Phạm Duy Tất (sinh 1934-2019), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh, sau chuyển sang Binh chủng Lực lượng Đặc biệt của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa học ở giai đoạn đầu tiên ở trường Sĩ quan Trừ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra tại miền Nam Việt Nam. Năm 1970, khi Binh chủng Lực lượng Đặc biệt giải tán, ông chuyển sang Binh chủng Biệt động quân.
Tiểu sử & Binh nghiệp
Ông sinh vào tháng 8 năm 1934, trong một gia đình nho học tại Quảng Bình, miền Trung Việt Nam. Thời niên thiếu ông học ở trường Trung học Đồng Hới, Quảng Bình và trường Quốc học Huế, Thừa Thiên. Năm 1952, ông tốt nghiệp Trung học Phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Tháng 3 năm 1954, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 54/200.297. Theo học khóa 4 phụ Cương Quyết tại Thủ Đức tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, khai giảng ngày 16 tháng 3 năm 1954. Ngày 1 tháng 10 năm 1954 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông được điều đi phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 21 với chức vụ Trung đội trưởng, rồi Đại đội trưởng.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Tháng 11 năm 1955, khi Quân đội Quốc gia được Chính thể Đệ nhất Cộng hòa đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được cử theo học khóa Dẫn đạo Chỉ huy tại Trung tâm Huấn luyện số 1. Qua năm 1956, cũng tại Trung tâm này ông được theo học tiếp khóa Huấn luyện viên. Mãn khóa, ông được giữ lại Trung tâm làm Huấn luyện viên.
Cuối năm 1957, ông được chuyển sang Lực lượng Đặc biệt, được cử làm Huấn luyện viên thuộc Liên đội Quan sát số 1 (thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1957) do Đại úy Bùi Thế Minh làm Chỉ huy trưởng, đồn trú tại Trường Hạ sĩ quan Quân đội Việt Nam Cộng hòa (vị trí tại Đồng Đế (cạnh thôn Ba Làng), Nha Trang). Đầu năm 1958, ông được thăng cấp Trung úy.
Đầu năm 1961, ông được theo học khóa Chiến tranh Chính trị tại Sài Gòn. Mãn khóa, ông được cử giữ chức vụ Chỉ huy phó Liên đoàn 77 (tiền thân là Liên đội Quan sát số 1) do Thiếu tá Phạm Văn Phú làm Liên đoàn trưởng.
Đầu tháng 2 năm 1963, ông được thăng cấp Đại úy, giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Liên đoàn 31 tân lập. Ngày 25 tháng 2, Liên đoàn 31 được lệnh di chuyển từ Sài Gòn ra đồn trú tại Cam Ranh trong doanh trại của đơn vị Bộ binh Hải quân (Thủy quân Lục chiến). Hạ tuần tháng 7 năm 1964, Liên đoàn 31 được đổi tên thành Liên đoàn 111.
Tháng 2 năm 1965, ông được lệnh bàn giao Liên đoàn 111 lại cho Thiếu tá Lâm Quang Phòng Sau đó, ông được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 91 Biệt cách Dù thay thế Thiếu tá Trần Minh Huy.. Ngày 24 tháng 7 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu tá và được giao nhiệm vụ thành lập Trung tâm Huấn luyện Lực lượng Đặc biệt tại Đồng Bà Thìn thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Đầu năm 1966, ông được giao nhiệm vụ thành lập và làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Hành quân Delta (tiền thân của Liên đoàn 81 Biệt cách Dù). Giữa năm 1968, ông được thăng cấp Trung tá, nhận lệnh bàn giao Trung tâm Huấn luyện Delta lại cho Trung tá Phan Văn Huấn để đi nhận chức Chỉ huy trưởng Lực lượng Đặc biệt Vùng 3 chiến thuật (Thời điểm này Tư lệnh Vùng 3 Chiến thuật là Trung tướng Lê Nguyên Khang (6/1966-8/1968), rồi đến Trung tướng Đỗ Cao Trí (8/1968-2/1971)).
Giữa năm 1969, ông thuyên chuyển về miền tây Nam phần hoán đổi chức vụ Chỉ huy trưởng Lực lượng Đặc biệt Vùng 4 Chiến thuật với Trung tá Nguyễn Thành Chuẩn, trải qua 2 vị Tư lệnh Quân khu là Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh (7/1968-5/1970) và Thiếu tướng Ngô Dzu (5/1970-8/1970). Đầu năm 1970, ông được thăng cấp Đại tá. Tháng 8 cùng năm Binh chủng Lực lượng Đặc biệt được lệnh giải tán, các trại Lưc lượng Đặc biệt được cải tuyển thành các Tiểu đoàn Biệt động quân Biên phòng, ông trở thành Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 4, dưới quyền điều động trực tiếp của Tư lệnh Quân khu là Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng rồi đến Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.
Tháng 5 năm 1972, nhận lệnh bàn giao Bộ chỉ huy Biệt động quân Quân khu 4 cho cấp phó là Đại tá Nguyễn Văn Hòa, sau đó thuyên chuyển lên Cao nguyên Trung phần thay thế Đại tá Nguyễn Văn Đương giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2. Bộ chỉ huy được đặt cạnh Bộ tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu 2, trải qua 2 vị Tư lệnh Quân khu là Trung tướng Nguyễn Văn Toàn và Thiếu tướng Phạm Văn Phú.
*Bộ chỉ huy Biệt động quân Quân khu 2 vào tháng 3/1975, nhân sự trong Bộ chỉ huy và Chỉ huy các đơn vị trực thuộc được phân bổ trách nhiệm như sau:
-Chỉ huy trưởng -Chuẩn tướng Phạm Duy Tất
-Tham mưu trưởng -Trung tá Lê Chữ
-Liên đoàn trưởng Liên đoàn 21/BP -Trung tá Lê Quý Dậu
-Liên đoàn trưởng Liên đoàn 22/BP -Trung tá Bùi Văn Huấn
-Chỉ huy Liên đoàn 23/TƯ -Trung tá Lê Tất Biên
-Liên đoàn trưởng Liên đoàn 24/BP -Trung tá Hoàng Kim Thanh
-Liên đoàn trưởng Liên đoàn 25/BP -Đại tá Đặng Hưng Long
1975 và những năm tháng lưu vong
Đầu năm, kiêm chức vụ Tư lệnh Chiến trường Kontum-Pleiku. Ngày 14 tháng 3, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Hai ngày sau (16 tháng 3), phụ tá cho Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn Phạm Văn Phú với nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị trực thuộc triệt thoái khỏi Cao nguyên trên tỉnh lộ 7, được đặt dưới quyền giám sát của Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm (đương chức Phụ tá hành quân Quân đoàn II).
Sau ngày 30 tháng 4, Chính quyền Cách mạng giải phóng miền Nam và Việt Nam Cộng hoà sụp đổ, ông ra trình diện và bị chính quyền mới đưa đi tù cải tạo từ Nam ra Bắc cho tới ngày 11 tháng 2 năm 1992 mới được trả tự do.
Cũng trong năm 1992, ông cùng với phu nhân và 2 người con xuất cảnh theo diện H.O tị nạn chính trị do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh đi định cư tại Annandale, Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ.
Ngày 11/12/2019, ông từ trần tại nơi định cư, hưởng thọ 85 tuổi.
Gia đình
Bào huynh: Phạm Vỵ.
Phu nhân: Phan Thị Bạch Yến
*Các con: Phạm Duy Thúy Hồng, Phạm Duy Việt, Phạm Duy Vân Hồng, Phạm Duy Diên Hồng và Phạm Duy Vũ
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Duy Tất** (sinh 1934-2019), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh, sau chuyển sang Binh chủng Lực lượng Đặc biệt của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
Đây là danh sách các sáng tác của nhạc sĩ **Phạm Duy** được lấy từ trang web chính thức của nhạc sĩ. Các bài hát được xếp theo thứ tự thời gian do chính Phạm
Phạm Duy Khiêm năm 1943 **Phạm Duy Khiêm** (1908–1974) là nhà giáo, nhà văn, cựu đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp và tại UNESCO. Ông là con trai nhà văn Phạm Duy Tốn
**Duy Quang** (4 tháng 11 năm 1950 – 19 tháng 12 năm 2012) tên thật **Phạm Duy Quang** là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam. Ông được coi là một trong
Ăngghen đã phát biểu về sự xuất hiện của các nhân vật lịch sử thông qua phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, đây cũng là một trong những nét đặc sắc trong phương pháp
**Phạm Duy Thuận**, thường được biết đến với nghệ danh **Jun Phạm** (sinh ngày 24 tháng 7 năm 1989), là một nam ca sĩ, diễn viên, người dẫn chương trình truyền hình kiêm nhà văn
**Duy Tân** (chữ Hán: 維新 19 tháng 9 năm 1900 – 26 tháng 12 năm 1945), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc Vĩnh San** (阮福永珊), là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn, ở
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Phạm Văn Phú ** (1928 – 1975) nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân
**Phạm Trọng Cầu** (1935-1998) là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng, tác giả ca khúc _Mùa thu không trở lại_ và bài hát thiếu nhi _Cho con_. Ông còn có bút danh **Phạm Trọng**,
**Vụ sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á**, hay còn gọi ngắn gọn là **vụ Việt Á** hoặc **đại án Việt Á,** là một vụ án hình sự điển hình về
**Nguyễn Tất Nhiên** (1952 - 1992), tên thật là **Nguyễn Hoàng Hải**, là một nhà thơ Việt Nam. Kể từ năm 1980, anh sang định cư ở nước ngoài và qua đời tại California, Hoa
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
**Phạm Thị Quang Thái** (năm 1927 – 14 tháng 8 năm 1999) thường được biết đến với nghệ danh **Thái Hằng**, bà là một ca sĩ người Việt Nam. Thái Hằng sinh tại Hà Nội
**Chủ nghĩa duy vật**, còn gọi là **thuyết duy vật ** hay **duy vật luận** (), là một trường phái triết học, một thế giới quan, một hình thức của chủ nghĩa triết học nhất
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
Ph.Ăng-ghen, người đã kiến giải các nguyên lý của phép biện chứng duy vật **Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật** là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò cốt lõi
nhỏ|Sư phạm phê phán **Sư phạm phê phán** là một phương pháp giảng dạy nhằm giúp người học đặt câu hỏi đối với và thách thức lại sự thống trị, và những niềm tin và
**Phạm Thị Huệ** (sinh năm 1996) là một nữ vận động viên điền kinh người Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Thị Huệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại thôn Tân Lương xã
Bìa CD hợp tuyển 2 trường ca: [[Con đường cái quan (trường ca)|_Con đường cái quan_ và _Mẹ Việt Nam_, thu âm năm 1965, chỉnh sửa và tái phát hành năm 1993.|thế=]] **Mẹ Việt Nam**
**Phạm Hữu Nghi** (; 1797 – 1862) tự **Trọng Vũ** (), hiệu **Đạm Trai** (), là một quan viên dưới triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng làm quan qua 3 triều
**Louis (hay Aloisio hoặc Luy) Phạm Văn Nẫm** (1919–2001) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục phụ tá của Tổng giáo phận Thành phố Hồ
nhỏ|phải|277x277px|Đại học Duy Tân cơ sở 254 Nguyễn Văn Linh, Đà Nẵng **Đại học Duy Tân** (tiếng Anh: **Duy Tan University**) tiền thân là Trường Đại học Duy Tân, thành lập năm 1994. Đây là
**Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi** (14 tháng 5 năm 190921 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn
**Rany Angot** (sinh ngày 18 tháng 1 năm 1951) là một ca sĩ nhạc trẻ ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và sau này ở hải ngoại; thường được biết đến với nghệ
**Phạm Hoàng Hộ** là giáo sư Thực vật học của Việt Nam, Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ, ông nổi tiếng với bộ sách ba quyển "_Cây cỏ Việt Nam_" (An illustrated
**Phạm Thiên Thư**, tên khai sinh là **Phạm Kim Long** (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1940), là một nhà thơ Việt Nam. Ông từng đi tu và rồi hoàn tục, nên có kiến thức
**Con đường cái quan** là một bản trường ca nổi tiếng, do nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác từ năm 1954 đến 1960. Tại Việt Nam, từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975,
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương** (Tiếng Trung Quốc: **新疆维吾尔自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Xīn Jiāng Wéiwú'ěr Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Tân Cương Duy Ngô Nhĩ tự
"**Bà mẹ Gio Linh**" là tên một bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy được sáng tác năm 1948. Đây được coi là ca khúc đầu tiên nói về bà mẹ liệt sĩ trong cuộc
**Phạm Văn Khoa** (15 tháng 3 năm 1913 – 24 tháng 10 năm 1992) là một đạo diễn điện ảnh người Việt Nam, được xem là một đạo diễn lão thành của nền điện ảnh
**Duy tân Hội** (chữ Hán: 維新會, tên gọi khác: **Ám xã**) là một tổ chức kháng Pháp do Phan Bội Châu, Nguyễn Tiểu La và một số đồng chí khác thành lập năm 1904 tại
**Giuse Phạm Văn Thiên** (1907–1997) là một giám mục của Giáo hội Công giáo người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Phú Cường, đồng thời giữ chức vụ này từ
**_"Quê nghèo"_** là một bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy. Những hình ảnh làm nên một vùng quê nghèo trong bài này được tác giả lấy từ vùng Quảng Bình. ## Xuất
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ THƯƠNG MẠI THU NGÂNĐịa chỉ kho hàng : Số 8, tổ 10, Phường Phú La, Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội✌ Chúng tôi tin vào sản phẩm của
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ THƯƠNG MẠI THU NGÂNĐịa chỉ kho hàng : Số 8, tổ 10, Phường Phú La, Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội✌ Chúng tôi tin vào sản phẩm của
**Phạm Xuân Ẩn** (12 tháng 9 năm 1927 – 20 tháng 9 năm 2006), tên khai sinh là Phạm Văn Thành, là một thiếu tướng tình báo người Việt Nam, có các biệt danh là
**Phạm Lãi** (chữ Hán: 范蠡) (525 TCN - 455 TCN), biểu tự **Thiếu Bá** (少伯), còn gọi là **Phạm Bá** (范伯), **Si Di Tử Bì** (鸱夷子皮) hay **Đào Chu Công** (陶朱公), là một danh thần
**Phạm Kỳ Nam** (27 tháng 6 năm 1928 – 3 tháng 3 năm 1984) là đạo diễn phim truyện và phim tài liệu được xem là một trong những cánh chim đầu đàn của nền
**Phạm Mạnh Cương** (sinh ngày 30 tháng 7 năm 1933) là một nhạc sĩ Việt Nam, tác giả của những nhạc phẩm _Thương hoài ngàn năm_, _Thu ca_, _Loài hoa không vỡ_. Ngoài ra ông
**Phạm Đăng Lâm** (12 tháng 6 năm 1918 – 2 tháng 6 năm 1975) là nhà ngoại giao người Việt Nam, cựu Ngoại trưởng dưới thời Thủ tướng Nguyễn Khánh và Trần Văn Hương. Về
Tiếng Việt tại Việt Nam hiện sử dụng chữ Quốc ngữ (chữ Latinh) là chủ yếu, áp dụng cách viết tắt không nhất định theo một thể duy nhất. Do các chữ Latinh không có
**Phạm Văn Nhân** (1745 – 1815) là một võ quan đại thần vào cuối thời chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong và đầu triều Nguyễn. Ông đã theo chúa Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau
**_Đây thôn Vĩ Dạ_** là bài thơ do thi sĩ Hàn Mặc Tử sáng tác vào khoảng năm 1938, in lần đầu trong tập _Thơ Điên_ (về sau đổi tên thành _Đau thương_). Hiện nay,
**Phạm Huy Thông** (1916–1988) là nhà thơ, nhà giáo, và nhà khoa học xã hội Việt Nam. ## Tiểu sử **Phạm Huy Thông** sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội trong một
thumb|Biểu tượng thường dùng cho người khuyết tật **Người khuyết tật** là người **khiếm khuyết** về mà vì thế gây ra **suy giảm đáng kể** và **lâu dài** đến khả năng thực hiện các hoạt
**Phạm Ngọc Lan** (1934–2019) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Tuy nhiên, ông thường được nhiều người biết đến với tư cách là phi công Việt Nam đầu
**Phạm Phú Quốc** (1935-1965), là một sĩ quan cao cấp trong Quân chủng Không quân thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại Trường đào tạo Hoa