lạc** (sinh năm 1927) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Sĩ
Kính gửi anh Phạm Văn Thiệu - một người lãnh đạo tài ba và đam mê tại Câu lạc bộ Doanh nhân Phú Yên tại TP.HCM! Trong ngày sinh nhật này, chúng tôi muốn gửi
**Trường Đại học Phạm Văn Đồng** (tiếng Anh: _Pham Van Dong University_) là một trường đại học công lập đa ngành tại Thành phố Quảng Ngãi, trường đã được hệ thống Đại học Đà Nẵng
Phạm Văn Thông. **Phạm Văn Thông** (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1986) là một nhà nghiên cứu và bảo tồn động vật hoang dã tại Việt Nam. Anh đã làm việc cho nhiều tổ
**Ga Phạm Văn Bạch** là một trong các nhà ga của Tuyến đường sắt đô thị Khu đô thị Tây Bắc - Thủ Thiêm nằm tại hai quận Tân Bình và Tân Phú, Thành phố