Phạm Văn Hạnh (1 tháng 3 năm 1913 - 7 tháng 6 năm 1987) là một nhà thơ, nhà báo Việt Nam, và là một cây bút nòng cốt trong nhóm Xuân Thu nhã tập ra đời trong thời tiền chiến. Khi viết, ông ký tên thật hoặc ký bút hiệu Thê Húc (sau năm 1945).
Tiểu sử
Phạm Văn Hạnh là một nhà thơ, nhà báo, sinh ngày 1 tháng 3 năm 1913 tại Hà Nội, cha mẹ là người gốc miền Nam. Cha của ông là Phạm Văn An sinh ở Sa Đéc nhưng cha mẹ mất sớm nên thuở nhỏ ở với ông bà ngoại ở Bình Tiên (Chợ Lớn), mẹ là Dương Thị Lương người Cần Giuộc. Cha của ông được cử ra miền Bắc làm Tham Tá Thương Chánh ở Hà Nội từ đầu thế kỷ 20, tham tá An có 7 người con, ngoại trừ người con gái đầu sinh ở miền Nam, các người con khác đều sinh ở miền Bắc và Phạm Văn Hạnh là người con thứ sáu (thứ bảy theo cách gọi của người miền Nam). Người con gái thứ tư (miền Nam là thứ năm) là mẹ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đăng Thường (giáo sư trường Chu Văn An), người con gái thứ năm (miền Nam là thứ sáu) là mẹ của Bình Minh (giáo sư văn khoa), Bình Thanh (nhà ngoại giao) và Bình Trang (giáo sư âm nhạc). Đầu thập niên 1930 tham tá Phạm Văn An nghỉ hưu trở về miền Nam sinh sống ở Cần Thơ để gần người con gái thứ hai, tại đây ông đầu tư vào việc mua nhà cửa và ruộng đất, hiện nay căn nhà hương hỏa của họ Phạm còn ở nơi cầu Cái Khế, có lẽ vì vậy mà nhiều người lầm tưởng là Phạm Văn Hạnh quê ở Cần Thơ. Lúc đó Phạm Văn Hạnh đang theo học y khoa nên ở lại Hà Nội và cộng tác với các báo Thanh Nghị, Ngày Nay, Tinh Hoa, Thế Giới..., mỗi tháng được cha gởi trợ cấp cho 30 đồng, đây là một số tiền lớn, còn hơn cả lương công chức cao cấp thời đó.
Năm 1939 Phạm Văn Hạnh cùng Nguyễn Lương Ngọc, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đỗ Cung hình thành một tuyên ngôn nghệ thuật lấy tên là Xuân Thu Nhã Tập, bao gồm phần lý thuyết và phần thực hành trên ba lãnh vực: Thơ, Nhạc và Họa, đến tháng 6 năm 1942 thì nhóm cho phát hành tập Xuân Thu Nhã Tập. Trong thời gian này Phạm Văn Hạnh bị bịnh lao, cuối năm 1942 ông vào Faifo (Hội An) dạy học một thời gian ngắn, tháng 10 năm 1943 ông về Cần Thơ thọ tang cha, thọ tang mẹ năm 1944 và ở đó cho đến khi chiến tranh bùng nổ vào năm 1945 thì lên Sàigòn làm báo.
Tại Sàigòn, Phạm Văn Hạnh cùng với Thiếu Sơn, Thiên Giang, Tam Ích viết lý luận và phê bình văn học hiện thực Mác-xít cho báo Chân Trời Mới và viết sách giáo khoa cùng dịch những sách của hội Cơ Đốc Phục Lâm (Seventh-Day Adventist Church) từ tiếng Anh ra tiếng Việt. Trong thời gian này, nhiều người biết đến ông qua bút hiệu Thê Húc. Vì có bịnh lao nên sau khi khỏi bịnh ông mới lập gia đình vào tháng 1 năm 1953, lúc đó đã 40 tuổi. Năm 1954 Phạm Văn Hạnh làm cho Việt Tấn Xã (Vietnam Press), đến năm 1966 thì phải về hưu (tuổi hưu lúc đó là 53) nhưng vì ông đang làm trưởng ban dịch thuật Pháp văn mà không có người thay thế nên được giữ lại làm cho đến năm 60 tuổi (1973) thì về hưu, tuy nhiên sau đó vẫn không có người thay nên Việt tấn xã lại tiếp tục ký hợp đồng ngắn hạn với ông vài ba tháng một lần cho đến tháng 4 năm 1975. Trong thời gian làm việc cho Việt tấn xã, Phạm Văn Hạnh cũng cộng tác thường xuyên với các tạp chí, tuần báo, nguyệt san tại Sàigòn như Bách Khoa, Phổ Thông...
Vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, Phạm Văn Hạnh cùng gia đình rời Việt Nam qua đảo Guam ngày 25 tháng 4 năm 1975, đến ngày 9 tháng 5 gia đình được chuyển qua trại tị nạn Fort Chaffee ở Little Rock, Arkansas, Mỹ quốc và định cư tại Tully, một thị trấn nhỏ ở phía Nam thành phố Syracuse, tiểu bang New York ngày 10 tháng 6 năm 1975.
Từ đây Phạm Văn Hạnh phải làm việc không liên quan tới ngành báo chí, sách vở là làm việc cho viện dưỡng lão “Loretto Nursing Homes” ở Syracuse để sinh sống, tuy nhiên, ông vẫn thường xuyên gửi bài viết cho các tờ báo người Việt ở hải ngoại. Năm 1980 Phạm Văn Hạnh dọn về Syracuse, New York và nghỉ hưu vào năm 1985. Đầu năm 1987 ông bị ngã chấn thương đầu, nằm nhà thương 3 tháng, sau đó về nhà nhưng lại bị ngã thêm một lần nữa và ông từ trần vào ngày 7 tháng 6 năm 1987, thọ 74 tuổi và được hỏa táng ngày 10 tháng 6 năm 1987, đúng 12 năm sau khi ông định cư tại Mỹ. Phạm Văn Hạnh có 4 người con, 2 trai, 2 gái, hiện nay vợ con ông sinh sống tại Hoa Kỳ.
Theo lời thuật lại của người em trai út của Phạm Văn Hạnh là Phạm Văn Long (Tám Long) thì khi còn ở Hà Nội, gia đình tham tá Phạm Văn An ở tại số 35 phố Cầu Gỗ, phía sau nhà nhìn ra cầu Thê Húc nên sau này Phạm Văn Hạnh lấy bút hiệu Thê Húc để nhớ về kỷ niệm thời trẻ. Ngoài ra, ông còn dùng những bút danh khác như Thời Nhân, Thế Nhân, Tịch Khách, Thanh Trai, Thế Chu v.v…
Có một số người liệt kê Phạm Văn Hạnh thuộc vào giới cầm bút miền Nam giống như các ông Tam Ích, Thiên Giang, nhưng thật ra tuy cha mẹ là người miền Nam, ông lại sanh ra và lớn lên tại miền Bắc như anh em gia đình Nhất Linh, đến năm 30 tuổi ông mới vào Nam sinh sống nên ông nói giọng Bắc và sinh hoạt như người Hà Nội chính cống, sau này lấy vợ là người Sa Đéc nhưng vợ con ông cũng nói tiếng Bắc theo ông. Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường gọi Phạm Văn Hạnh là cậu ruột có kể một câu chuyện vui là khi Phạm Văn Hạnh lên Sàigòn sinh sống, lúc đó chưa có vợ nên ông ở nhà người chị ruột, một hôm người chị làm gà xé phay là món miền Nam, ông thấy gà xé miếng nhỏ không giống như những miếng gà luộc có lá chanh thái mỏng như người miền Bắc nên từ đó ông không ăn cơm ở nhà mà ra ngoài ăn.
Phạm Văn Hạnh là người kín đáo, ít nói nên tuy ông có viết trên các báo nhưng với nhiều bút hiệu khác nhau nên không rõ là ông đã sáng tác nhiều hay ít và thuộc thể loại nào. Thí dụ như sau khi ông mất, gia đình thấy trên bàn viết của ông có một chi phiếu 60$ của báo Tiền Phong tại Mỹ trả nhuận bút cho hai bài viết của ông với bút hiệu là Thế Chu (do chữ Thê Húc sắp lại, và cũng là Thú Chê nói lái). Năm 2000 nhà thơ Nguyễn Đăng Thường có sưu tập những bài thơ của Phạm Văn Hạnh ở rải rác khắp nơi và in thành tập thơ “Giọt Sương Hoa và những bài thơ khác”. Phạm Văn Hạnh theo đạo Lão nhưng được nhà thờ United Methodist Church ở Tully, New York bảo trợ nên thỉnh thoảng gia đình ông vẫn sinh hoạt với nhà thờ vì ông có người con trai đàn vĩ cầm rất hay nên thường đàn giúp nhà thờ trong những buổi Thánh lễ. Nhà thờ United Methodist Church là nơi đầu tiên đã đón tiếp gia đình ông định cư tại Mỹ vào ngày 10 tháng 6 năm 1975 và cũng là nơi làm lễ an táng cho ông trước khi hỏa táng vào ngày 10 tháng 6 năm 1987 (tròn 1 giáp 12 năm) nên sau này gia đình chọn ngày 10 tháng 6 làm ngày giỗ của ông thay vì ngày mất là 7 tháng 6.
Tác phẩm
-
Giọt sương hoa (1942)
-
Dân chủ và dân chủ (1948)
-
Văn chương và xã hội (1948)
Tìm hiểu biện chứng pháp (viết chung với Thiên Giang) (1948)
Nghệ thuật và nhân sinh (viết chung với Tam Ích và Thiên Giang) (1949)
-
Tia nắng (1950)
-
Bài hát Tì Bà (1952)
-
Bảng toát yếu về bước đường tiến hóa của văn học Việt Nam (1953).
Ngoài ra, ông còn có một số bài thơ và bài viết về quan niệm sáng tác in trong cuốn Xuân Thu nhã tập xuất bản năm 1942.
Giới thiệu một bài thơ
Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển hạ), có giới thiệu 3 bài thơ của Phạm Văn Hạnh: "Người có nghe", "Thư, Thơ" và "Giọt sương hoa" (đều đã in trong Xuân Thu nhã tập, 1942). Dưới đây là bài Người có nghe:
Và phần 3 (tức phần cuối) của bài Giọt sương hoa:
:Mỗi buổi thu tàn lại cuốn theo quãng ngày xanh mà giục ta nghĩ đến những mùa chuyển tới. Thu tàn ở đây cũng nhiều diễm lệ, không phải chỉ màu nắng bạo tàn. Những chiều trong vắt, và những đêm tăng sáng, sáng như điều hoài niệm.
:...Những ngày mệt mỏi ta nằm giạt trên bãi cát khô, sẵn lòng đợi một buổi mai bụi trắng chôn vùi, - nhưng kiếp sau…có bao giời tới bến?
:Cảm ơn trời ban cho ta sức sống trong thời gain một buổi sớm.
:Buổi sớm ngạt ngào mùi sen trên mái tóc đương tơ.
:Sao ta không tiêu tán giữa buổi tưng bừng ngày hạ.
:Phù dung kia chỉ nở một ngày để ngâm nợi muôn đời xinh đẹp, rồi tàn trong bóng tối ngàn sương...
:Thu tới làm chi, với rất nhiều mỹ lệ.
:Hậu Giang những ngày gió,
:Phạm Văn Hạnh
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Văn Hạnh** (1 tháng 3 năm 1913 - 7 tháng 6 năm 1987) là một nhà thơ, nhà báo Việt Nam, và là một cây bút nòng cốt trong nhóm Xuân Thu nhã tập
**Phạm Tường Hạnh** (1918-2013) tên thật là Phạm Trọng Hân, là một nhà văn Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Tường Hạnh sinh năm 1918 tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia
**Phạm Văn Quyến** (sinh ngày 29 tháng 4 năm 1984) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam, hiện đang làm trợ lý huấn luyện viên của câu lạc
**Phạm Văn Huyến** (1905 – ?) là bác sĩ thú y và chính khách người Việt Nam, từng giữ chức Tổng Ủy trưởng Di cư Tỵ nạn và Tổng trưởng Bộ Lao động và Xã
**Phạm Văn Nhận**, sinh năm 1921 tại làng Vẽ, Hà Nội, Bắc Kỳ) là một nhà điện ảnh người Pháp. ## Tiểu sử Phạm Văn Nhận có nguyên quán tại Hà Đông nhưng sinh năm
**Phạm Văn Phú ** (1928 – 1975) nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân
Kính gửi anh Phạm Văn Thiệu - một người lãnh đạo tài ba và đam mê tại Câu lạc bộ Doanh nhân Phú Yên tại TP.HCM! Trong ngày sinh nhật này, chúng tôi muốn gửi
Bước sang những năm 40 của thế kỷ XX, khi Phong trào Thơ Mới rơi vào bế tắc, khủng hoảng thì đúng lúc này, nhóm Xuân Thu xuất hiện như một sự tiếp nối mang
**Phạm Văn Mùi** (1907-1992) là một nhiếp ảnh gia người Việt Nam , chuyên về hình đen trắng và kỹ thuật phòng tối. ## Tiểu sử Ông sinh ngày 1 tháng 6 năm 1907 tại
**Phạm Duy Thuận**, thường được biết đến với nghệ danh **Jun Phạm** (sinh ngày 24 tháng 7 năm 1989), là một nam ca sĩ, diễn viên, người dẫn chương trình truyền hình kiêm nhà văn
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Phạm Thị Huệ** (sinh năm 1996) là một nữ vận động viên điền kinh người Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Thị Huệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại thôn Tân Lương xã
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
Đây là danh sách các sáng tác của nhạc sĩ **Phạm Duy** được lấy từ trang web chính thức của nhạc sĩ. Các bài hát được xếp theo thứ tự thời gian do chính Phạm
**Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh City University of Education_ – **HCMUE**) được thành lập ngày 27 tháng 10 năm 1976 theo Quyết định số 426/TTg
**Trường Đại học Sư phạm** (tiếng Anh: _Thai Nguyen University of Education_) là một trường đại học thành viên của Đại học Thái Nguyên. Trường có vai trò là trung tâm đào tạo đại học,
**Phạm Hùng** (11 tháng 6 năm 1912 10 tháng 3 năm 1988), tên khai sinh là **Phạm Văn Thiện**, còn được gọi với bí danh là **Hai Hùng**, là một chính khách Việt Nam. Từng
**Phạm Hữu Nghi** (; 1797 – 1862) tự **Trọng Vũ** (), hiệu **Đạm Trai** (), là một quan viên dưới triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng làm quan qua 3 triều
**Trần Văn Thuyết** (sinh năm 1960), có biệt danh là **Thuyết buôn vua**, **Thuyết chăn voi** từ Vụ án Năm Cam và đồng phạm. Được biết đến như một doanh nhân giàu có bậc nhất
BHT Technology là nhà sản xuất Tủ bảng điện - Thang máng cáp, Tủ điện âm tường & Phụ kiện ngành điện hàng đầu tại Việt Nam. Chúng tôi có đội ngũ kỹ sư trẻ
**_Lục Vân Tiên_** (chữ Nôm: 蓼雲仙) là một tác phẩm truyện thơ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác theo thể lục bát vào đầu những năm 50 của thế kỷ 19. Đây là
**Vụ án Năm Cam và đồng phạm** hay **Chuyên án Z5.01** là vụ án về tội phạm có tổ chức đặc biệt, có tính đặc thù, đây là một vụ án lớn và phức tạp,
**Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật** là 1 trong 2 lĩnh vực của Giải thưởng Nhà nước, do Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định, tặng thưởng cho những tác giả
**Phạm Thế Mỹ** (15 tháng 11 năm 1930 – 16 tháng 1 năm 2009) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông có nhiều sáng tác nhạc vàng được nhiều người yêu thích, ngoài ra
**Phạm Quỳnh Anh** (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1984) là một nữ ca sĩ kiêm diễn viên người Việt Nam. Cô từng là thành viên của nhóm nhạc Sắc Màu và H.A.T. ## Tiểu
**Xuân Thu nhã tập** là tên của một nhóm văn nghệ sĩ có chung chí hướng sáng tác, được tập hợp từ năm 1939, đến tháng 6 năm 1942, thì họ xuất bản được một
**Kiều Hạnh** (1920 - 1985) là một nữ kịch sĩ và tài tử điện ảnh Việt Nam. ## Lịch sử Kiều Hạnh là nghệ danh của **Phạm Thị Hạnh**, sinh ngày 14 tháng 10 năm
**Văn học Đàng Ngoài thời Lê trung hưng** là một bộ phận của văn học Việt Nam, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời nhà Lê trung hưng
thumb|Vua Di Lan Đà và tì-kheo [[Na Tiên vấn đáp.]] **Di Lan Đà vấn đạo** hay **Mi Lan Đà vấn đạo** (tiếng Pali: _Milindapañhā_, nghĩa là "Những câu hỏi của [vua] Di Lan Đà"), hoặc
nhỏ|Ông Lê Văn Trương **Lê Văn Trương** (1906-1964), bút hiệu **Cô Lý**, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt, hiện nay (2009), ông được
**Phan Văn Khỏe** (1901–1946), bí danh **Tư Mỹ**, là một nhà cách mạng Việt Nam, từng đảm nhiệm vai trò Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng
**Vụ sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á**, hay còn gọi ngắn gọn là **vụ Việt Á** hoặc **đại án Việt Á,** là một vụ án hình sự điển hình về
**Phan Văn Anh Vũ** (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1975), biệt danh **Vũ nhôm**, là một doanh nhân Việt Nam. Ông sống tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, được xem là _trùm_
**Văn phòng Quốc hội** là cơ quan giúp việc của Quốc hội, có trách nhiệm nghiên cứu, tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ mọi hoạt động của Quốc hội, Uỷ ban Thường
Tộc phả là một kho tàng chứa đựng mối quan hệ tình cảm sâu đậm của những người con, người cháu có cùng chung một huyết thống. Là tình cảm thiêng liêng rất tự nhiên,
Nguyên Trưởng Ban Ban liên lạc họ Phạm toàn quốc Việt Nam TS. Phạm Khắc Di đã có 2 câu thơ khái quát tôn chỉ mục đích hoạt động của Họ Phạm chúng ta,
**Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi** (14 tháng 5 năm 190921 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn
**Phạm Công Thiện** (1941–2011) là một thi sĩ, nhà văn, triết gia, học giả và cư sĩ Phật giáo người Việt Nam với pháp danh **Nguyên Tánh**. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ
**Phạm Đình Chương** (1929 – 1991) là một nhạc sĩ tiêu biểu của nền tân nhạc Việt Nam. Ông còn là một ca sĩ với nghệ danh **Hoài Bắc**. ## Cuộc đời Phạm Đình Chương
**Đỗ Thị Minh Hạnh** (sinh ngày 13 tháng 03 năm 1985 ở Di Linh, Lâm Đồng) nguyên là sinh viên Cao đẳng Kinh tế, từng tham gia các phong trào công nhân biểu tình và
Khi nói đến làng Liêu Xuyên (xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên), người ta thường nhắc đến vị Trạng nguyên đời Lý Cao Tông là Đỗ Thế Diên; đến 2 cha con
Tranh tường [[Ai Cập cổ đại về việc cày cấy và bắt chim, khoảng 2700 năm trước Công nguyên, hiện lưu giữ ở bảo tàng Ai Cập, Cairo, Ai Cập.]] **Văn hóa** (chữ Hán: 文化,
nhỏ|phải|Những con [[tê giác châu Phi, ngày nay, chúng là biểu tượng của sự nghiệp bảo tồn động vật, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm về
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
**Mã Hy Phạm** () (899, và chưa hoàn toàn kiểm soát được Vũ An- sau trở thành trấn trung tâm của nước Sở, song đang dần củng cố quyền lực. Mã Hy Phạm và thứ
**Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam** là một giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam. Hằng năm Hội Nhà văn Việt Nam đều tổ chức phát động và trao Giải thưởng
**Phạm Mạnh Cương** (sinh ngày 30 tháng 7 năm 1933) là một nhạc sĩ Việt Nam, tác giả của những nhạc phẩm _Thương hoài ngàn năm_, _Thu ca_, _Loài hoa không vỡ_. Ngoài ra ông
**Phạm Trọng Cầu** (1935-1998) là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng, tác giả ca khúc _Mùa thu không trở lại_ và bài hát thiếu nhi _Cho con_. Ông còn có bút danh **Phạm Trọng**,
**Nguyễn Văn Huyên** (1905-1975) là một giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ
**Thế Lữ** (10 tháng 6 năm 19073 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là **Nguyễn Đình Lễ** (sau đó đổi thành **Nguyễn Thứ Lễ**), là một nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch