✨Phạm Duy Tốn

Phạm Duy Tốn

Phạm Duy Tốn (chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành một nhà văn, nhà báo, ông từng là thông ngôn ở tòa Thống sứ Bắc Kỳ. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối Tây phương của văn học Việt Nam. Ngoài tên thật Phạm Duy Tốn, ông còn viết với các bút danh Ưu Thời Mẫn, Đông Phương Sóc, Thọ An. Một trong những người con của Phạm Duy Tốn là nhạc sĩ Phạm Duy (tên thật là Phạm Duy Cẩn).

Tiểu sử

Xuất thân và quê quán

Phạm Duy Tốn sinh tại nhà số 54 đường Felloneau (nay là phố Hàng Dầu), Hà Nội. Nguyên quán của ông ở làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là Phú Xuyên, thành phố Hà Nội). Cha Phạm Duy Tốn là ông Phạm Duy Đạt và mẹ là bà Nguyễn Thị Huệ (- 1926). Ông Đạt chỉ có hai người con, do đó ông Tốn còn có một người em gái sau này là vợ của Án sát Bắc Ninh.

Trong bài Nói chuyện với Phạm Duy về Phạm Duy Tốn (báo Văn số 169), nhà văn, nhà báo Vũ Bằng dẫn lời Phạm Duy cho biết ông Phạm Duy Đạt là một ông Chánh tổng, còn bà Nguyễn Thị Huệ là "một người ả đầu cũ kỹ nổi tiếng hát hay một thời". Sau khi lấy nhau, bà Huệ bỏ nghề hát về bán dầu. Cũng theo lời Phạm Duy, nhờ nghề buôn bán của gia đình ông nội nên "chắc bố tôi cũng được lớn lên trong một hoàn cảnh dễ chịu, không bị thôi thúc vì đồng tiền" (Phạm Duy, Viết về bố, báo Văn số 169).

Thuở nhỏ Phạm Duy Tốn học chữ Nho. Sau ông cùng với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim học trường Thông ngôn Hà Nội (Quai de Commerce) ở Yên Phụ và tốt nghiệp năm 1901. Sau khi tốt nghiệp, Phạm Duy Tốn được bổ làm thông ngôn ngạch tòa sứ Ninh Bình rồi sang Thị Cầu (tòa sứ Bắc Ninh). Lúc ấy ông nổi tiếng là một thông ngôn có bản sắc riêng. Tuy nhiên, ông nhanh chóng bỏ công việc đúng theo sở học của mình mà không rõ lý do.

Mặc dù có tài liệu nói ông bỏ việc vì chống đối người Pháp, nhưng theo lời Phạm Duy, có thể lý do là ở máu phiêu lưu và sự hiếu động của ông. Phạm Duy viết trong bài Viết về bố: :"Theo lời mẹ tôi nói trong lúc răn dạy tôi khi còn bé thì bố tôi là một người rất đam mê, nhưng chóng chán. Làm đủ mọi việc nhưng không bao giờ làm hết một việc. Tính tình đó đã cắt nghĩa được sự hành nghề lung tung của bố tôi trong một quãng đời ngắn ngủi".

Làm đủ nghề để kiếm sống

Sau khi bỏ việc thông ngôn, Phạm Duy Tốn đi dạy học ở trường Trí Tri, phố Hàng Quạt, Hà Nội. Là một trong số những người Việt Nam đầu tiên húi tóc ngắn và mặc trang phục châu Âu, Phạm Duy Tốn cùng Nguyễn Văn Vĩnh là hai trong số những người sáng lập phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội năm 1907.

Tiểu luận Phạm Duy Tốn, Journalist, Short Story Writer, Collector of Humorous Stories (Phạm Duy Tốn, nhà báo, tác giả truyện ngắn, nhà sưu tập truyện cười) của Giáo sư John C. Schafer, Đại học Humboldt State, cho biết thêm Phạm Duy Tốn cùng Nguyễn Văn Vĩnh là hai người đã đệ đơn lên chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương xin thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Tuy nhiên, trường này bị nhà chức trách đóng cửa vào năm 1908 vì là nơi tập hợp các trí thức yêu nước, có khuynh hướng độc lập dân tộc và chống lại thực dân Pháp.

Sau khi thôi dạy học, ông làm đủ các nghề khác nhau. Đầu tiên là mở một tiệm cao lầu ở phố Cầu Gỗ, Hà Nội. Theo Phạm Duy, nghề mở tiệm ăn lúc đó nằm trong tay Hoa kiều, tiệm cao lầu của ông Phạm Duy Tốn là tiệm đầu tiên của người Việt Nam. Tuy nhiên, tiệm không cạnh tranh được và phải đóng cửa. Ông lại vay tiền để mở một tiệm vàng tên là Nam Bảo. Chính vì việc vay mượn này mà sau khi Phạm Duy Tốn mất, vợ ông, bà Nguyễn Thị Hòa, đã phải làm lụng suốt đời để trả món nợ cũ của chồng. Tiệm vàng thất bại, Phạm Duy Tốn lại cùng một số bạn bè đi tìm mỏ ở Quảng Yên, nhưng theo lời Phạm Duy, "việc tìm mỏ chắc không đem lại cho bố tôi những thích thú về tiền bạc hay tinh thần".

Sau khi thất bại liên tục trên đường tìm sinh kế, Phạm Duy Tốn được một người bạn Pháp giúp đỡ bằng cách giới thiệu vào làm việc cho chi nhánh của Ngân hàng Đông Dương (Banque d'Indochine) ở Mông Tự, Trung Quốc. Ông ở Trung Quốc không lâu, lại bỏ việc trở về và quyết định theo đuổi nghề mà xưa nay ông vẫn cho là nghề phụ: viết văn, làm báo.

Viết văn, làm báo

Giáo sư Schafer trong tiểu luận đã dẫn bình luận với nghề báo và viết lách, Phạm Duy Tốn "đã tìm thấy tiếng gọi của ông" và ông theo đuổi các hoạt động này đến khi qua đời. Theo giáo sư dẫn một bài trong báo Văn năm 1971 có tựa là Tưởng niệm Phạm Duy Tốn cho biết Phạm Duy Tốn đã viết cho tất cả 11 tờ báo khác nhau.

Hầu hết các tờ báo đó, như Đông Dương tạp chí hay Nam phong có trụ sở tại Hà Nội, nhưng ông cũng có vào Nam Kì để viết giúp các tờ báo của miền nam như Lục tỉnh tân văn hay Nông cổ mín đàm. Giáo sư Schafer viết khó xác định chính xác Phạm Duy Tốn đóng vai trò cụ thể gì trong nhiều tờ báo khác nhau, nhưng những tài liệu từ báo Văn cho thấy Phạm Duy Tốn đã làm biên tập và trợ lý biên tập cho một số tờ báo, ông cũng viết xã luận và truyện ngắn. Ông còn làm thư ký tòa soạn cho tờ Học báo trước khi nghỉ hưu vì sức khỏe.

Hoạt động chính trị

Phạm Duy Tốn còn là một chính trị gia. Năm 1919, ông được bầu vào Hội đồng dân biểu thành phố Hà Nội. Từ năm 1920 đến 1923, ông là nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ, đại biểu của khu vực ba, Hà Nội. Năm 1922, ông cùng một số trí thức và quan chức của chính quyền thuộc địa như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Vũ Huy Quang tham dự Hội chợ triển lãm quốc tế (tức Đấu xảo) ở Marseille, Pháp.

Thời gian này sức khỏe ông đã kém đi nhiều và theo Phạm Duy, chuyến đi khiến ông càng yếu hơn. Phạm Duy Tốn bắt đầu hút thuốc phiện khi biết ông mắc bệnh lao và sẽ không còn sống được bao lâu. Lúc những bạn bè ở tờ Thực nghiệp dân báo đến thăm ông bên giường bệnh, Phạm Duy Tốn nói: "Người ta chỉ chết một lần. Tôi đã biết mình sẽ chết vài năm trước. Bệnh này không chữa được. Với tôi chết thì chẳng đáng hy vọng gì, nhưng cũng chẳng đáng sợ gì".

Ông qua đời ngày 25 tháng 2 năm 1924 tại nhà riêng ở số 54, đường Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Gia đình và đời tư

Gia đình

Vợ Phạm Duy Tốn, bà Nguyễn Thị Hòa, theo lời Phạm Duy, là con gái một ông đồ ở phố Hàng Gai. Chị gái của bà Nguyễn Thị Hòa - bà Nguyễn Thị Nghi - là mẹ đẻ ông Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian nổi tiếng. Bà Nguyễn Thị Hòa và ông Phạm Duy Tốn có với nhau năm người con, ba trai, hai gái:

  • Phạm Duy Khiêm (1908 - 1974), nhà giáo, nhà văn, chính trị gia, từng giữ chức Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, được trao giải Văn chương Đông Dương (Prix Littéraire D'Indochine) lần đầu tiên và giải thưởng Louis Barthou của Viện hàn lâm Pháp
  • Phạm Thị Thuận
  • Phạm Thị Chinh
  • Phạm Duy Nhượng (1919 - 1967), nhà giáo, nhạc sĩ
  • Phạm Duy Cẩn (1921 - 2013), tức nhạc sĩ Phạm Duy

Sự nghiệp

Nhà báo sắc sảo

Một cây bút xuất sắc

Hồi ký của Phạm Duy cho biết, năm 1913, giai đoạn Phạm Duy Tốn còn làm việc cho Ngân hàng Đông Dương ở Mông Tự, Trung Quốc, ông có viết bài gửi về cho tờ Đông Dương tạp chí. Có thể ước đoán Phạm Duy Tốn bắt đầu viết báo từ trước đó không lâu. Các tài liệu khác nhau cho thấy Phạm Duy Tốn từng viết cho các tờ Đông Dương tạp chí (bút hiệu Ưu Thời Mẫn), Trung Bắc tân văn, Công thị báo, Nam phong, Lục tỉnh tân văn, Nông cổ mín đàm, (bút hiệu Đông Phương Sóc), Thực nghiệp dân báo, Đăng cổ tùng báo, Đông Pháp thời báo...

Schafer, trong tiểu luận đã dẫn, nói tìm hiểu các thành tựu làm báo của Phạm Duy Tốn là một việc khó khăn vì khó tập hợp được hết các tài liệu tất cả những tờ báo mà ông đã viết. May mắn là tại đại học Cornell còn lưu giữ một số bản tờ tuần báo Lục tỉnh tân văn mà Phạm Duy Tốn làm biên tập và viết bài vào giai đoạn 1915. Báo Lục tỉnh tân văn do một người Pháp là ông François Henri Schneider làm chủ nhiệm và nhận kinh phí từ chính quyền thuộc địa Đông Dương. Các bài báo Phạm Duy Tốn viết cho tờ này, theo Schafer, hầu hết thuộc loại xã luận với nhiều đề tài khác nhau: quan hệ Pháp - Việt, giải thích tại sao Hoa kiều lại thành công hơn người Việt Nam trong việc kinh doanh, chỉ trích những người Ấn Độ cho vay nặng lãi ở Nam Kì...

Bài báo thành công nhất của ông có lẽ là bài Hoạn nạn tương cứu viết về trận lũ lụt ở Bắc Kì vào các tháng 7 và 8 năm 1915 làm 60.000 người thiệt mạng vì chết đuối hoặc bệnh dịch sau đó. Bài báo mô tả hậu quả của trận lũ và gây xúc động mạnh trong dân chúng ở Nam Kì dẫn đến việc thành lập một hội từ thiện gây quỹ gửi cho người dân gặp nạn ở miền bắc.

Cuộc bút chiến Văn minh giả

Ngày 4 tháng 11 năm 1915, trong bài xã luận Văn minh giả đăng trên Lục tỉnh tân văn, Phạm Duy Tốn chỉ trích những kẻ học làm sang theo lối tây nhưng nghèo nàn trong văn hóa. Bài báo khiến nhiều người miền nam nổi giận vì coi đó là lời ám chỉ họ và một cuộc bút chiến nổ ra giữa Phạm Duy Tốn ở Lục tỉnh tân văn với biên tập của tờ Nông cổ mín đàm Nguyễn Kim Đính và các cây bút Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt.

Cùng với tâm lý vùng miền, cuộc bút chiến do Phạm Duy Tốn mào đầu nhanh chóng trở nên gay gắt và lan rộng. Một số học giả miền nam buộc tội trí thức Bắc Kì như Đặng Thai Mai, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn là tay sai của người Pháp và báo chí của họ là công cụ tuyên truyền để chống lại quan điểm yêu nước và cách mạng. Những lời cáo buộc đó dựa trên việc sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhiều học giả như Phạm Duy Tốn thật sự tin tưởng ở việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp với mẫu quốc Pháp để học hỏi và khai phá văn minh.

Giải thích cho quan điểm làm báo của mình, Phạm Duy Tốn viết bài Trách nhiệm người làm báo đăng trên Lục tỉnh tân văn trong đó ông so sánh nước Việt Nam như một con thuyền và người làm báo là những người chèo thuyền có trách nhiệm đưa nó đến bến bờ văn minh. Bài báo đề cập rộng đến các vấn đề vai trò và trách nhiệm của báo chí trong xã hội, cách lựa chọn và đặt đề tài của nhà báo... Sau này, tác giả Hoàng Sơn Công nhận định: "Trách nhiệm người làm báo là một trong những bài viết đầu tiên ở Việt Nam bàn về vai trò, trách nhiệm và đạo đức của người viết báo, được thể hiện dưới dạng nghị luận với văn phong rất đặc trưng của Phạm Duy Tốn: khôi hài nhưng nghiêm túc, trang trọng mà thiết tha".

Nhà văn hiện thực tiên phong

Mở đầu trào lưu văn học mới

Phạm Duy Tốn viết văn không nhiều. Toàn bộ văn nghiệp của ông chỉ để lại có bốn truyện ngắn (xem danh mục tác phẩm), nhưng ông vẫn được đánh giá là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng với văn học Việt Nam trong thời kỳ đầu hiện đại hóa. Giáo sư Schafer, trong tiểu luận đã dẫn, cho rằng ông "thử nghiệm một lối văn mới với chủ nghĩa hiện thực và phương pháp khách quan trở nên phổ biến ở Pháp thông qua ngòi bút Guy de Maupassant". Trước đó, văn học Việt Nam còn xa lạ với những hình thức và cách thể hiện văn chương hiện đại. Phạm Duy Tốn đã trở thành một trong những người tiên phong mở lối cho giai đoạn thành tựu rực rỡ của nền văn học Việt Nam cách tân giai đoạn sau này. Thay vì viết những tác phẩm văn xuôi theo khuôn khổ truyền thống, Schafer nhận xét ông đã "mở ra cánh cửa sổ đến một thế giới khác, thế giới không chỉ bao gồm trí thức và những tầng lớp trên, mà cả nông dân và những người kéo xe cần lao".

Các nhà phê bình thời bấy giờ thường so sánh Phạm Duy Tốn với Nguyễn Bá Học, một nhà văn cùng thời cũng viết các truyện ngắn. Truyện của Nguyễn Bá Học, dù cũng được coi là văn mới, nhưng vẫn được viết theo phong cách trang trọng và cổ điển. Như Thanh Lãng đã chỉ ra, Nguyễn Bá Học muốn duy trì những nền nếp đạo đức Nho giáo cổ truyền và cổ súy cho điều đó thông qua các tác phẩm của mình, còn Phạm Duy Tốn muốn cải cách xã hội, nên các tác phẩm của ông thường có khuynh hướng hòa nhập vào xã hội hiện thực rất rõ ràng, sâu sắc.

Truyện ngắn Sống chết mặc bay!

Sống chết mặc bay! là truyện ngắn đầu tay và nổi tiếng nhất của Phạm Duy Tốn, cũng là truyện ngắn đầu tiên của nền văn học mới Việt Nam, in trên báo Nam Phong tháng 12 năm 1918. Tác phẩm được giới thiệu một cách ấn tượng với người đọc: Dưới tiêu đề chữ to MỘT LỐI VĂN MỚI và lời giới thiệu đặc biệt của Phạm Quỳnh, câu chuyện trải dài suốt ba cột báo.

Sự canh tân của truyện ngắn Sống chết mặc bay! không chỉ ở nội dung và các chi tiết miêu tả rất đắt, mà còn ở hình thức thể hiện mới mẻ. Thay vì bắt đầu bằng lời giới thiệu chính thức như các tác phẩm văn xuôi cổ điển, Sống chết mặc bay! mở đầu với đoạn mô tả trực tiếp những gì đang diễn ra, như một lát cắt vào giữa câu chuyện, điển hình cho "một lối văn mới": Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ..., xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất....

Phạm Duy Tốn cũng đặc biệt thành công trong việc mô tả hai hình ảnh tương phản đối lập gay gắt: những người nông dân vất vả, hoảng hốt và hoàn toàn tuyệt vọng trước thiên tai; còn viên quan sở tại an nhàn, hưởng thụ, mặc kệ số phận dân đen: Than ôi! Cứ như cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập thì đố ai bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch...

Bùi Xuân Bào cho rằng Phạm Duy Tốn đã nhái lại truyện Le partie de billard của Alphonse Daudet xuất bản năm 1873. Tác phẩm này tả lại cảnh viên tướng chỉ huy chơi bi-a trong khi binh lính dầm mưa dãi gió ngoài mặt trận. Tuy nhiên, giáo sư Schafer khẳng định nhiều khả năng Sống chết mặc bay! được lấy cảm hứng từ chính những trải nghiệm của Phạm Duy Tốn với trận lũ lịch sử ở Bắc Kì mà ông từng mô tả trong bài báo nổi tiếng Hoạn nạn tương cứu, chứ không phải là sự sao chép từ văn chương Pháp.

Tác phẩm

Bực mình hay Câu chuyện thương tâm (Đông Dương tạp chí số 55, Hà Nội, 1914) Sống chết mặc bay! (báo Nam Phong, Hà Nội, ngày 8 tháng 12 năm 1918) Con người Sở Khanh (báo Nam Phong, Hà Nội, tháng 2 năm 1919) Nước đời lắm nỗi (báo Nam Phong, Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 1919) *Tiếu lâm An Nam (bút danh Thọ An, hai tập, nhà xuất bản Ích Ký, Hà Nội, 1924)

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
Phạm Duy Khiêm năm 1943 **Phạm Duy Khiêm** (1908–1974) là nhà giáo, nhà văn, cựu đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp và tại UNESCO. Ông là con trai nhà văn Phạm Duy Tốn
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Phạm Quỳnh** (chữ Hán: 范瓊; 17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là
Cuốn sách gồm 22 chương 1. Những vấn đề khái quát của lịch sử văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945 2. Phan Bội Châu 1867 - 1940 3. Nguyễn Bá
**_Sống chết mặc bay_** là một tác phẩm của nhà văn Phạm Duy Tốn, được viết theo thể truyện ngắn hiện đại và đăng trên tạp chí Nam Phong số 18 tháng 12 năm 1918.
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
**Duy Tân** (chữ Hán: 維新 19 tháng 9 năm 1900 – 26 tháng 12 năm 1945), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc Vĩnh San** (阮福永珊), là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn, ở
**Phạm Xuân Thăng** (sinh năm 1966) là nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh, Trưởng Ban
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
Ph.Ăng-ghen, người đã kiến giải các nguyên lý của phép biện chứng duy vật **Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật** là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò cốt lõi
nhỏ|Sư phạm phê phán **Sư phạm phê phán** là một phương pháp giảng dạy nhằm giúp người học đặt câu hỏi đối với và thách thức lại sự thống trị, và những niềm tin và
**Chủ nghĩa duy vật**, còn gọi là **thuyết duy vật ** hay **duy vật luận** (), là một trường phái triết học, một thế giới quan, một hình thức của chủ nghĩa triết học nhất
nhỏ|phải|277x277px|Đại học Duy Tân cơ sở 254 Nguyễn Văn Linh, Đà Nẵng **Đại học Duy Tân** (tiếng Anh: **Duy Tan University**) tiền thân là Trường Đại học Duy Tân, thành lập năm 1994. Đây là
**Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi** (14 tháng 5 năm 190921 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn
Biểu trưng thường gặp của các tôn giáo Abraham: [[Ngôi sao David (ở trên cùng) của Do Thái giáo, Thánh giá (ở dưới bên trái) của Cơ Đốc giáo, và từ Allah được viết theo
**Vụ sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á**, hay còn gọi ngắn gọn là **vụ Việt Á** hoặc **đại án Việt Á,** là một vụ án hình sự điển hình về
**Tư duy** là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần, đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt động vật
**Lê Duy Vĩ** (chữ Hán: 黎維禕; 1745 - 1772), hay **Lê Hựu Tông** (黎佑宗), còn gọi là **An Định Thái Tử** (安定太子), là một Hoàng thái tử dưới thời nhà Lê Trung Hưng trong lịch
phải|nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily ở Moskva]] **Tôn giáo tại Nga** là một tập hợp các tôn giáo được thành lập trên lãnh thổ Liên bang Nga. Hiến pháp Liên bang Nga hiện hành
**Quyền động vật trong các tôn giáo Ấn Độ** là quan điểm, quan niệm, giáo lý, học thuyết của các tôn giáo lớn ở Ấn Độ bao gồm Ấn Độ giáo (Hindu giáo), Phật giáo
thumb|Hàng tồn kho linh kiện điện tử **Hàng tồn kho**, hay **hàng lưu kho** (tiếng Anh - Anh: **stock**; tiếng Anh - Mỹ: **inventory** ), là danh mục nguyên vật liệu và sản phẩm hoặc
**Tôn Quyền** (; 5 tháng 7 năm 182– 21 tháng 5, 252), tự là **Trọng Mưu** (仲谋), thụy hiệu **Ngô Đại Đế** (吴大帝, tức là "Hoàng đế lớn của Ngô"), là người sáng lập của
**Phạm Lãi** (chữ Hán: 范蠡) (525 TCN - 455 TCN), biểu tự **Thiếu Bá** (少伯), còn gọi là **Phạm Bá** (范伯), **Si Di Tử Bì** (鸱夷子皮) hay **Đào Chu Công** (陶朱公), là một danh thần
**Phạm Liệu** (范燎, 1873-1937), tự là **Sư Giám**, hiệu là **Tang Phố** (桑圃), là một danh sĩ Việt Nam. Ông được xem là người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải
Quốc giáo của nhà Thương () là một tôn giáo cổ đại của Trung Quốc, trong đó các tín đồ được đào tạo giao tiếp với nhiều vị thần, bao gồm tổ tiên và các
**Louis (hay Aloisio hoặc Luy) Phạm Văn Nẫm** (1919–2001) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục phụ tá của Tổng giáo phận Thành phố Hồ
**Chiến tranh Tôn giáo Pháp** là một chuỗi gồm tám cuộc tranh chấp giữa phe Công giáo và phe Huguenot (Kháng Cách Pháp) từ giữa thế kỷ 16 kéo dài đến năm 1598. Ngoài những
Nguyên Trưởng Ban Ban liên lạc họ Phạm toàn quốc Việt Nam TS. Phạm Khắc Di đã có 2 câu thơ khái quát tôn chỉ mục đích hoạt động của Họ Phạm chúng ta,
**Bảo tồn môi trường sống** là một hoạt động quản lý nhằm mục đích bảo tồn, bảo vệ và phục hồi các sinh cảnh và ngăn chặn sự tuyệt chủng, phân mảnh hoặc giảm phạm
**Tôn giáo** là một hình thái ý thức xã hội. Đặc điểm quan trọng trong ý thức tôn giáo là một mặt nó phản ánh tồn tại xã hội. Mặt khác, nó lại có xu
**Phạm Thiên Thư**, tên khai sinh là **Phạm Kim Long** (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1940), là một nhà thơ Việt Nam. Ông từng đi tu và rồi hoàn tục, nên có kiến thức
**Phạm Hải Yến** (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá nữ Việt Nam đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Hà Nội I và
**Đào Duy Anh** (25 tháng 4 năm 1904 – 1 tháng 4 năm 1988) là nhà sử học, địa lý, từ điển học, ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo, văn học
**Duy tân Hội** (chữ Hán: 維新會, tên gọi khác: **Ám xã**) là một tổ chức kháng Pháp do Phan Bội Châu, Nguyễn Tiểu La và một số đồng chí khác thành lập năm 1904 tại
nhỏ|phải|Một khu bảo tồn động vật **Khu bảo tồn động vật** (_Animal sanctuary_) là một khu vực được sử dụng cho mục đích bảo tồn động vật hoang dã và các loài động vật nói
**Phạm Văn Nhân** (1745 – 1815) là một võ quan đại thần vào cuối thời chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong và đầu triều Nguyễn. Ông đã theo chúa Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau
**Bảo tồn ngoại vi** (_ex-situ conservation_) hay còn gọi là **bảo tồn chuyển vị** hay **bảo tồn ngoài hiện trường** có nghĩa đen là "_bảo tồn ngoài địa điểm_" là quá trình bảo vệ các
Những người chỉ trích cách đối xử của Trung Quốc với người Duy Ngô Nhĩ cáo buộc chính phủ Trung Quốc tuyên truyền chính sách Hán hóa ở Tân Cương trong thế kỷ 21, họ
**Phạm Quang Vĩnh** (sinh ngày 15 tháng 8 năm 1944) là họa sĩ người Việt Nam, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực điện ảnh, ông từng dàn dựng cho nhiều bộ phim điện ảnh
Nhiều truyền thống tôn giáo đã có quan điểm về phá thai, nhưng các quan điểm này ít khi là tuyệt đối. Những lập trường này trải dài trên một phạm vi rộng, dựa trên
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ THƯƠNG MẠI THU NGÂN✌ Chúng tôi tin vào sản phẩm của mình Quyết định mua là của bạn!Thông số kỹ thuậtMã SPLA-0808Tên sản phẩmMáy rửa mặt Cute Kittenchất liệu
CÔNG TY TNHH ĐẦU TƯ VÀ THƯƠNG MẠI THU NGÂN✌ Chúng tôi tin vào sản phẩm của mình Quyết định mua là của bạn!Thông số kỹ thuậtMã SPLA-0808Tên sản phẩmMáy rửa mặt Cute Kittenchất liệu
**Phạm Kỳ Nam** (27 tháng 6 năm 1928 – 3 tháng 3 năm 1984) là đạo diễn phim truyện và phim tài liệu được xem là một trong những cánh chim đầu đàn của nền
nhỏ|320x|Các biểu tượng của các tôn giáo lớn trên thế giới (từ trái qua phải)
Hàng 1: [[Kitô giáo, Do Thái giáo, Ấn Độ giáo
Hàng 2: Hồi giáo, Phật giáo, Thần đạo
Hàng 3:
**Phạm trù** là một trong những phương tiện nhận thức thế giới dùng trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội. Khái niệm phạm trù được xuất hiện trong quá trình
**Tôn giáo tại Việt Nam** khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Nguyên thủy và một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,
**Tôn Thất Thuyết** (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự **Đàm Phu** (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều
**Đàn áp tôn giáo** là sự ngược đãi có hệ thống đối với một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân như một phản ứng đối với niềm tin hoặc tín ngưỡng tôn giáo của