✨Phạm Quỳnh

Phạm Quỳnh

Phạm Quỳnh (chữ Hán: 范瓊; 17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi (尚之), bút danh: Hoa Đường (華堂), Hồng Nhân.

Ông được xem là người có quan điểm ủng hộ việc tự trị của Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), và kiên trì chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến. Tuy nhiên, ông cũng bị nhiều người đương thời chỉ trích vì thái độ thân Pháp và cộng tác với chính quyền thực dân Pháp.

Tiểu sử

nhỏ|[[Phạm Duy Tốn, Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh tại Paris năm 1922]] Phạm Quỳnh sinh tại số 17 phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, một làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi, Phạm Quỳnh côi cút được bà nội nuôi ăn học.

Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ (tức Trường Bưởi, còn gọi là trường Thông ngôn).

Hoạt động báo chí, văn hóa xã hội

Năm 1908, Phạm Quỳnh làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội lúc vừa tuổi 16.

Từ năm 1916, ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu của Nam Phong tạp chí từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 cho đến năm 1932 nhằm truyền bá tư tưởng, học thuật đông tây kim cổ, luyện quốc văn trở nên hoàn thiện từ đó phát triển thành tinh thần dân tộc.

Cũng trong thời kỳ 1924–1932, ông còn là giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội.

Ngày 2 tháng 5 năm 1919, ông sáng lập và là Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức, Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ.

Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãm Marseille rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý Viện Hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục.

Năm 1924, ông được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa Việt, Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báo France - Indochine.

Từ năm 1925–1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926 ông làm ở Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương.

Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.

Năm 1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.

Thượng thư Nam triều

thumb|5 vị [[Thượng thư thời vua Bảo Đại, từ trái qua phải: Hồ Đắc Khải, Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Ngô Đình Diệm, Bùi Bằng Đoàn.]]

Ngày 11 tháng 11 năm 1932, sau khi Bảo Đại lên làm vua thay Khải Định, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền, thôi không làm chủ bút Nam Phong tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Học và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư Bộ Lại (1942–1945).

Trong một bài viết trên báo Sông Hương, ông đã đả phá Trần Trọng Kim và các sử gia phong kiến khi cho Triệu Đà là vua của nước Nam. Theo ông, "Quốc sử phải lấy dân tộc làm nền", "sử gia phong kiến tôn y (Triệu Đà) là ông vua khai quốc, ấy là đã làm một việc vô nghĩa... Hoặc có ai ngờ cho tôi sở dĩ cái kiến giải nầy là tại quá trọng về quốc gia chủ nghĩa, và cũng bởi cái chủ nghĩa ấy khích thích nên tôi mới viết bài này".

Cuối đời

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Ông lui về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế.

Ngày 25 tháng 8 năm 1945, dân quân Việt Minh bắt được một nhóm biệt kích Pháp, trong đó có mật lệnh liên lạc với Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi để được hỗ trợ chống lại chính quyền cách mạng. Phạm Quỳnh bị Phan Hàm và Võ Quang Hồ bắt giữ theo lệnh khẩn của Mặt trận Việt Minh và áp giải ra khỏi Huế cùng với Ngô Đình Khôi (anh cùng cha khác mẹ với Ngô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Ba người bị xử bắn không lâu sau đó

Năm 1956, hai con của Phạm Quỳnh là bà Phạm Thị Hảo (sinh năm 1920) và Phạm Tuân (sinh năm 1936), hiện định cư tại Hoa Kỳ, được theo đoàn tìm mộ cha con Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân, là anh và cháu của Ngô Đình Diệm, để tìm di hài cha. Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.

Di sản

Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý luận. Dương Quảng Hàm đánh giá các công trình của ông là đã "luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới".

Trước đây, cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính trị của thực dân Pháp. Ông bị coi là "ru ngủ" thanh niên trí thức trong cái "hồn nước" mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai đắc lực của Pháp.

Kể từ năm 2000, nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại Việt Nam:

  • Mười ngày ở Huế, Nhà xuất bản Văn học - 2001
  • Luận giải Văn học và Triết học, Nhà xuất bản Thông tin, 2003
  • Pháp du hành trình nhật ký, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004
  • Thượng Chi văn tập, Nhà xuất bản Văn học, 2007
  • Du ký Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, 2007
  • Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, Nhà xuất bản Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932) Theo nhạc sĩ Phạm Tuyên - con trai của học giả Phạm Quỳnh, vào mùa thu năm 1945, Hồ Chí Minh đã nói với hai người chị của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức rằng: "Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng".

Ngày 28 tháng 5 năm 2016, hội đồng họ Phạm Việt Nam phối hợp cùng gia đình nhạc sĩ Phạm Tuyên tổ chức lễ khánh thành công trình trùng tu mộ phần và dựng tượng Phạm Quỳnh tại Thành phố Huế. Bức tượng bán thân Phạm Quỳnh do chính người cháu ngoại của ông là kiến trúc sư Tôn Thất Đại thiết kế với chiều cao 60 cm, bề ngang 50 cm, được đặt ở bục cao gần 2 m nằm ngay sau ngôi mộ ông ở trước chùa Vạn Phước (phường Trường An, Thành phố Huế). Phía trước bia mộ được ốp tấm bia đá đen khắc ghi câu nói nổi tiếng của ông: "Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn".

Tác phẩm

Ông là tác giả và dịch giả nhiều bài viết và sách văn học, triết học, cách ngôn, ngụ ngôn, tuồng hát tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt và tùy bút. Gần như toàn bộ các tác phẩm của ông đều đăng trên tạp chí Nam Phong. Nhiều bài sau đó in lại thành sách do Đông Kinh ấn quán ở Hà Nội xuất bản.

Các tác phẩm của ông có thể chia làm ba loại:

Dịch thuật

Bao gồm các tác phẩm luận thuyết, phương pháp luận, sách cách ngôn, kịch bản và thơ văn... Ông dịch các đoạn văn và tác phẩm từ tiếng Pháp, chủ yếu thiên về triết học, như triết học của Descartes. Tuy nhiên, ông cũng có dịch một số tác phẩm nghệ thuật như kịch của Corneille.

Khảo luận

Phần quan trọng nhất trong các tác phẩm của Phạm Quỳnh là các tác phẩm khảo cứu. Ông nghiên cứu trong các sách chữ Nho, sách tiếng Pháp, và viết lại những bài chuyên khảo bằng tiếng Việt. Có ba ngành ông chú trọng là: Các học thuyết Âu Tây, như trong Văn minh luận, Khảo về chính trị nước Pháp, Lịch sử và học thuyết của Rousseau, Lịch sử và học thuyết của Montesquieu, Lịch sử và học thuyết của Voltaire, v.v... Học thuật Á Đông, những bài về triết học và tôn giáo Á Đông như Phật giáo lược khảo, Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng, v.v... *Văn hóa Việt Nam, với chủ đề trải rộng từ Tục ngữ ca dao, tới Việt Nam thi ca, tới Văn chương trong lối hát ả đào.

Nhiều tác phẩm của ông liên kết những học thuật Âu Tây và phân tích, so sánh chúng với các khái niệm quen thuộc của người Việt Nam. Như trong bài Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng ông có phần phân tích và so sánh giữa quan niệm người quân tử của đạo Khổng và người "chính nhân" (là chữ ông dùng cho l'honnête homme) trong văn hóa Pháp. Hay như ông có những bài Văn hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam hoặc Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam.

Văn du ký

Ông viết nhiều du ký ghi lại những điều quan sát, nhận định, nghị luận trong các chuyến du lịch đi Pháp và đi các vùng đất Việt Nam như: Mười ngày ở Huế (1918) Một tháng ở Nam Kỳ (1919) *Pháp du hành trình nhật ký (1922)

Một số tác phẩm chính

Cái quan-niệm của người quân-tử trong triết-học Đạo Khổng in năm 1928 Văn minh luận Ba tháng ở Paris Văn học nước Pháp Chính trị nước Pháp Khảo về tiểu thuyết Lịch sử thế giới Lịch sử và học thuyết Voltaire Phật giáo đại quan Cái quan niệm của người quân tử trong Đạo Khổng Thượng Chi văn tập gồm 5 quyển, Nhà xuất bản Alexandre de Rhodes Hanoi ấn hành năm 1943. *Tục ngữ - Ca dao (1932) - Đông Kinh ấn quán.

Về sách in sau này ở Việt Nam

Mười ngày ở Huế, Nhà xuất bản Văn học - 2001 Luận giải Văn học và Triết học, Nhà xuất bản Thông tin, 2001 Pháp du hành trình nhật ký, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004 Thượng Chi văn tập, Nhà xuất bản Văn học, 2007 Du ký Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, 2007 Phạm Quỳnh - Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, Nhà xuất bản Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932) Ngoài sáu cuốn xuất bản sau này tại Việt Nam thì còn có cuốn Hành trình nhật ký in lần thứ hai tại San Jose, Hoa Kỳ vào năm 2002 (in thành sách lần thứ nhất tại Paris năm 1997) gồm các du ký: Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ và Pháp du hành trình nhật ký.

Gia đình

Ông có một người vợ là bà Lê Thị Vân (1892-1953) và 16 người con (3 người mất từ nhỏ). Trong đó: Người con cả là Phạm Giao (sinh năm Tân Hợi 1911), kết hôn với bà Nguyễn Thị Hy, con gái ông Nguyễn Văn Ngọc (về sau bà Hy kết hôn với ông Trần Huy Liệu), sinh được hai người con, một gái, một trai. Phạm Thị Giá (sinh năm Quý Sửu 1913), vợ của quan Đốc học trường Thăng Long Tôn Thất Bình. Phạm Thị Thức (sinh năm Ất Mão 1915), vợ của Giáo sư Đặng Vũ Hỷ. Hai ông bà có người con trai là Đặng Vũ Minh, Giáo sư Tiến sĩ, Chủ tịch Viện khoa học và Công nghệ Việt Nam. Phạm Bích (nam, sinh năm Mậu Ngọ 1918), Tiến sĩ Luật đã mất ở Thụy Sĩ. Phạm Thị Hảo (sinh năm Canh Thân 1920), vợ Dược sĩ Phùng Ngọc Duy, hiện sống tại Washington D.C., Hoa Kỳ. Phạm Thị Ngoạn (sinh năm Tân Dậu 1921), Tiến sĩ Văn chương, vợ của nhà văn Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng. Phạm Khuê (nam, sinh năm Ất Sửu 1925), cố Giáo sư, Nhà giáo nhân dân, nguyên Viện trưởng Viện Lão khoa, nguyên Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam; Đại biểu Quốc hội khóa X. Phạm Thị Hoàn (sinh năm Mậu Thìn 1928), từng là ca sĩ. Chồng bà là nhạc sĩ Lương Ngọc Châu (cháu nội chí sĩ Lương Văn Can), tác giả những ca khúc như Tiếng hát lênh đênh, Một đi không trở về... Phạm Tuyên (nam, sinh đầu năm 1930, tuổi Kỷ Tỵ), nhạc sĩ, Chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội. Phạm Thị Diễm (Giễm) (sinh năm Tân Mùi 1931) định cư tại Pháp. Phạm Thị Lệ (sinh năm Giáp Tuất 1934) định cư tại Pháp. Phạm Tuân (nam, sinh năm Bính Tý 1936) định cư tại Hoa Kỳ. *Phạm Thị Viên (sinh năm Mậu Dần 1938) định cư tại Pháp..

Ngày sinh và mất

Về ngày sinh

Theo ông Nguyễn Thọ Dực, Trưởng ban Cổ văn, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì hồi làm việc ở triều đình Huế, ông có được Phạm Quỳnh cho biết ngày sinh để nhờ lấy số tử vi là ngày 13 tháng 12 năm Nhâm Thìn, tức ngày 30/1/1893.

Về ngày mất

Sách "Từ điển Văn học bộ mới" (2004), ghi mất ngày 20 tháng 8 năm 1945. Một số tài liệu ghi mất ngày 23 tháng 8 năm 1945, đúng ngày có người mời ông đến chính quyền Việt Minh làm việc. *Một số tài liệu chép ông mất vào sáng ngày 6 tháng 9 năm 1945 (tức ngày 1 tháng 8 năm Ất Dậu; sau 14 ngày bị Việt Minh bắt).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Quỳnh Anh** (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1984) là một nữ ca sĩ kiêm diễn viên người Việt Nam. Cô từng là thành viên của nhóm nhạc Sắc Màu và H.A.T. ## Tiểu
**Phạm Quỳnh** (chữ Hán: 范瓊; 17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
**Quỳnh Anh** có tên đầy đủ là **Phạm Quỳnh Anh** (sinh ngày 16 tháng 01 năm 1987 tại Liège, Bỉ) là một nữ ca sĩ nổi tiếng người Bỉ gốc Việt. Cô bắt đầu sự
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Phan Mạnh Quỳnh** (sinh ngày 10 tháng 1 năm 1990) là một nam ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam. Anh giành được một đề cử Cống hiến cho bài "Huyền thoại" năm
VỤ ÁN TRUYỆN KIỀU TÁC GIẢ NGUYỄN VĂN TRUNG NXB Hội nhà văn - Trường Phương BOOKS NĂM 022023 - KHỔ 16 X 24 BÌA MỀM - 260 trang Vụ án Truyện Kiều của tác
VỤ ÁN TRUYỆN KIỀU TÁC GIẢ NGUYỄN VĂN TRUNG NXB Hội nhà văn - Trường Phương BOOKS NĂM 022023 - KHỔ 16 X 24 BÌA MỀM - 260 trang Vụ án Truyện Kiều của tác
**Phạm Thị Huệ** (sinh năm 1996) là một nữ vận động viên điền kinh người Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Thị Huệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại thôn Tân Lương xã
**Phạm Băng Băng** (tiếng Trung: 范冰冰, tiếng Anh: _Fan Bingbing_; sinh ngày 16 tháng 9 năm 1981) là một nữ diễn viên người Trung Quốc. Là chủ nhân của một số giải thưởng lớn, cô
**Phạm Văn Nhân** (1745 – 1815) là một võ quan đại thần vào cuối thời chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong và đầu triều Nguyễn. Ông đã theo chúa Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau
**Phạm Mạnh Cương** (sinh ngày 30 tháng 7 năm 1933) là một nhạc sĩ Việt Nam, tác giả của những nhạc phẩm _Thương hoài ngàn năm_, _Thu ca_, _Loài hoa không vỡ_. Ngoài ra ông
**Phạm Văn Hà** (sinh ngày 1 tháng 9 năm 1960) là một thẩm phán và chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội,
Tết Việt Nam xưa được tuyển dịch kỹ lưỡng, mở đầu với bài nghiên cứu sâu sắc, như một tổng quan về Tết cổ truyền Việt Nam của học giả Nguyễn Văn Huyên. Tiếp đó,
**Phạm Anh Tuấn** (sinh ngày 21 tháng 7 năm 1990) là một nam diễn viên và ca sĩ người Việt Nam. Anh được biết đến qua các bộ phim _Trái tim có nắng_, _Ngược chiều
Việt Nam Sử Lược là cuốn sách Lịch Sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ, hệ thống lại toàn bộ lịch sử nước Việt cho đến thời kỳ Pháp thuộc. Trần Trọng
Việt Nam Sử Lược là cuốn sách Lịch Sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ, hệ thống lại toàn bộ lịch sử nước Việt cho đến thời kỳ Pháp thuộc. Trần Trọng
Việt Nam Sử Lược là cuốn sách Lịch Sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ, hệ thống lại toàn bộ lịch sử nước Việt cho đến thời kỳ Pháp thuộc. Trần Trọng
Trần Trọng Kim 1883 - 1953 là một học giả danh tiếng đầu thế kỷ XX, cùng thời với những tên tuổi lớn như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh Với bút hiệu Lệ Thần, ông
Việt Nam Sử Lược là cuốn sách Lịch Sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ, hệ thống lại toàn bộ lịch sử nước Việt cho đến thời kỳ Pháp thuộc. Trần Trọng
Việt Nam Sử Lược là cuốn sách Lịch Sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ, hệ thống lại toàn bộ lịch sử nước Việt cho đến thời kỳ Pháp thuộc. Trần Trọng
Với phương châm chỉ nói đến các bạn làng văn mà tôi đã được hân hạnh quen biết nhiều, những gương mặt văn sĩ tiền chiến được nhà thơ Nguyễn Vỹ khắc họa chân dung,
Trần Trọng Kim 1883 - 1953 là một học giả danh tiếng đầu thế kỷ XX, cùng thời với những tên tuổi lớn như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh Với bút hiệu Lệ Thần, ông
Việt Nam Sử Lược là cuốn sách Lịch Sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ, hệ thống lại toàn bộ lịch sử nước Việt cho đến thời kỳ Pháp thuộc. Trần Trọng
**Trường Đại học Sư phạm Hà Nội** (tiếng Anh: _Hanoi National University of Education_ - viết tắt: **ĐHSPHN** hay **HNUE**) là một trường đại học công lập tại Việt Nam. Được thành lập vào năm
**Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi** (14 tháng 5 năm 190921 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn
**Phạm Tuyên** (sinh ngày 12 tháng 1 năm 1930) là một nhạc sĩ nổi tiếng người Việt Nam, cựu Chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội, tác giả của bài hát "Như có Bác trong
**Phạm Hán Kiệt** (giản thể: 范汉杰; phồn thể: 范漢傑; Wade–Giles: Fan Han-chieh; 1894–1976), tự Jie-ying, là một vị tướng Trung Hoa từng phục vụ trong Chiến tranh Trung-Nhật và Nội chiến Trung Hoa. Trong Chiến
**Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu** **(C03**) trực thuộc Bộ Công an (Việt Nam) có chức năng tham mưu giúp Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều
Truyện Kiều còn, tiếng ta còn Tiếng ta còn, nước ta còn. Phạm Quỳnh Từ lâu, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã hiện diện trong đời sống của dân tộc Việt Nam ta và trở
Truyện Kiều còn, tiếng ta còn Tiếng ta còn, nước ta còn. Phạm Quỳnh Từ lâu, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã hiện diện trong đời sống của dân tộc Việt Nam ta và trở
HỖ TRỢ MỜ NÁM#ReviewSau khi sinh bé đầu lòng được 3 tháng, da mình bắt đầu xuất hiện lấm tấm đốm nâu, rồi loang dần thành từng mảng nám nhỏ. Mình hoang mang, lật tung
**Phạm Đông Hồng** (12 tháng 12 năm 1955 – 15 tháng 9 năm 2018) là một cố nhà làm phim kiêm doanh nhân người Việt Nam. Ông chuyên làm phim hài dân gian phát trong
**Phạm Khuê** (7 tháng 8 năm 1925 – 2 tháng 1 năm 2003), Giáo sư, Bác sĩ, Nhà giáo nhân dân. Quê quán tại thôn Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, Hải Dương,
**Lê Lâm Quỳnh Như** (sinh ngày 9 tháng 9 năm 1970) thường được biết đến với nghệ danh **Như Quỳnh**, là một nữ ca sĩ người Mỹ gốc Việt thành công với dòng nhạc trữ
**Hồ Quỳnh Hương** (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1980) là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ kiêm giảng viên thanh nhạc người Việt Nam. Được đánh giá là một trong những nghệ sĩ âm
**Phạm Văn Sinh** (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1958 tại xã Quỳnh Minh, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) là một chính khách người Việt Nam. Ông từng kinh qua các chức vụ lãnh
**Phạm Thái** (chữ Hán: 範泰, 1777-1813), còn gọi _Phạm Đan Phượng, Phạm Phượng Sinh_, hiệu _Chiêu Lì_ (hoặc _Chiêu Lỳ_); là một danh sĩ ở cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 trong
**Quỳnh Giao** (1946 – 2014) là một nữ ca sĩ Việt Nam, tên thật là **Nguyễn Phước Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang**, sinh ngày 8 tháng 11 năm 1946 tại làng Vỹ Dạ, Huế,
**Cao Quỳnh Cư** (1888–1929) là Thượng phẩm chủ Chi Đạo chức sắc Hiệp Thiên Đài của đạo Cao Đài. Theo niềm tin đạo Cao Đài, tiền kiếp của ông là Hán Chung Li . Ông
**Quỳnh Lưu** là một huyện cũ đồng bằng ven biển nằm ở phía đông bắc tỉnh Nghệ An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Quỳnh Lưu nằm ở phía đông bắc của tỉnh Nghệ An,
**Phạm Công Tắc** (1890-1959), tự là **Ái Dân**, biệt hiệu **Tây Sơn Đạo**, là một trong những lãnh đạo trong việc hình thành, xây dựng, phát triển và kiện toàn hệ thống tôn giáo của
**Cao Quýnh** (chữ Hán: 高熲, 541 - 607), hay **Độc Cô Quýnh** (獨孤熲) tên tự là **Chiêu Huyền** (昭玄), còn có tên khác là Mẫn, nguyên quán ở huyện Tự Vân, quận Bột Hải, là
**_Quỳnh búp bê_** là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do Mai Hồng Phong làm đạo diễn. Phim phát sóng
**Phạm Thị Lan Quỳnh** (sinh năm 1998), là một nữ ca sĩ người Việt Nam. Cô giành ngôi vị quán quân - Giải nhất Liên hoan tiếng hát truyền hình toàn quốc - giải Sao
**Nguyễn Phúc Ngọc Quỳnh** (chữ Hán: 阮福玉瓊; 1788 – 1849), phong hiệu **Bình Hưng Công chúa** (平興公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Quỳnh Dao** (; 20 tháng 4 năm 1938 – 4 tháng 12 năm 2024), bút danh của **Trần Triết** (), là nhà văn, nhà biên kịch, nhà sản xuất phim người Đài Loan. Bà thường
**Bùi Quỳnh Hoa** (sinh ngày 8 tháng 7 năm 1998) là một hoa hậu, người mẫu Việt Nam. Cô từng giành vương miện Hoa hậu Áo dài Việt Nam Thế giới 2017 và Giải Vàng
**Chu Thúy Quỳnh** (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1941) là một diễn viên, biên đạo múa và đạo diễn chương trình, từng đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Múa Việt Nam,