✨Phạm Duy

Phạm Duy

Phạm Duy (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh Phạm Duy Cẩn là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam. Ông được nhiều người đánh giá là nhạc sĩ lớn nhất của nền tân nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại. Ông cũng là người khởi xướng, định hướng nhiều trào lưu, phong cách mới mẻ cho nền tân nhạc Việt. Ngoài sáng tác và biểu diễn, ông còn có những công trình khảo cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị. Ông từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Ông còn được coi như một nhà văn với 4 tập hồi ký được giới phê bình đánh giá cao về giá trị văn học lẫn giá trị tư liệu. Tuy vậy bên cạnh đó, các quan điểm nhìn nhận về ông cũng khác biệt, chủ yếu là do các vấn đề chính trị..

Năm 2005, sau nhiều lần về thăm quê hương, ông chính thức trở về Việt Nam sống và từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến lại. Tính cho tới tháng 1 năm 2014, có 244 ca khúc được cấp phép lưu hành (trong số đó có 53 ca khúc ngoại quốc do ông đặt lời Việt), trong số khoảng hơn 2000 ca khúc do ông sáng tác hoặc viết lời.

Tiểu sử

nhỏ|phải|287x287px|Nhà văn hiện thực Phạm Duy Tốn, cha của Phạm Duy. nhỏ|186x186px|phải|Nhạc sĩ Phạm Duy lúc nhỏ.

Phạm Duy Cẩn sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 (5 tháng 9 (nhuận) năm Tân Dậu) tại Nhà hộ sinh số 40 Rue Takou (nay là Phố Hàng Cót), Hà Nội trong một gia đình văn nghiệp. Ít lâu sau khi ông ra đời, gia đình ông dọn từ phố Mã Mây (Rue des Pavillons Noirs - phố Quân Cờ Đen) xuống phố Hàng Dầu (Rue Felloneau), Hà Nội.

Cha ông là Phạm Duy Tốn, thường được coi như là nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới đầu thế kỷ XX. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo sư – thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine.

Lúc nhỏ ông là cậu bé hiếu động, tính tình "văng mạng, bất cần đời", tuy vậy lại thích diễn kịch, làm trò, và mê nhạc.

Về học hành chính quy, Phạm Duy chỉ có bốn năm tiểu học và một năm trung học, Giữa năm 1945 Phạm Duy từ giã gánh hát Đức Huy đến ở nhờ nhà một người bạn tại khu Dakao (Tân Định), Sài Gòn. Ông sinh sống, đi hát tại Sài Gòn rồi gia nhập Thanh niên Tiền phong, làm công tác văn nghệ rồi vào đội Võ trang Tuyên truyền. Tháng 10/1945, sau khi quân Pháp làm chủ Sài Gòn, ông rời Tân Định ra Bắc, về Hà Nội.

Đầu năm 1946 ông tham gia một lớp huấn luyện quân sự cấp tốc rồi sau đó được đưa vào miền Nam tham gia kháng chiến. Ông được đưa vào chiến khu Bà Rịa - Vũng Tàu làm công tác thông tin, liên lạc và tiếp vận. Đầu mùa Thu năm 1946 ông bị thương nhẹ ở cánh tay và được phép về Bắc. Ông ở Huế một thời gian rồi về Hà Nội khoảng cuối tháng 10/1946.

Ngày 19/12/1946 Toàn quốc kháng chiến. Ngày 20 tháng 12 ông ra Hà Đông, làm việc tại Đài Phát thanh bí mật; sau đó tham gia Đoàn Văn nghệ Giải phóng tại Sơn Tây rồi đi phục vụ văn nghệ qua Phúc Yên, Vĩnh Yên, Việt Trì, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai. Ông ở lại Lào Cai, cùng với Văn Cao, Ngọc Bích, làm việc tại phòng trà Quán Biên Thùy (một cơ sở tình báo). Sau đó ít lâu ông cùng Ngọc Bích đến Bắc Cạn (qua Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên) khoảng tháng 10/1947, rồi quay lại Thái Nguyên; lúc này hai ông làm việc cho Cục Chính trị, là cán bộ văn nghệ với cấp bậc đại úy. Cuối 1947 hai ông từ Thái Nguyên qua Bắc Giang, sau đó tham gia đoàn văn nghệ do Hoàng Cầm thành lập, lưu diễn tại Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1948. Sau khi không còn là văn nghệ sĩ của Cục Chính trị thì 2 người đi Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Sơn Tây về Hà Đông.

Sau khoảng 2 tháng, nghe lời Trần Văn Giàu, cả hai vào Thanh Hóa để vào Nam. Nhưng tại Thanh Hóa, Phạm Duy tham gia Đoàn Văn nghệ Quân đội Liên khu IV, trực thuộc Trung đoàn 304 (có sự tham gia của Thái Hằng). Sau khi đính hôn với Thái Hằng, Phạm Duy cùng một số nghệ sĩ đi phục vụ thực tế tại Nghệ An, Hà Tĩnh rồi Bình - Trị - Thiên (đi đường rừng, đồng bằng và quay về bằng đường biển).

Về lại Thanh Hóa năm 1949, Phạm Duy cưới Thái Hằng, người chủ trì hôn lễ là tướng Nguyễn Sơn. Sau đó cả 2 vợ chồng ra Việt Bắc (đi qua Hòa Bình, Vĩnh Yên, Thái Nguyên, Bắc Cạn) năm 1950, tham dự Đại hội Văn hóa Toàn quốc. Sau đó Phạm Duy và vợ từ bỏ, thoát ly khỏi các đoàn văn nghệ quân đội và quay về lại Thanh Hóa.

Ngày 1 tháng 5 năm 1951 đại gia đình Phạm Duy-Thái Hằng chia làm 3 nhóm từ Thanh Hóa "dinh tê" về Hà Nội. Ngày 9 tháng 6 năm 1951 di cư (bằng máy bay) vào Nam, sinh sống tại Sài Gòn. Cuối năm 1951, bị một số nhạc sĩ ghen tị tố cáo là có quan hệ với Việt Minh, ông cùng với Lê Thương và Trần Văn Trạch bị bắt giam ở khám Catinat, Sài Gòn trong 120 ngày. Năm 1953, ông qua Pháp học dự thính hai năm về âm nhạc, tại đây, ông chơi thân với Trần Văn Khê, người sau này trở thành giáo sư dân nhạc nổi tiếng. Hai năm sau, ông về Việt Nam thì đất nước đã chia cắt sau hiệp định Genève. Từ đó, ông ở miền Nam tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long cùng với Thái Thanh, Hoài Nam, Hoài Bắc, Hoài Trung tại phòng trà Đêm màu hồng. Thời gian này ông cũng có những hoạt động trong ngành sân khấu và thông tin đại chúng, như viết nhạc kịch, viết nhạc cho phim và cộng tác với đài Phát thanh.

Năm 1956, xảy ra vụ ngoại tình giữa ông và ca sĩ Khánh Ngọc, là vợ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương và đồng thời cũng là em vợ của Phạm Duy . Đây là "mối tình cấm", "cả gan" luôn làm ông "buồn rầu khi phải nhắc lại" vì đã làm buồn lòng người vợ, người em vợ, và vì biết rằng những đổ vỡ kia không thể hàn gắn được" Nhờ đó, ông có dịp trao đổi tài liệu âm nhạc với các văn nghệ sĩ nước ngoài.

Năm 1966, ông được văn phòng Giáo dục Văn hóa của Bộ Ngoại giao Mỹ mời sang nước này, tại đây ông được mời tham quan các đài truyền hình, nhạc hội, đến ở trong gia đình nghệ sĩ The Beers Family, Petersburg. Ông được đài Channel 13 với Steve Addiss và Bill Crofut, mời tham gia chương trình dân ca của Pete Seeger, nhạc sĩ phản chiến số một của Hoa Kỳ. Bốn năm sau ông lại qua Hoa Kỳ lần nữa để làm cố vấn cho Bộ thông tin Hoa Kỳ để "giải độc dư luận Mỹ". Tại đây ông mới biết thêm thông tin về vụ Thảm sát Mỹ Lai, và phản ứng của ông là ca khúc Kể chuyện đi xa..

Trải qua nhiều khó khăn của hành trình di tản, ông và gia đình cũng ổn định, cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California. Thời kỳ này ông vẫn tiếp tục sáng tác, biểu diễn và tổ chức cũng như tham gia các đêm nhạc về mình.

Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.

Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, ông quyết định thực hiện những chuyến về thăm quê hương sau 25 năm xa cách.

Tháng 5 năm 2005, ông chính thức trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang, Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, lần đầu tiên kể từ năm 1975, 9 bài hát của ông được cấp phép phổ biến. Thời kỳ này ông vẫn hoạt động âm nhạc, tuy sức khỏe đã có dấu hiệu giảm sút, nhiều bệnh được phát hiện ra.

Ngày 27 tháng 1 năm 2013, sau một thời gian nằm viện, ông qua đời, một tháng sau cái chết của con cả ông là ca sĩ Duy Quang. Còn Phạm Duy thì mất tinh thần một thời gian, rồi lại đáp trả công luận bằng sự gan lì với bản nhạc "Tôi còn yêu, tôi cứ yêu!". Khi vụ án tình giữa Phạm Duy - Khánh Ngọc xảy ra thì cụm từ "ăn chè Nhà Bè" cũng được nhắc đến nhiều để chỉ những cuộc tình vụng trộm

Sự nghiệp

Ca sĩ

Phạm Duy bắt đầu sự nghiệp âm nhạc với vai trò ca sĩ hát Tân nhạc trong gánh hát Cải lương Đức Huy - Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi nhiều miền trên đất nước, giúp ông mở mang tầm mắt, ngoài ra khiến ông trở thành một nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng. Với giọng hát điêu luyện, đậm chất Việt của mình, ông đã đưa tên tuổi các nhạc sĩ như Đặng Thế Phong, Văn Cao đi khắp đất nước Việt Nam. Trong bài báo Tài Tử Phạm Duy để giới thiệu ca sĩ Phạm Duy, đăng trên tờ Revue Radio Indochine số 47, ra ngày Tết dương lịch năm 1944, Nguyễn Văn Cổn đã khắc họa:

:"... Người thiếu niên này với gương mặt gầy ốm, một cặp mắt hiền từ và mơ màng sau cặp kính trắng, với cách cử chỉ khoan thai và nhã nhặn, đó là Phạm Duy(...) Có lẽ trong tiếng hát của Phạm Duy, chúng ta thấy một cái gì hơi xa xăm, buồn tủi, phải chăng đời của nghệ sĩ như đầy những sự nhớ nhung, thương tiếc, đợi chờ, mà tiếng hát Phạm Duy là tiếng lòng thổn thức (...) Mỗi lần Phạm Duy lên ca hát tại Đài Vô Tuyến là mỗi lần các thính giả xa gần đều lặng yên để thụ hưởng những sự dịu dàng trong trẻo, như thanh điệu êm ái (...) Bài Buồn tàn thu mà Phạm Duy hát lên có lẽ ai cũng nhận thấy sự cảm động của một tâm hồn mong mỏi người xa xôi (...) đưa cái bài Buồn tàn thu tới những tâm hồn mong mỏi (...)

:... Nhưng nói về nghệ thuật, thì có lẽ Phạm Duy là một tài tử thứ nhất hát những bài âm nhạc cải cách với một giọng hoàn toàn Việt Nam, có nhiều tài tử cứ tưởng lầm rằng họ ca hát những âm nhạc mới, tức là phải có một giọng Âu Mỹ, thật là sai lầm (...) Phạm Duy lại còn là một nghệ sĩ rất có lương tâm nhà nghề trước khi hát, trước khi biểu diễn, Phạm Duy rất chăm chú tập dượt những bài hát (...)"

Với giai đoạn này, nhạc sĩ Văn Cao gọi Phạm Duy là "kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi khắp chốn". Ông từng hát riêng cho vua Bảo Đại nghe trong một chuyến lưu diễn ở Phan Rang. Khi đã theo kháng chiến, với cây đàn guitar, Phạm Duy tiếp tục đem giọng hát của mình phục vụ anh em chiến sĩ, mà theo Tạ Tỵ, tiếng hát Phạm Duy lúc này "mang một âm hưởng khác, một nội dung khác, ở đó, Duy không còn là kẻ đứng ngoài hát cho người khác nghe, mà nó chính là tiếng thét oai hùng của một thế hệ thanh niên đã ý thức được vai trò của mình trong lịch sử".

Thời gian khi đã vào nghề sáng tác, Phạm Duy cũng duy trì công việc ca hát của mình, một cách không đều đặn. Tiếng hát của ông từng được phát trên các đài truyền thanh, truyền hình lớn trên Nam Việt cũng như thế giới. Ông đi hát rong cùng James Durst, Pete Seeger trong các chương trình giao lưu văn hóa Việt Mỹ, hay các chương trình nhạc phản chiến, phong trào du ca. Bên cạnh đó, Phạm Duy còn tự thâu âm những băng nhạc Tục ca, Tâm ca, Vỉa hè ca, Ngục ca và trong giai đoạn đầu lưu vong ở Hải ngoại, là hát rong trong nhóm nhạc Gia đình Phạm Duy, cùng với Thái Hằng, Thái Hiền.

Sáng tác

Tuy là ca sĩ có được nhiều thành công đặc biệt, nhưng sự nghiệp chính và quan trọng nhất của Phạm Duy là sáng tác, bắt đầu từ ca khúc Cô hái mơ, nếu không tính các ca khúc nghịch ngợm, truyền miệng, hay các ca khúc đặt lời cho nhạc ngoại quốc từ thuở thiếu niên.

Thời kỳ tiền chiến và Chiến tranh Đông Dương

Ca khúc đầu tay của Phạm Duy là Cô hái mơ, một ca khúc phổ từ thơ Nguyễn Bính. Tới năm 1944, ông cho ra đời bài Gươm tráng sĩ, một ca khúc gắn với sự tích hồ Hoàn Kiếm, và là ca khúc đầu tiên được ông viết cả lời lẫn nhạc.

Thời kháng chiến Nam bộ (1945–1946) ông chơi thân với Văn Cao, ngoài việc cùng ra vào chốn ăn chơi, ông và Văn Cao còn giúp nhau trong phương diện sáng tác; Ông cùng Văn Cao cũng cùng nhau làm những ca khúc như Bến xuân, Suối mơ. Thời gian đầu của sự nghiệp, ở trong vùng kháng chiến, ông sáng tác nhiều ở thể loại hùng ca: Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu... Bên cạnh đó là những bài nhạc tình lãng mạn đầu tay: Cô hái mơ, Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya....

Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác nhạc mang âm hưởng dân ca, mà theo ông: "Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sĩ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị... Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa", từ đó cho ra đời thể loại mà ông gọi là "Dân ca mới",: Nhớ người thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Nhớ người ra đi, Người lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều... Những bài này được ông sáng tác dựa trên 2 tiêu chí: Nét nhạc vẫn dùng âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau; Lời ca tuy nằm trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn..

Những bài hát này tuy được quần chúng yêu thích và phổ biến rộng rãi, nhưng do nói về sự bi, sự khổ và có chất "lãng mạn tiểu tư sản" mà Phạm Duy bắt đầu bị sự chỉ trích của cấp trên thời kháng chiến. Sau nhiều lần bị khiển trách, ông quyết định rời chiến khu về thành phố. Trong 2 năm sửa soạn về thành rồi về Sài Gòn định cư (1951–1952), ông không sáng tác gì ngoài việc phổ câu ca dao thành bài dân ca là Nụ tầm xuân, và phổ bài thơ Tiếng sáo thiên thai của Thế Lữ thành một bản tango, để đáp ứng nhu cầu hát đôi của chị em Thái Thanh, Thái Hằng.

Năm 1952, Tình hoài hương ra đời tại Sài Gòn, khởi xướng cho khuynh hướng sáng tác "Tình ca quê hương": "Sau khi nói lên vinh quang và nhọc nhằn của dân tộc với nhạc kháng chiến, bây giờ tôi đi vào tình tự quê hương.." Ca khúc tiếp theo là Tình ca; hai bài này được nhân dân yêu thích và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương.. Ngoài ra còn có những ca khúc lấy cảm hứng từ thiên nhiên: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân thì...

Thời Chiến tranh Việt Nam

Từ sau Hiệp định Genève cho đến năm 1975, do hoàn cảnh chính trị, sự nghiệp của Phạm Duy chủ yếu phát triển ở miền Nam Việt Nam. Đây là giai đoạn rực rỡ, quan trọng và có ảnh hưởng lớn trong sự nghiệp của ông, với sự đi sâu vào các chủ đề tình cảm, tâm tư, bên cạnh đó là các đề tài mới mẻ cũng như những ca khúc có vấn vương tới chính trị.

Trong thời gian du học Pháp (1952–1954), ông thai nghén bản trường ca đầu tiên của mình, với ý phản đối chia đôi đất nước. Sau khi du học, ông về Việt Nam tiếp tục sáng tác, ngoài một số bài mang âm hưởng dân ca, ông tiếp tục đi sâu vào nhạc tình yêu đôi lứa, qua nhiều cung bậc hạnh phúc, đau khổ, nhớ thương: Đừng xa nhau, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Thương tình ca, Kiếp nào có yêu nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Còn gì nữa đâu.... Và từ đó đi sâu hơn vào việc khai thác những trạng thái tâm tưởng, với những bài hát nói về "Tình yêu - Sự đau khổ - Cái chết", ba điều quan trọng nhất lúc đó của ông, những ca khúc quan trọng của giai đoạn này có thể kể đến Nước mắt rơi, Đường chiều lá rụng, Tạ ơn đời, Một bàn tay. Sau đó bắt đầu những tác phẩm phục vụ cho Vụ Văn hóa, như ca kịch Chim lồng (1955), nội dung ca ngợi tự do và lên án sự ràng buộc, ám chỉ sự khác nhau của hai chế độ đang tồn tại trên đất nước Việt Nam..

Năm 1963, ông khởi sự sáng tác bản trường ca Mẹ Việt Nam, đây là trường ca thứ hai sau Con đường cái quan hoàn tất trước đó vài năm. Đây được coi như hai tác phẩm lớn và thành công không chỉ trong tác phẩm của ông, mà còn trong nền âm nhạc Việt.

Năm 1973, lúc Phong trào Nhạc trẻ lên cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật Bản. Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết. Thập niên 1970 với sự tham gia văn nghệ của các con Duy Quang, Thái Hiền, ông có thêm những tình ca nhẹ nhàng lãng mạn thích hợp với tuổi thanh niên, sinh viên như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi, Thà như giọt mưa.... Ngoài việc tự sáng tác nhạc và lời, ông cũng không quên phổ thơ người khác thành những tác phẩm được đông đảo người yêu mến, như những bài Ngày xưa Hoàng thị, Đưa em tìm động hoa vàng, tập nhạc "Đạo ca" (phổ thơ Phạm Thiên Thư), Thà như giọt mưa, cô Bắc kỳ nho nhỏ, Em hiền như Ma-soeur (phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên), Tiễn em, Mùa thu Paris (phổ thơ Cung Trầm Tưởng)...Và bên cạnh đó, ông còn đặt lời Việt cho những ca khúc nước ngoài, đó là những bài nhạc mới của "phong trào nhạc trẻ", hay những bản nhạc xưa hơn, và cả nhạc bán cổ điển. Nhiều ca khúc do ông đặt lời được coi là thành công như Dạ khúc (Stanchen của Schubert), Mơ mòng (Dreaming của Schumann), Khi xưa ta bé (Bangbang)...

Một thể loại cũng mang lại thành công cho ông trong giai đoạn chiến tranh nước Việt, đó là những ca khúc nói về tâm tư của người dân, người lính trong cuộc chiến tranh Việt Nam như Kỷ vật cho em, Khi tôi về, Tình khúc trên chiến trường tồi tệ, những ca khúc mang tính phản chiến như Giọt mưa trên lá, Chuyện hai người lính, Thầm gọi tên nhau, Tưởng như còn người yêu. Ông cũng tham gia Phong trào du ca Việt Nam với nhiều ca khúc nổi bật như _Việt Nam Việt Nam, Trả lại tôi tuổi trẻ, Du ca mùa xuân, _và xuất bản với phong trào này tập nhạc Hoan ca bao gồm các thể loại: Bình ca, Nữ ca, Đồng dao. Phạm Duy cũng là người ủng hộ và tham gia phong trào nhạc trẻ, khởi đầu với việc soạn lời Việt cho các ca khúc tiếng ngoại quốc.

Thời kỳ ly hương

Năm 1975, ông Nguyễn Đắc Xuân là người từng được Trưởng ban văn hóa văn nghệ Tố Hữu giao vào Sài Gòn để mời ông Phạm Duy ở lại sáng tác, nhưng nhạc sỹ đã rời đi trước khi ông Xuân tới nơi.

Phạm Duy rời Việt Nam vào ngày 27 tháng 4 năm 1975 bằng cách ra biển theo tàu hải quân Mỹ. Trong 30 năm xa quê hương, sự nghiệp âm nhạc của ông vẫn tiếp tục phát triển qua nhiều đề tài, thể loại mới, tuy rằng lúc này nhạc của ông bị cấm ở Việt Nam, chỉ phổ biến trong cộng đồng ở hải ngoại. Giai đoạn đầu, có một thời gian ông cùng các con và ca sĩ Khánh Ly đi hát tại các trại tam cư cho người Việt lưu vong. Ông cũng cho in sang các băng nhạc, soạn sách dạy nhạc để kiếm tiền. Sau khi đủ vốn liếng và tự tin, ông rủ Steve Addiss, Bill Crofut, James Durst...đi hát rong tại các quán cà phê, trường Đại học, câu lạc bộ ở các thành phố Mỹ . Khi trả lời phỏng vấn về vấn đề tỵ nạn Đông Dương, ông nói: "Tôi sinh ra để hát về nước tôi! Nước tôi đâu rồi?" *Về sự mất tự do ở trong nước, với Ngục ca, phổ từ tập thơ Hoa địa ngục của Nguyễn Chí Thiện: Hát Cho Người Ở Lại, Giấc Mơ Khủng Khiếp, Hoa Địa Ngục, Từ Vượn Lên Người Từ Người Xuống Vượn, Đảng Đầy Tôi, Ngày 19 Tháng 5, Xưa Lý Bạch, Những Thiếu Nhi Điển Hình Chế Độ... có nội dung đả kích, lên án mạnh mẽ chính phủ nước Việt Nam. Đó là việc được đọc tập thơ chuyền tay của thi sĩ Hoàng Cầm từ Việt Nam. Từ đó ông cho ra đời Hoàng Cầm ca gồm những bài phổ từ thơ Hoàng Cầm., Phạm Duy bèn tính tới việc sáng tác nhạc cho năm 2000, "Chọn đề tài này, tôi không còn chạy theo cái nhất thời mà đi tìm cái vĩnh cửu. Dù rằng trước đây những xu hướng trở về nội tâm cũng đã ló ra trong những bài hát soạn cho ngoại vật. Từ nay trở đi, đối với tôi, có lẽ tôi phải bỏ quên các loại nhạc tình cảm và nhạc xã hội để đi tới nhạc tâm linh"

Cũng trong năm 1988, ông cùng con trai Phạm Duy Cường thành lập PDC MUSICAL PRODUCTIONS, trở thành người đầu tiên đưa nhạc Việt vào đĩa Compact Disc.

Trở về Việt Nam định cư tới cuối đời

nhỏ|phải|Nhạc sĩ Phạm Duy đang biểu diễn tại một quán nướcSau nhiều lần về thăm quê hương,. Phạm Duy chính thức trở về định cư tại Việt Nam ngày 17 tháng 5 năm 2005, với sự cho phép của chính phủ Việt Nam. Sự kiện này được truyền thông trong nước lẫn hải ngoại quan tâm đặc biệt. Báo chí Việt Nam nhận xét đó là "nhịp cầu nối quê hương với người Việt xa xứ", còn Phạm Duy nói cuộc trở về này là "lá rụng về cội". Bên cạnh đó, sự kiện này còn gặp phải sự phản đối của một số người Việt hải ngoại, vì họ cho rằng ông đã "về phe cộng sản".

Ông Nguyễn Đắc Xuân từng chất vấn Phạm Duy về những quyết định của ông trong quá khứ. Hồi năm 1996, hàng đêm ông Xuân liên hệ qua điện thoại thì có lần ông đã hỏi là "Anh Phạm Duy có khi nào anh nghĩ rằng anh có tội với đất nước không?". Phạm Duy trả lời.

Năm 2006, Phạm Duy cùng hãng phim Phương Nam tổ chức đêm nhạc mang tên "Ngày trở về" tại nhà hát Hoà Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông được mời làm người dẫn chương trình dẫn dắt và kể chuyện suốt liveshow; đêm nhạc tổ chức quy mô hoành tráng, được công chúng đón nhận nhiệt liệt. Một số nhân vật đã phản đối sự đón nhận này, trong đó có nhà báo Nguyễn Lưu với bài "Không thể tung hô" đăng trên báo Đầu tư. Tuy nhiên bài viết của Nguyễn Lưu vấp phải sự phản đối của nhiều độc giả, bị cho là mắc nhiều "sai lầm ngây ngô", và những "lỗ hổng kiến thức chết người". Hãng phim Phương Nam cũng phản hồi bài viết này bằng một bài báo, trong đó nội dung phần lớn để cải chính những kiến thức sai lầm trong bài của Nguyễn Lưu.. Sau đó báo Đầu tư đã thông báo chấm dứt tranh luận về vấn đề này.

Nhiều đêm nhạc Phạm Duy khác với quy mô lớn tiếp tục diễn ra: Con đường tình ta đi (ngày 12 tháng 11 năm 2009), Mơ giấc mộng dài (tháng 7 năm 2010) tại nhà hát Hoà Bình tổ chức bởi Hãng phim Phương Nam, những đêm giới thiệu Minh họa Kiều tại miền Bắc.. Tháng 3 năm 2009, đêm "Ngày trở về" đã tổ chức thành công ở nhà hát lớn, Hà Nội, nơi ông sinh ra, "Xong buổi diễn, tôi mới thực sự là người về hưu" - ông phát biểu .

Ngày 18 tháng 8 năm 2011, ban liên lạc họ Phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh và công ty TNHH họ Phạm Phương Nam tổ chức đêm nhạc Họ Phạm với chủ đề "Mọi trái tim - một tấm lòng" cũng mời ông và nhạc sĩ Phạm Tuyên tới tham dự.

Năm 2013, ông qua đời tại TP Hồ Chí Minh.

Đạo diễn điện ảnh, nhà phê bình phim

Năm 1956, xảy ra vụ ngoại tình giữa ông và ca sĩ Khánh Ngọc là vợ của em vợ ông là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, vụ việc trở thành một đề tài gây xôn xao trên các báo chí Sài Gòn và cả Hà Nội. Đây là "mối tình cấm", "cả gan" luôn làm ông "buồn rầu khi phải nhắc lại" vì đã làm buồn lòng người vợ, người em vợ, và vì biết rằng những đổ vỡ kia không thể hàn gắn được". Trong cuốn Hồi ký Phạm Duy (tập 3), ông viết: "Sự buông thả không kiềm chế trong sáng tác cũng như trong đời sống hằng ngày đẩy tôi vào một cuộc tình đáng lẽ tôi nên tránh. Thành thực mà nói, tôi muốn tránh cũng không được. Vì nhu cầu của công tác điện ảnh, tôi sống quá gần gũi với người vợ của em vợ, đôi khi còn phải sống chung ở Hồng Kông hay Manila để hoàn tất cuốn phim".

Sau vụ tai tiếng tình ái nói trên và bị chỉ trích nặng nề, Phạm Duy dừng hợp tác với ban nhạc hợp ca Thăng Long và chuyển sang làm việc ở Trung tâm điện ảnh. Phạm Duy làm đạo diễn bộ phim Hai người mẹ theo lời mời của ông Đỗ Bá Thế - Giám đốc Đông Phương films. Đến nay không ai biết bộ phim Hai người mẹ thành công đến đâu và Phạm Duy có tiếp tục đạo diễn bộ phim nào nữa không.

Ngoài ra, ông còn là cây bút phê bình điện ảnh. Sau vài năm du học ở Pháp và xem nhiều bộ phim xuất sắc của điện ảnh thế giới ở Trung tâm văn hóa Pháp tại Sài Gòn, Phạm Duy lựa chọn hầu hết những tác phẩm lớn đã ra đời trước đó nhiều năm để viết bài bình như Kẻ cắp xe đạp (đạo diễn Vittorio De Sica), Công dân Kane, Xô nhau đi tìm vàng (Charlie Chaplin), Bác sĩ Caligari (đạo diễn Robert Wiene), Ảo mộng lớn (đạo diễn Jean Renoir)...

Kiểm duyệt nhân thân, tác phẩm

Nhạc Phạm Duy từng phổ biến rộng rãi khắp đất nước Việt Nam từ năm 1942–1954 và được sự đón nhận lớn của quần chúng và cả chính quyền Việt Nam. Nhưng từ khi ông tỏ ra bất phục với chính quyền cách mạng và rời bỏ cuộc kháng chiến chống Pháp, đã có nhiều nhìn nhận khắt khe về ông dẫn đến việc cấm hát, cấm nói về Phạm Duy – nhạc Phạm Duy từ sau năm 1954 tại miền Bắc, và việc ông vượt biên sang Mỹ đã khiến Nhà nước Việt Nam đưa ông vào danh sách hai người bị cấm toàn bộ về nhân thân trên toàn nước Việt Nam từ sau 1975. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1975, một bản tin trên đài phát thanh giải phóng tuyên bố "tử hình vắng mặt" ba người trong đó có Phạm Duy

;Tại miền Bắc Việt Nam trước 1975 Theo hồi ký của Phạm Duy thì lệnh cấm nhạc của ông bắt đầu từ bài Bên cầu biên giới, ra đời năm 1947; bài này bị chỉ trích là có thứ tình cảm ủy mị buồn bã, làm nản lòng chiến sĩ. Sau khi được Nguyễn Xuân Khoát thông báo lệnh cấm, Phạm Duy rời bỏ cách mạng về miền Nam.

Ban đầu tại các diễn đàn văn nghệ còn có những cuộc bàn cãi về việc cho hay không cho hát nhạc Phạm Duy, nhưng sau khi Phạm Duy rời bỏ kháng chiến khu thì dứt khoát cấm hoàn toàn. Từ đó, nhạc Phạm Duy bị liệt vào danh sách cấm, tên tuổi của ông bị đem ra phê phán. Ông cũng bị nghi ngờ có liên hệ với tình báo Mỹ (CIA)

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận là người hưởng ứng nhiệt tình việc này, ông đặc biệt tỏ ra coi thường âm nhạc của Phạm Duy. Trong các bài viết năm 1958 và 1969, Đỗ Nhuận gọi việc sinh viên miền Bắc phổ biến bài Tìm nhau của Phạm Duy là "rải tuyên truyền", Đỗ Nhuận gọi bài hát đó là "dâm ô".

;Tại Việt Nam từ 1975 đến 2005 Sau ngày thống nhất đất nước, Trần Văn Khê từ Pháp có về hỏi Tố Hữu về vụ Phạm Duy, Tố Hữu nói: "Bỏ khúc giữa, lấy khúc đầu và khúc đuôi", nghĩa là vẫn nên phổ biến nhạc Phạm Duy sau khi bỏ hết những bài sáng tác thời chiến tranh Việt Nam. Nhưng rồi nhạc Phạm Duy vẫn bị cấm trên cả nước, bàn luận về tác phẩm của Phạm Duy cũng bị cấm. Ông cùng với Hoàng Thi Thơ là hai nhạc sĩ đặc biệt nhất bị cấm về nhân thân.

Tuy vậy, khoảng 30 năm, vẫn thấy vài người viết về Phạm Duy. Trong cuốn Những bài viết tiến bộ công khai trên báo chí Sài Gòn từ 1954 – 1975 có cho đăng lại một phần trích đoạn của cuốn Phạm Duy đă chết như thế nào. Hay như thi sĩ Chế Lan Viên cũng nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên "Hồi Ký" đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986:

:"Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh."

Bài viết của Chế Lan Viên kết thúc bằng đoạn:

:"Vâng chỉ có trường hợp anh Phạm Duy là...là không cần cội vậy thôi. Chứ hình như hầu hết, lá rụng đều về cội cả và mọc lên thành cội nữa."

Nhà báo Nguyễn Phúc Long trong bài "Công và tội" đăng trên báo Đoàn kết, số 393 ra tháng 7 năm 1987, có nhắc đến Phạm Duy, sau một loạt tên tuổi mà ông cho là "phản bội", nhưng vẫn có công cho văn hoá nước nhà như Trần Ích Tắc, Lê Trắc, Phạm Thái, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Khiêm, Võ Phiến và nhóm Tự Lực Văn Đoàn: :"Trong lĩnh vực ca nhạc, Phạm Duy, "con người của phản bội", bị nhân dân ta khinh bỉ cũng đă có cái may mắn là để lại cho chúng ta một số bài hát giàu tính dân ca và trữ tình nhất là những bài được ông ta sáng tác trong thời kỳ đi theo kháng chiến – 1946 - 1949."

Đến năm 1994, báo chí Việt Nam mới có một bài thiện ý với Phạm Duy. Đó là bài thơ "Về thôi" mà nhà văn Lưu Trọng Văn, con trai nhà thơ Lưu Trọng Lư, gửi lên tờ Tuổi trẻ chủ nhật, có đề chữ "Tặng P.D." bên cạnh. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đă phổ nhạc bài này. Rồi sau đó chính Phạm Duy cũng phổ nhạc với tên "Trăm năm bến cũ". Theo Phạm Duy, đây là bài thơ làm ông nghĩ nhiều tới việc về thăm Việt Nam, mà năm 2001 ông đă thực hiện.

Trong khoảng thời gian nhạc Phạm Duy bị cấm này vẫn có những ca sĩ trình diễn nhạc Phạm Duy và thậm chí cho ra bản thu âm, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến Lê Dung, người được coi là diva lớn nhất trong nước. Lê Dung đã cho thu âm một số bài hát của Phạm Duy như Nghìn trùng xa cách, Mộ khúc... và bà đã cho phát hành trong các album Kỷ niệm vàng son, Dạ khúc của bà. Điều này đã khiến bà gặp rắc rối không ít với chính quyền.

;Sau 2005 Từ sau 2005, Phạm Duy trở về Việt Nam và các nhạc phẩm của ông được phổ biến lại dần từng đợt một dưới hình thức cấp phép lưu hành. Tính cho tới khi ông mất, chỉ khoảng 100 ca khúc, tức 1/10 lượng sáng tác được nhà nước cho phép phổ biến, điều này khiến những người yêu nhạc của ông cảm thấy tiếc nuối cho một nghệ sĩ tài năng nhưng liên đới nhiều đến chính trị. Ông từng đích thân gửi thư cho chủ tịch Trương Tấn Sang sau khi gặp vợ chồng chủ tịch nước ở Hà Nội trong chương trình 'Xuân Quê Hương', với nội dung mong muốn ""tất cả các tác phẩm âm nhạc [của Phạm Duy]...từ thời tiền Kháng chiến... đến nay được cho phép biểu diễn trên quê hương" trừ các tác phẩm "Chính quyền thấy không phù hợp". Phổ biến nhạc Phạm Duy cũng là điều được nhiều nhân vật ở nhiều giới lên tiếng ủng hộ, trong đó có sử gia Dương Trung Quốc, ca sĩ Ánh Tuyết, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, giáo sư tiến sĩ âm nhạc Trần Văn Khê.

Phân loại tác phẩm

Các sáng tác của Phạm Duy có thể chia ra làm nhiều loại: *Nhạc thiếu nhi*: Sáng tác cho trẻ em như Em bé quê (sáng tác trước năm 1975), Ông trăng xuống chơi; Thằng Bờm có cái quạt mo, Chú bé bắt được con công (phổ nhạc từ đồng dao); Một đàn chim nhỏ; Bé bắt dế; Đưa bé đến trường;Bé, cây đàn, ngôi nhà xinh, đồi cỏ. Nhạc kháng chiến: Sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ngoài những tác phẩm ca ngợi kháng chiến như Xuất quân, Nhạc tuổi xanh, Gươm tráng sĩ, Bên ni bên tê..., còn lại là những bài nói lên tâm trạng cũng như chia sẻ những đau thương mất mát của người dân đằng sau cuộc chiến: Bà mẹ Gio Linh, Mười hai lời ru, Chiến sĩ vô danh.... Nhạc quê hương, tự tình dân tộc: Một phần quan trọng trong sự nghiệp của ông, gồm những bài ca ngợi, tự tình với quê hương đất nước và dân tộc. Nhiều bài hát mang những hình ảnh rất quen thuộc với miền đồng quê Việt Nam: con trâu, đồng lúa, cái cày, cô gánh lúa... Nhiều bài rất quen thuộc với người Việt: Tình ca, Về miền Trung, Tình hoài hương, Bà mẹ quê, Vợ chồng quê... Nhạc tình đôi lứa: Tình yêu là một đề tài lớn trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy. Nhạc tình đôi lứa có khối lượng nhiều nhất trong kho nhạc đồ sộ của ông, có thể kể những bài được giới trẻ trong nam ngoài bắc hát như Hẹn hò, Cỏ hồng, Ngày đó chúng mình, Cây đàn bỏ quên, Phượng yêu, Kiếp nào có yêu nhau, Đừng xa nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Tôi còn yêu tôi cứ yêu, Trả lại em yêu, Giết người trong mộng... Nhạc tâm tư: Ngoài viết về tình yêu trai gái, tình yêu quê hương, thì những sự suy tưởng cao siêu hay nhớ nhung buồn nản vẩn vơ cũng được Phạm Duy ghi lại thành nhạc, có thể kể đến Đường chiều lá rụng, Bên cầu biên giới, Chiều về trên sông, Dạ lai hương, Viễn du... Hay những bài nói lên tâm trạng phẫn uất trước nội chiến, cảm khái trước thế thời như: Huyền sử ca một người mang tên Quốc. Trường ca: Những tác phẩm lớn khiến ông có một địa vị chắc chắn trong nền tân nhạc Việt Nam: Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam, Hàn Mạc Tử, sau này là Minh họa Kiều, bản trường ca dài nhất và hoàn thành lâu nhất của ông. Rong ca: Gồm 10 bài sáng tác năm 1988: Người tình già trên đầu non, Hẹn em năm 2000, Mẹ năm 2000, Mộ phần thế kỷ, Ngụ ngôn mùa Xuân, Nắng chiều rực rỡ, Bài hát nghìn thu, Trăng già, Ngựa hồng, Rong khúc. Đạo ca: Gồm 10 bài, phổ thơ của Phạm Thiên Thư vào thập niên 1970: Pháp thân, Đại nguyện, Chàng dũng sĩ và con ngựa vàng, Quán thế âm, Một cành mai, Lời ru bú mớm nâng niu, Qua suối mây hồng, Giọt chuông cam lộ, Chắp tay hoa, Tâm xuân. Thiền ca: Gồm 10 bài, sáng tác vào thập niên 1980: Thinh không, Võng, Thế thôi, Không tên, Xuân, Chiều, Người tình, Răn, Thiên đàng địa ngục, Nhân quả. Tâm ca**: Gồm 10 bài, thở than về những xáo trộn trong cuộc sống người dân miền Nam thời Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam sụp đổ: Tôi ước mơ (thơ Thích Nhất Hạnh), Để lại cho em (thơ Nguyễn Đắc Xuân), Tiếng hát to, Ngồi gần nhau, Giọt mưa trên lá, Một cành củi khô, Kẻ thù ta (ý thơ Nhất Hạnh), Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi. Ngoài ra còn nhiều bài khác cũng theo hướng Tâm ca như Những gì sẽ đem theo về cõi chết, Tôi còn yêu tôi cứ yêu.

  • Nhạc phản chiến (Tâm phẫn ca): Sáng tác sau Tết Mậu Thân: Tôi không phải gỗ đá, Nhân danh (thơ Tâm Hằng), Bi hài kịch (thơ Thái Luân), Đi vào quê hương (thơ Hoa Đất Nắng), Người lính trẻ, Bà mẹ phù sa... Ngoài ra còn một số bài sáng tác cho phong trào du ca. *Tục ca, vỉa hè ca: Gồm những bài ca mang tính chất xã hội, có hình thức bình dân (Vỉa hè ca) hay dung tục (Tục ca), nội dung nói lên các vấn đề chính trị, xã hội và đời sống lúc bấy giờ.
  • Bên cạnh những thể loại kể trên, còn có Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ, Tị nạn ca nói về tâm trạng và sự khó nhọc của người ly hương; Hoàng Cầm ca phổ những bài thơ của thi sĩ Hoàng Cầm; Hương ca sáng tác khi ông về ở Việt Nam, và tập cuối cùng là Dị khúc, bao gồm 10 ca khúc phổ thơ của thi sĩ Bích Khê.

Trường ca

Trường ca là một thể loại quan trọng trong sự nghiệp Phạm Duy, và cũng để nhấn mạnh vai trò của ông trong nền âm nhạc Việt Nam vốn không có nhiều trường ca thành công. Bản trường ca đầu tiên của ông là Con đường cái quan, viết từ năm 1954 tới 1960, cùng với Mẹ Việt Nam liền sau đó, là hai tác phẩm được quan tâm lớn và coi là thành công nhất cho tới nay. Trường ca dài nhất và cũng được ông thực hiện lâu nhất là Minh họa Kiều, chỉ mới hoàn thành và xuất bản gần đây và chưa có nhiều nhà nghiên cứu nói về nó.

Con đường cái quan

Những dòng nhạc đầu tiên của trường ca này được ông sáng tác năm 1954 tại Paris, ngay khi Hiệp định Genève vừa ký kết để phản đối sự chia cắt đất nước. Phần còn lại được soạn sau đó 6 năm, hoàn tất năm 1960. Cho đến nay đây vẫn là trường ca được nhiều người biết đến nhất của Phạm Duy.

Nội dung trường ca nói về một cuộc du hành từ miền Bắc Việt Nam, qua miền Trung Việt Nam, đến miền Nam Việt Nam của một người du khách, trên con đường cái quan, hay là "con đường đất nước nối liền lòng dân". Chuyến đi ấy bắt đầu từ Ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau, từ ngày lập quốc cho đến ngày hoàn thành, đi trong lịch sử nhưng cũng là trong lòng người dân để nối liền đất nước, nối liền lòng dân, mà đi tới đâu người lữ khách cũng được dân chúng miền đó đón chào.

Theo nhiều người, trường ca "Con đường cái quan" đã chứng tỏ có thể đem yếu tố nhạc Việt Nam truyền thống kết hợp với nhạc giao hưởng phong cách Tây phương mà không làm mất tính cách Việt. Trường ca được phát sóng rất nhiều lần trên Đài Phát thanh Sài Gòn với giọng Thái Thanh, Kim Tước, Thái Hằng – Duy Khánh, Nhật Trường, Trần Ngọc và ban nhạc Hoa Xuân để trở những giai điệu quen thuộc nhất của Việt Nam. Nhiều sinh viên ở nhiều nơi đã dựng tác phẩm này thành một hoạt cảnh. Sau này, khi nhạc Phạm Duy đã bị cấm tại Việt Nam, đài truyền hình Bình Dương vẫn thường mở một vài đoạn hoà tấu ngắn trong trường ca lúc chuyển tiếp chương trình.

Mẹ Việt Nam

Tác phẩm này rực rỡ không kém trường ca Con đường cái quan. Mẹ Việt Nam soạn năm 1964 và hoàn thành trong năm đó, ca tụng hình ảnh người mẹ tổ quốc hay những bà mẹ điển hình trong lịch sử.

Trường ca gồm 4 phần: Đất mẹ, Núi mẹ, Sông mẹBiển mẹ, tượng trưng cho các giai đoạn của bà mẹ: từ tươi trẻ màu mỡ đến kiên cường sắt đá rồi thì rộng lượng bao dung. Khi sáng tạo hình ảnh người mẹ trong trường ca này, tác giả có ý đi tìm "mẫu số chung" của dân tộc. Tác phẩm này có phong cách dân ca với giọng khoan hò và điệu ru con mà giai điệu và lời, theo Georges Étienne Gauthier trong cuốn Một người Gia Nã Đại với nhạc Phạm Duy, đã đạt tới trình độ "toàn thiện".

Về sự phổ biến, trường ca "Mẹ Việt Nam" có lẽ không được rộng rãi như "Con đường cái quan", nhưng vẫn rất được nhiều người yêu thích qua những giọng của Thái Thanh, Kim Tước, Thái Hằng – Duy Khánh, Nhật Trường, Trần Ngọc và ban nhạc Hoa Xuân.

Hàn Mạc Tử

Trường ca này được sáng tác bên Mỹ vào năm 1994, dựa vào 9 bài thơ của Hàn Mạc Tử. Trường ca gồm ba phần: Tình quê, Trăng saoAve Maria, mà tác giả đã cố ý diễn tả tâm trạng của Hàn Mạc Tử qua giai điệu của mình. Do sáng tác bên Mỹ và chỉ hát bên Mỹ, cộng với giai điệu mang nhiều phong cách Tây phương nên trường ca này không phổ biến tại Việt Nam bằng hai trường ca trên, tuy vậy vẫn được xem là thành công với giọng hát Tuấn Ngọc, Thái Hiền, Duy Quang, Thái Thảo.

Bầy chim bỏ xứ

Theo Phạm Duy, "Con đường cái quan" mang tính chất tả thực, "Mẹ Việt Nam" mang tính chất tượng trưng, "Hàn Mạc Tử" mang tính chất siêu hình, thì "Bầy chim bỏ xứ" mang tính chất ẩn dụ.

Trường ca này có thể cho là một thành công của Phạm Duy, dù chỉ ở hải ngoại. Khởi soạn năm 1975, hoàn tất năm 1985, thu thanh năm 1990, với các giọng ca Kim Tước, Vũ Anh, tác phẩm này gồm 16 đoản khúc (có thể là 16 bài hát riêng) nói về một bầy chim, mà mỗi con chim ẩn dụ cho một hạng người, một số phận khác nhau... mà chính nhất là chim quyên, lấy cảm hứng từ tích Thục Đế. Chim quyên rời bỏ thôn Đoài, trải qua bao nhiêu việc, bao nhiêu lần hoá thân, rồi chết nơi xứ người, nhưng từ đống tro tàn ấy, chim quyên lại tái sinh để về lại thôn Đoài.

Minh họa Kiều

Như tên của nó, tác phẩm này có ý minh họa lại truyện Kiều của Nguyễn Du, để thể hiện lòng kính trọng của tác giả với nhà đại thi hào. Đây là tác phẩm rất dài vì gom gần hết những lời thơ trong Truyện Kiều. "Minh họa Kiều" chia ra làm bốn phần, bốn giai đoạn của Thuý Kiều: phần một Kiều gặp Đạm Tiên, biết được số phận long đong của mình; phần hai Kiều gặp Kim Trọng, tình yêu nảy nở nhưng biết là không trọn vẹn; phần ba là giai đoạn khổ nhục của Thuý Kiều; phần bốn Kiều gặp Từ Hải, phần này tác giả chưa soạn xong.

Theo Phạm Duy, đây là tác phẩm ông bỏ công nhiều nhất (sáng tác những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI). Tác phẩm được thể hiện đầu tiên với giọng Duy Quang, Tuấn Ngọc, Thái Hiền, Ái Vân, Thanh Ngoan, Thái Thảo, Anh Dũng,...

Tháng 3 năm 2009, ông cho biết đã hoàn thành Minh họa Kiều, ông có nhiều buổi diễn thuyết tại Hà Nội về đề tài này.

Phổ nhạc, đặt lời

Phạm Duy được xem là một trong số ít nhạc sĩ Việt Nam giỏi về nghệ thuật phổ nhạc vào thơ và đặt lời cho ca khúc nước ngoài và nhạc bán cổ điển.

Những tác phẩm thơ phổ nhạc thành công nhất của ông có thể kể đến "Ngậm ngùi" (thơ Huy Cận - nhà thơ Huy Cận từng gửi lời cảm ơn ông về việc giúp bài thơ này nổi tiếng); "Đưa em tìm động hoa vàng ", "Ngày xưa Hoàng Thị" (thơ Phạm Thiên Thư); "Áo anh sứt chỉ đường tà" (trích Màu tím hoa sim của Hữu Loan); "Tiễn em" (thơ Cung Trầm Tưởng); "Đừng bỏ em một mình" (thơ Minh Đức Hoài Trinh); "Kiếp nào có yêu nhau" (thơ Minh Đức Hoài Trinh); "Tỳ bà" (thơ Bích Khê); "Vần thơ sầu rụng", "Tiếng thu" (thơ Lưu Trọng Lư); "Tình cầm" (thơ Hoàng Cầm); "Em hiền như Masoeur", "Thà như giọt mưa", "Hai năm tình lận đận" (thơ Nguyễn Tất Nhiên)...

Nhiều ca khúc nước ngoài nhờ ông đặt lời Việt mà trở nên phổ biến ở Việt Nam, như "Em đẹp nhất đêm nay" (La plus belle pour aller danser), "Khi xưa ta bé" (Bang bang), "Tình cho không" (L'amour c'est pour rien), "Tuyết rơi" (Tomber la neige), "Tiếng cười trong đêm" (La nuit), "Những mùa nắng đẹp" (Seasons in The Sun), "Chuyện tình" (Where Do I Begin - nhạc phim Love Story của Andy Williams),... Ngoài ra ông còn đặt lời cho dân ca và nhạc khiêu vũ - như "Vũ nữ thân gầy" (La Cumparsita), "Caminito" - của nhiều nước trên thế giới.

Tiếp đến là những tác phẩm nhạc bán cổ điển, vốn là loại nhạc khó hòa nhập, thì ông cùng với tiếng hát Thái Thanh đã dễ dàng đưa đến số đông dân chúng: "Dạ khúc" (Nächtliches Ständchen của Franz Schubert), "Dòng sông xanh" (An der schönen blauen Donau op. 314 của Johann Strauss II), "Mối tình xa xưa" (bài số 15 trong "16 bài waltz cho piano" hay Célèbre Valse của Johannes Brahms)...

Ca sĩ thể hiện

Người được coi là thành công nhất với nhạc Phạm Duy cho đến nay là Thái Thanh. Thái Thanh hát nhạc Phạm Duy từ những ngày đầu ông sáng tác, bà đã biểu diễn và ghi âm hàng trăm bài. Từ những ca khúc cho quê hương như Tình ca, Nhớ người thương binh, Người về, Về miền Trung, Quê nghèo, Tình hoài hương,..., những bài có âm điệu phức tạp như Đường chiều lá rụng, Chiều về trên sông... đến tình ca đôi lứa như Ngày xưa Hoàng Thị, Nghìn trùng xa cách, Kiếp nào có yêu nhau, Trả lại em yêu, Đừng xa nhau... giọng hát của bà, với phong cách hàn lâm trên chất liệu dân ca, rất phù hợp với loại tân nhạc xây dựng trên hơi thở nhạc dân tộc của Phạm Duy. Nhạc Phạm Duy - giọng Thái Thanh đã là sự kết hợp tiêu biểu nhất của tân nhạc Việt Nam suốt nhiều thập kỷ.

Sau Thái Thanh, phải nói đến ca sĩ Duy Quang, con trai Phạm Duy và cũng là một trong những người trình bày nhiều ca khúc của Phạm Duy nhất. Duy Quang bắt đầu hát từ những ca khúc dành cho sinh viên, phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên. Thời gian sau biến cố 1975, ông tiếp tục hát những ca khúc về tình yêu, thân phận, tâm linh, và cả nhạc mang yếu tố chính trị. Đến khi Thái Thanh ngưng hoạt động, Duy Quang là người đã tiếp tục dòng nhạc Phạm Duy với vai trò trụ cột của những đêm nhạc Phạm Duy, và cũng là giọng hát chính của các đĩa hát Ngục ca, Thiền ca, Kiều ca.

Ngoài hai danh ca trên, còn nhiều ca sĩ thể hiện thành công cũng như gặt hái tên tuổi từ dòng nhạc Phạm Duy như Duy Khánh với những bài đậm màu dân ca: Nhớ người thương binh, Bà mẹ phù sa, Về miền Trung, Con đường cái quan, mẹ Việt Nam, Ngày trở về,... Danh ca Anh Ngọc với những bản nhạc tiền chiến, nhạc chiến tranh cũng như tình ca đôi lứa trong các chương trình thu phát trên đaì Sài Gòn, đặc biệt ông cũng là người đầu tiên trình bày bản nhạc Tình ca đến với công chúng. Nữ danh ca Khánh Ly cũng có rất nhiều ca khúc Phạm Duy thành công như Xuân Thì, Khối tình Trương Chi, Còn gì nữa đâu, 54-75, Bên Ni Bên Nớ...; Lệ Thu thì có Thuyền viễn xứ, Ngậm ngùi, Nước mắt mùa thu, Mộ khúc... gần như đóng đinh với tên tuổi của bà. Tuấn Ngọc là giọng hát lớn của giai đoạn sau 1975 cũng kịp để lại dấu ấn lớn trong dòng nhạc Phạm Duy với Tiễn em, Hẹn hò, Kiếp nào có yêu nhau, Nắng chiều rực rỡ, Trăng sao rớt rụng.... Julie Quang với Mùa thu chết, Yêu tinh tình Nữ, Huyền thoại trên một vùng biển; Elvis Phương với Áo anh sứt chỉ đường tà, Kỷ vật cho em, Tâm sự gửi về đâu, Tình hờ, Yêu em vào cõi chết, Con quỳ lạy chúa, Còn chút gì để nhớ, Vết thù trên lưng ngựa hoang; Khánh Hà với Nghìn trùng xa cách, Nha Trang ngày về, Kiếp nào có yêu nhau, Thái Hiền thì nổi danh khoảng thập niên 1970 với những bài nhạc Phạm Duy sáng tác cho "tuổi ô mai" và sau 1975 với rất nhiều bản thu cho những ca khúc Phạm Duy ít người hát. Hà Thanh với Hoa xuân. Thanh Thúy với Phố buồn. Kim Tước, Quỳnh Giao, Mai Hương, hát những bài nhạc bán cổ điển được giới thưởng ngoạn đánh giá cao. Danh ca Lê Dung trong nước, tuy rằng hoạt động trong giai đoạn nhạc Phạm Duy bị cấm nhưng cũng đã cho ra đời "chui" một vài bản nhạc tình của Phạm Duy như Mộ khúc, Nghìn trùng xa cách và được đánh giá tốt. Gần đây có các ca sĩ Ngọc Anh với Giết người trong mộng, Bích Liên, Mộng Thủy,... thường hát những ca khúc Phạm Duy ở hải ngoại.

Sau khi nhạc Phạm Duy được cấp phép tại Việt Nam, thì những ca sĩ trẻ trong nước như Mỹ Linh, Quang Linh, Nguyên Thảo, Quang Dũng, Đức Tuấn,... là những người thường biểu diễn trong những đêm nhạc Phạm Duy cũng như thu âm nhạc Phạm Duy.  

Vinh danh nhạc sĩ Phạm Duy

Đặc biệt, Trung tâm Thúy Nga đã từng thực hiện để vinh danh dòng nhạc của ông:

  • Paris By Night 19: Tác phẩm và Con người Phạm Duy
  • Paris By Night 30: Phạm Duy 2 - Người tình
  • Paris By Night 73: Song ca đặc biệt - The Best of Duets

Nhận xét

Danh mục tác phẩm

Nhạc phẩm

:Để xem đầy đủ danh sách các sáng tác của Phạm Duy, xem Nhạc Phạm Duy.

  • ''1954 cha bỏ quê, 1975 con bỏ nước
  • ''Anh hỡi, anh cứ về
  • ''Anh vái trời
  • Anh yêu em vào cõi chết (viết chung với Nguyễn Long)
  • Áo anh sứt chỉ đường tà (thơ: Hữu Loan)
  • Bao giờ biết tương tư (viết chung với Ngọc Chánh)
  • ''Bà mẹ Gio Linh
  • ''Bà mẹ phù sa
  • ''Bà mẹ quê
  • ''Bài ca sao
  • Bé bắt dế (thiếu nhi)
  • ''Bên bờ sông Seine ta ngồi ta khóc
  • ''Bên cầu biên giới
  • Bên ni bên nớ (thơ: Cung Trầm Tưởng)
  • Bến xuân (viết chung với Văn Cao)
  • ''Cành hoa trắng
  • ''Cây đàn bỏ quên
  • Chàng dũng sĩ và con ngựa vàng (Đạo ca 3)
  • Chiêu Quân Cống Hồ (ý thơ: Nguyễn Du)
  • ''Chiến sĩ vô danh
  • ''Chiều đông
  • ''Chiều về trên sông
  • ''Chinh phụ ca
  • ''Chỉ chừng đó thôi
  • ''Cho nhau
  • Chuyện tình buồn (thơ: Phạm Văn Bình)
  • ''Chúa hòa bình
  • Cô Bắc Kỳ nho nhỏ (thơ: Nguyễn Tất Nhiên)
  • ''Cô hái mơ
  • ''Con đường tình ta đi
  • Con đường vui (viết chung với Lê Vy)
  • ''Con quỳ lạy Chúa trên trời
  • ''Còn chút gì để nhớ (thơ: Vũ Hữu Định)
  • ''Còn gì nữa đâu
  • ''Có Bao Giờ Em Hỏi (thơ: Duyên Anh)
  • ''Cỏ hồng
  • ''Dã ca ngày mùa
  • ''Dạ lai hương
  • Đại nguyện (Đạo ca 2)
  • ''Đạo ca
  • ''Đi đâu cho thiếp theo cùng
  • ''Đố ai
  • ''Đường chiều lá rụng
  • ''Đưa bé đến trường
  • Đưa em tìm động hoa vàng (thơ: Phạm Thiên Thư)
  • ''Đường em đi
  • ''Đường Lạng Sơn
  • Đừng bỏ em một mình (thơ: Minh Đức Hoài Trinh)
  • ''Đừng xa nhau
  • Em bé quê (thiếu nhi)
  • Em hiền như Ma Soeur (thơ: Nguyễn Tất Nhiên)
  • ''Em lễ chùa này
  • ''Gánh lúa
  • ''Giọt mưa trên lá
  • ''Giải thoát cho em
  • ''Giết người trong mộng
  • ''Giờ thì em yêu
  • ''Giọt chuông cam lộ
  • Gọi em là đóa hoa sầu (thơ: Phạm Thiên Thư)
  • Hai năm tình lận đận (thơ: Nguyễn Tất Nhiên)
  • ''Hái hoa
  • ''Hạ hồng
  • Hán sở tranh hùng (ý thơ: Nguyễn Du)
  • ''Hẹn hò
  • Hoa rụng ven sông (thơ: Lưu Trọng Lư)
  • ''Hoa xuân
  • ''Hò lơ
  • ''Huyền sử ca một người mang tên Quốc
  • ''Khi tôi về
  • ''Khối tình Trương Chi
  • Kiếp nào có yêu nhau (thơ: Minh Đức Hoài Trinh)
  • ''Kiếp sau
  • ''Kỷ niệm
  • Kỷ vật cho em (thơ: Linh Phương)
  • ''Làm sao mà quên được
  • Lan buồn (Tâm sự Thanh Lan) (thơ: Thanh Lan)
  • Màu thời gian (thơ: Đoàn Phú Tứ)
  • Mẹ năm 2000 (Rong ca 3)
  • Mẹ trùng dương
  • Minh Họa Kiều
  • Mộ khúc (thơ: Xuân Diệu)
  • Mộ phần thế kỷ (Rong ca 4)
  • Mộng du
  • Một bàn tay
  • Một cành mai (Đạo ca 5)
  • Mẹ Việt Nam
  • Mùa thu chết (ý thơ: Apollinaire)
  • Mùa thu Paris (thơ: Cung Trầm Tưởng)
  • Mùa xuân du ca
  • Mùa xuân yêu em
  • Nắng chiều rực rỡ
  • Nếu một mai em sẽ qua đời
  • Nha Trang ngày về
  • Nhớ bạn tri âm (viết chung với Phạm Đình Chương)
  • Ngày xưa Hoàng Thị
  • Ngày đó chúng mình
  • Ngày em hai mươi tuổi
  • ''Ngày sẽ tới (Bình Ca 10)
  • ''Ngày tháng hạ
  • ''Ngày trở về
  • ''Ngày xưa
  • Ngày xưa Hoàng Thị (thơ: Phạm Thiên Thư)
  • ''Nghìn năm vẫn chưa quên
  • Nghìn thu (Rong Ca 7)
  • ''Nghìn trùng xa cách
  • ''Ngồi gần nhau
  • ''Ngọn trào quay súng
  • ''Ngụ ngôn mùa
  • ''Ngựa hồng
  • ''Người lính bên tê
  • ''Người lính trẻ
  • ''Người tình
  • ''Người tình già trên đầu non
  • ''Người về
  • ''Người Việt cao quý
  • Ngậm ngùi (thơ: Huy Cận)
  • ''Nhạc tuổi xanh
  • ''Những gì sẽ đem theo về cõi chết
  • ''Nụ tầm xuân
  • ''Nương chiều
  • ''Nước mắt mùa thu
  • ''Nước non ngàn dặm ra đi
  • ''Ông trăng xuống chơi
  • ''Phố buồn
  • ''Phượng yêu
  • ''Quán bên đường
  • ''Quán Thế Âm
  • ''Quê nghèo
  • ''Răn
  • ''Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà
  • ''Rong ca
  • ''Rong khúc
  • ''Ru con
  • Suối mơ (viết chung với Văn Cao)
  • ''Ta yêu em lầm lỡ
  • ''Tạ ơn đời
  • ''Tâm ca
  • ''Tâm sự gửi về đâu
  • ''Tháng Tư Đen
  • Thà như giọt mưa (thơ: Nguyễn Tất Nhiên)
  • ''Thiền ca
  • ''Thông điệp mùa xuân
  • ''Thu ca điệu ru đơn
  • ''Thu chiến trường
  • ''Thương ai nhớ ai
  • ''Thương tình ca
  • Thuyền viễn xứ (thơ: Huyền Chi)
  • ''Thương ca chiến trường
  • ''Thương tình ca
  • Tiễn em (thơ: Cung Trầm Tưởng)
  • ''Tiếng bước trên đường khuya
  • ''Tiếng đàn tôi
  • ''Tiếng hát to
  • ''Tiếng hát trên sông
  • ''Tiếng hát trên sông Lô
  • ''Tiếng hò miền Nam
  • Tiếng sáo Thiên Thai (thơ: Thế Lữ)
  • ''Tiếng thời xưa
  • ''Tiếng thu
  • ''Tìm nhau
  • ''Tình ca
  • Tình cầm (thơ: Hoàng Cầm)
  • ''Tình hoài hương
  • ''Tình hờ
  • Tình khúc chiến trường (thơ: Ngô Đình Vận)
  • ''Tình nghèo
  • Tình quê (thơ: Hàn Mạc Tử)
  • ''Tóc mai sợi vắn sợi dài
  • ''Tôi còn yêu tôi cứ yêu
  • Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ
  • ''Trả lại cho em
  • ''Trả lại em yêu
  • Trăm năm bến cũ (thơ: Lưu Trọng Văn)
  • Trăng già (Rong ca 8)
  • Tư mã phượng cầu (ý thơ: Nguyễn Du)
  • Trường ca Con đường cái quan (từ miền Bắc, qua miền Trung, vào miền Nam)
  • ''Trường ca Hàn Mặc Tử
  • ''Trường ca Mẹ Việt Nam
  • ''Tuổi hồng
  • ''Tuổi mộng mơ
  • ''Tuổi mơ
  • ''Tuổi ngọc
  • ''Tuổi ngu ngơ
  • ''Tuổi sợ ma
  • ''Tuổi thần tiên
  • ''Tuổi xuân
  • ''Tục ca
  • Tưởng như còn người yêu (thơ: Lê Thị Ý)
  • ''Tỳ bà
  • ''Về miền Trung
  • ''Vần thơ sầu rụng
  • ''Viễn du
  • Vết thù trên lưng ngựa hoang (viết chung với Ngọc Chánh)
  • ''Vợ chồng quê
  • ''Việt Nam, Việt Nam
  • ''Xin em giữ dùm anh
  • ''Xin tình yêu Giáng sinh
  • ''Xuân
  • ''Xuân ca
  • ''Xuân hành
  • ''Xuân hiền
  • ''Xuân thì
  • ''Xuất quân
  • ''Yêu là chết ở trong lòng

Tập nhạc đã in

  • Những điệu hát bình dân, Nhà xuất bản Đất Mới - Thanh Hóa, 1950.
  • Tình ca, tự xuất bản - Sài Gòn, 1969.
  • Một mẹ trăm con, Bộ Thông tin - Sài Gòn, 1962.
  • Trường ca Con đường cái quan, Tập san Sáng dội miền Nam - Sài Gòn, 1960 và Quảng Hóa - Sài Gòn, 1970.
  • Mười bài tâm ca, Lá Bối - Sài Gòn, 1965.
  • Ngày đó chúng mình yêu nhau - An Tiêm - Sài Gòn, 1968.
  • Gìn vàng giữ ngọc, Sài Gòn, 1971
  • Nghìn trùng xa cách, An Tiêm - Sài Gòn, 1968.
  • Hát vào đời, An Tiêm - Sài Gòn, 1969.
  • Vòng tay thế giới, Quảng Hóa - Sài Gòn, 1969.
  • Giết người trong mộng, Trí Dũng - Sài Gòn, 1970.
  • Ca khúc cho ngày mai, Quảng Hóa - Sài Gòn, 1970.
  • Cho nhau riêng nhau một đời, Khai Phóng - Sài Gòn, 1970.
  • Giọt lệ cho tình ta, Chân Mây - Sài Gòn, 1970.
  • Mười bảy tình ca bất tử, Thương Yêu - Sài Gòn, 1971.
  • Đạo ca, Văn học sử - Sài Gòn, 1971.
  • Nhi đồng ca, Cục Tâm lý chiến - Sài Gòn,1971.
  • Kỷ vật chúng ta, Gìn vàng giữ ngọc - Sài Gòn, 1971.
  • Thương ca chiến trường, Gìn vàng giữ ngọc - Sài Gòn, 1971.
  • Chiến ca mùa hè, Tiên Rồng - Sài Gòn, 1972.
  • Con đường tình ta đi, Gìn vàng giữ ngọc - Sài Gòn, 1973. Tuyển tập nhạc tiền chiến (trong đó có nhạc Phạm Duy), Kẻ Sĩ - Sài Gòn, 1968. Tuyển tập 20 năm nhạc tình (trong đó có nhạc Phạm Duy), Khai Phóng - Sài Gòn, 1970. Hoàng cầm ca, Hội văn hoá Việt Nam tại Bắc Mỹ - Hoa Kỳ, 1984. Thấm thoát mười năm, Hội văn hoá Việt Nam tại Bắc Mỹ - Hoa Kỳ, 1984 Tủ sách Cành Nam và Tạp chí Xác Định - Hoa Kỳ, 1985. Mười bài rong ca, PDC Productions, thành phố Midway, Hoa Kỳ, 1988 Mười bài tâm ca, PDC Productions, thành phố Midway, Hoa Kỳ, 1990 Bầy chim bỏ xứ cành vàng - Westminster, CA Hoa Kỳ, 1990 Một đời để yêu (30 tình khúc), Nam Á - Paris, Pháp, 1989 Vườn thơ cánh nhạc (30 bài thơ phổ nhạc), Nam Á - Paris, Pháp 1989 Tình si (30 tình khúc), Nam Á - Paris, Pháp, 1992 Tình ca quê hương (30 bài ca quê hương), Nam Á - Paris, Pháp, 1992 Lịch sử trong tim (30 bài ca kháng chiến), Nam Á - Paris, Pháp, 1992 Hát trên đường về (Đạo ca, Rong ca, Thiền ca), Nam Á - Paris, Pháp, 1992 Niềm vui còn đó (Bé ca, Nữ ca, Bình ca), Hồng Lĩnh - Westminster, CA, Hoa Kỳ, 1994 Tạ ơn đời, Hồng Lĩnh - Westminster, CA, Hoa Kỳ 1994 (Có thêm ngoại ngữ) Trường ca Mẹ Việt Nam (Việt-Anh-Pháp), Phủ Đặc ủy Chiêu hồi - Sài Gòn, 1960 và Lá Bối, 1967 Trường ca Mẹ Việt Nam (Việt-Pháp), Nam Á, Paris, Pháp, 1985 Dân ca - Folk Songs (Việt-Anh), USIS - Sài Gòn, 1968. Hoan ca (Việt-Anh) - Du Ca - Sài Gòn, 1973. Hát trên đường tị nạn (Việt-Anh) - Đông Phương - Santa Ana, CA, Hoa Kỳ, 1979. Mười bài ngục ca (Việt-Anh) - Nguyễn Hữu Hiệu - Arlington, VA, Hoa Kỳ, 1980. Hai mươi bài ngục ca (Việt-Anh) Hội Văn hóa Bắc Mỹ - Arlington, VA, Hoa Kỳ, 1980. Ngục ca (Việt-Anh-Pháp), Quê Mẹ - Paris, 1982. PDC Productions - thành phố Midway, CA, Hoa Kỳ, 1989 Dân ca - Folk song - Chant populaire (Việt, Anh, Pháp), PDC Musical Productions - thành phố Midway, California, Hoa Kỳ, 1980. Trường ca Con đường cái quan (Anh-Việt), PDC Musical Productions, thành phố Midway, CA, Hoa Kỳ, 1980

Sách giáo khoa, sử liệu

Lược khảo về dân nhạc Việt Nam. Sài Gòn: Hiện đại, 1970. Xuân Thu tái bản, Hoa Kỳ, 1991. Music of Viet Nam. Carbondale, IL, Hoa Kỳ: S.I.U, 1975. Tự học guitare (3 tập). Midway City, CA, Hoa Kỳ: Phạm Duy Enterprises, 1976. Hồi ký (3 tập). Midway City, CA, Hoa Kỳ: PDC Productions, 1989, 1990, 1991. Ngàn lời ca. Midway City, CA, Hoa Kỳ: PDC Productions, 1987, 88. Đường về dân ca. Los Alamitos, CA, Hoa Kỳ: Xuân Thu, 1990. "Nửa thế kỷ tân nhạc" (bài báo), Nguyệt san Văn Học, Hoa Kỳ. "Những năm đầu của tân nhạc" (bài báo), Tập san Hợp Lưu - CA, Hoa Kỳ, 1994. *Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đầu - PNC, Việt Nam,

👁️ 6 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
Đây là danh sách các sáng tác của nhạc sĩ **Phạm Duy** được lấy từ trang web chính thức của nhạc sĩ. Các bài hát được xếp theo thứ tự thời gian do chính Phạm
"**Tình ca**" là một bài hát, được nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác năm 1952. Bài hát mang đậm nét dân ca Bắc Bộ này rất nổi tiếng ở Việt Nam, trình diễn lần đầu
Phạm Duy Khiêm năm 1943 **Phạm Duy Khiêm** (1908–1974) là nhà giáo, nhà văn, cựu đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp và tại UNESCO. Ông là con trai nhà văn Phạm Duy Tốn
**Phạm Duy Hải** là kiểm sát viên cao cấp người Việt Nam. Ông hiện là Quyền Chánh Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam. ## Tiểu sử Chiều ngày 21 tháng
**Phạm Duy Lam** (sinh năm 1967) là thẩm phán cao cấp người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. ## Tiểu sử Ngày 1 tháng 6
**Duy Quang** (4 tháng 11 năm 1950 – 19 tháng 12 năm 2012) tên thật **Phạm Duy Quang** là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam. Ông được coi là một trong
**Phạm Duy Nghĩa** (sinh năm 1973) là nhà văn người Việt Nam. Ông là tiến sĩ văn học và hiện là Phó Tổng biên tập của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Phạm Duy Nghĩa
**Phạm Duy Tất** (sinh 1934-2019), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh, sau chuyển sang Binh chủng Lực lượng Đặc biệt của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân
Phạm Duy Và Tôi Theo tôi, dù ở đâu, phương trời nào trên trái đất này, Phạm Duy cũng không thoát khỏi con người Việt, không thể tách rời khỏi hồn Việt. Đó là định
**Phạm Đăng Quyết** (1521 - ?), tên lúc nhỏ là **Phạm Duy Quyết** (chữ Hán: 范維玦), người làng Xác Khê, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, Hải Dương. Ông còn có tên khác là Phạm
**Phạm Duy Cường** (9 tháng 12 năm 1958 – 18 tháng 8 năm 2016) là một chính khách người Việt Nam. Ông nguyên là Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái, tái đắc cử chức Bí
**Phạm Duy Tân** (1933–2021) là một sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Đại tá, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 308, phó Tư lệnh Quân đoàn 1, thường vụ Đảng ủy,
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Phạm Duy Thuận**, thường được biết đến với nghệ danh **Jun Phạm** (sinh ngày 24 tháng 7 năm 1989), là một nam ca sĩ, diễn viên, người dẫn chương trình truyền hình kiêm nhà văn
**Duy Tân** (chữ Hán: 維新 19 tháng 9 năm 1900 – 26 tháng 12 năm 1945), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc Vĩnh San** (阮福永珊), là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn, ở
**Phạm Thu Hà**, tên đầy đủ là **Phạm Thị Thu Hà** (sinh 09 tháng 10 năm 1982 tại Hải Phòng), là ca sĩ và nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Cô thường được
**Phạm Quỳnh** (chữ Hán: 范瓊; 17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là
**Phạm Xuân Thăng** (sinh năm 1966) là nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, Trưởng Ban
**Phạm Thị Quang Thái** (năm 1927 – 14 tháng 8 năm 1999) thường được biết đến với nghệ danh **Thái Hằng**, bà là một ca sĩ người Việt Nam. Thái Hằng sinh tại Hà Nội
**Duy Trác** (sinh năm 1932) tên thật **Khuất Duy Trác**, là một ca sĩ nổi tiếng, thành danh ở Sài Gòn từ những năm trước 1975. Duy Trác được xem là một trong những giọng
**Thái Thanh** (5 tháng 8 năm 1934 – 17 tháng 3 năm 2020), tên khai sinh **Phạm Thị Băng Thanh**, là một nữ ca sĩ người Việt Nam, được xem như một trong những giọng
Bìa CD hợp tuyển 2 trường ca: [[Con đường cái quan (trường ca)|_Con đường cái quan_ và _Mẹ Việt Nam_, thu âm năm 1965, chỉnh sửa và tái phát hành năm 1993.|thế=]] **Mẹ Việt Nam**
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
**Trần Huỳnh Duy Thức** là một kỹ sư, doanh nhân và nhà bất đồng chính kiến người Việt Nam. Ông là cựu tổng giám đốc của Công ty Dịch vụ điện thoại Internet OCI, một
**Phạm Liệu** (范燎, 1873-1937), tự là **Sư Giám**, hiệu là **Tang Phố** (桑圃), là một danh sĩ Việt Nam. Ông được xem là người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải
**Vụ sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á**, hay còn gọi ngắn gọn là **vụ Việt Á** hoặc **đại án Việt Á,** là một vụ án hình sự điển hình về
"**Kỷ vật cho em**" là tên một bài hát được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ "Để trả lời một câu hỏi" của thi sĩ Linh Phương. Bài hát ra đời vào
nhỏ|phải|277x277px|Đại học Duy Tân cơ sở 254 Nguyễn Văn Linh, Đà Nẵng **Đại học Duy Tân** (tiếng Anh: **Duy Tan University**) tiền thân là Trường Đại học Duy Tân, thành lập năm 1994. Đây là
nhỏ|Sư phạm phê phán **Sư phạm phê phán** là một phương pháp giảng dạy nhằm giúp người học đặt câu hỏi đối với và thách thức lại sự thống trị, và những niềm tin và
**Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi** (14 tháng 5 năm 190921 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn
**Rany Angot** (sinh ngày 18 tháng 1 năm 1951) là một ca sĩ nhạc trẻ ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và sau này ở hải ngoại; thường được biết đến với nghệ
**Phạm Thị Huệ** (sinh năm 1996) là một nữ vận động viên điền kinh người Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Thị Huệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại thôn Tân Lương xã
**Phạm Băng Băng** (tiếng Trung: 范冰冰, tiếng Anh: _Fan Bingbing_; sinh ngày 16 tháng 9 năm 1981) là một nữ diễn viên người Trung Quốc. Là chủ nhân của một số giải thưởng lớn, cô
**_"Bến xuân"_** là tên một ca khúc hợp soạn của nhạc sĩ Văn Cao và nhạc sĩ Phạm Duy vào năm 1942. ## Hoàn cảnh ra đời Ca khúc này được sáng tác vào năm
**Phạm Hoàng Hộ** là giáo sư Thực vật học của Việt Nam, Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ, ông nổi tiếng với bộ sách ba quyển "_Cây cỏ Việt Nam_" (An illustrated
**Tuấn Ngọc** (sinh năm 1947) tên thật là **Lã Anh Tuấn**, là một ca sĩ người Việt Nam. Tuấn Ngọc nhận được sự đánh giá cao của giới chuyên môn và được coi là "tượng
**Tư duy** là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần, đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt động vật
Ph.Ăng-ghen, người đã kiến giải các nguyên lý của phép biện chứng duy vật **Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật** là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò cốt lõi
**Phạm Hải Yến** (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá nữ Việt Nam đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Hà Nội I và
**Phạm Thiên Thư**, tên khai sinh là **Phạm Kim Long** (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1940), là một nhà thơ Việt Nam. Ông từng đi tu và rồi hoàn tục, nên có kiến thức
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
**Con đường cái quan** là một bản trường ca nổi tiếng, do nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác từ năm 1954 đến 1960. Tại Việt Nam, từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975,
"**Bên cầu biên giới**" là một bài hát được nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác năm 1947, là một trong những bài hát nổi tiếng nhất của ông. Đây là bài hát gây tranh cãi
**Phạm Trần Thanh Duy**, thường được biết đến với nghệ danh **Thanh Duy** hay **Delilah** (sinh ngày 30 tháng 11 năm 1986), là một nam ca sĩ người Việt Nam. Anh nổi tiếng khi trở
"**Bà mẹ Gio Linh**" là tên một bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy được sáng tác năm 1948. Đây được coi là ca khúc đầu tiên nói về bà mẹ liệt sĩ trong cuộc
**Chủ nghĩa duy vật**, còn gọi là **thuyết duy vật ** hay **duy vật luận** (), là một trường phái triết học, một thế giới quan, một hình thức của chủ nghĩa triết học nhất
**Nguyễn Duy Ngọc** (sinh năm 1964) là một chính trị gia, tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam hàm Thượng tướng. Ông hiện là Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII, Bí thư Trung
**Phạm Hữu Nghi** (; 1797 – 1862) tự **Trọng Vũ** (), hiệu **Đạm Trai** (), là một quan viên dưới triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng làm quan qua 3 triều