✨Tôn Quyền

Tôn Quyền

Tôn Quyền (; 5 tháng 7 năm 182– 21 tháng 5, 252), tự là Trọng Mưu (仲谋), thụy hiệu Ngô Đại Đế (吴大帝, tức là "Hoàng đế lớn của Ngô"), là người sáng lập của chính quyền Đông Ngô dưới thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông thừa hưởng quyền kiểm soát đất Giang Đông từ tay huynh trưởng, Tôn Sách, năm 200. Ông tuyên bố độc lập và cai trị Giang Đông từ năm 222 đến 229 với tước hiệu Ngô vương và từ 229 đến 252 với tước hiệu hoàng đế Ngô. Không như các đối thủ Tào Tháo và Lưu Bị, Tôn Quyền thường đóng vai trò trung lập trong các cuộc xung đột của Thục và Ngụy, và chỉ đứng về một trong phía hai bên còn lại nếu điều đó có lợi cho nước Ngô; cũng không bao giờ cố gắng để thống nhất ba nước, mặc dù nhiều sử gia cho rằng là do không đủ thực lực để làm điều đó.

Tôn Quyền chào đời khi phụ thân ông là Tôn Kiên còn làm huyện thừa ở Hạ Bì. Sau cái chết của Tôn Kiên vào đầu năm 190, ông và gia đình di chuyển qua nhiều nơi ở phía nam Trường Giang, cho đến khi trưởng huynh Tôn Sách chiếm cứ được Giang Đông, với sự giúp đỡ của những người bạn thân thiết và các lãnh chúa địa phương. Sau khi Tôn Sách bị Hứa Cống ám sát vào năm 200, Tôn Quyền mới 18 tuổi lên kế nhiệm làm thủ lĩnh miền đông nam Trung Quốc. Chính quyền của ông được cho là tương đối ổn định trong những năm đầu nhờ vào sự tận tâm phò tá của các thủ hạ của Tôn Kiên và Tôn Sách như Chu Du, Trương Chiêu, Trương Hoành, và Trình Phổ. Vì thế suốt những năm 200, Tôn Quyền, với sự giúp sức của các cộng sự đắc lực, tiếp tục củng cố sức mạnh tại lãnh địa của mình. Đầu năm 207, quân đội của ông giành chiến thắng hoàn toàn trước Hoàng Tổ, một tướng lĩnh dưới quyền Lưu Biểu, lãnh chúa nắm quyền ở Kinh Châu.

Mùa đông cùng năm, lãnh chúa đã thống nhất toàn miền bắc là Tào Tháo đem 800.000 quân chinh phạt miền nam mong hoàn thành bá nghiệp thống nhất Trung Quốc. Hai phe phái chủ chiến và chủ hòa nổi lên tranh cãi với nhau trong triều đình Đông Ngô. Một phe, đứng đầu là Trương Chiêu, chủ trương đầu hàng, phe còn lại của Chu Du và Lỗ Túc, phản đối hàng Tào. Cuối cùng, Tôn Quyền quyết định giao chiến với Tào Tháo ở lưu vực sông Trường Giang. Bằng việc liên minh với Lưu Bị và sử dụng các tướng linh Chu Du và Hoàng Cái, quân Ngô đã đại phá Tào Tháo ở trận Xích Bích.

Năm 220, Tào Phi, con trai và người kế vị của Tào Tháo, soán ngôi nhà Hán và xưng là Ngụy hoàng đế. Ban đầu Tôn Quyền chủ trương xưng thần với Ngụy và nhận phong là Ngô vương, nhưng sau khi Tào Phi cho đòi trưởng tử của Tôn Quyền là Tôn Đăng đến Lạc Dương làm con tin thì Quyền từ chối. Năm 222, ông ly khai khỏi Ngụy và đổi niên hiệu, nhưng đến năm 229 mới chính thức xưng là hoàng đế. Vì sự khéo léo và ưa chuộng nhân tài mà Tôn Quyền thu hút được rất nhiều văn thần võ tướng có thực lực làm việc cho mình.. Khi Tôn Sách, trưởng huynh của Tôn Quyền gặp Chu Du năm 189, Tôn Sách quyết định đưa mẹ là Ngô phu nhân và các em về huyện Thư, quê nhà của Chu Du. Từ đó, nhà họ Tôn kết mối giao hảo với Chu Du.

Sách Giang Biểu truyện mô tả về tướng mạo và tính cách của Tôn Quyền: vào năm 196, khi đó ông mới lên 14, và tiếp tục được thăng chức và dần đảm nhận các công việc quan trọng hơn. Tôn Quyền được biết đến là một người thông minh và khéo léo thích kết giao bằng hữu. Danh tiếng của ông không thua kém gì cha và anh trai. Ông đã kết giao với Chu Nhiên và Hồ Tống trong thời trẻ của mình. Cả hai người này về sau đều trở thành trọng thần Đông Ngô. Phan Chương và Chu Thái cũng trở thành gia thần dưới trướng ông. Tôn Sách cũng rất ấn tượng với người em trai này và nói rằng ông sẽ để người của mình cho Tôn Quyền quản lý trong tương lai. Năm 199, Tôn Quyền được bổ làm Giáo úy (校尉) và đi theo anh trai chinh phạt Lư Giang và Dự Chương. Tào Tháo khi đó đang tìm cách lấy lòng Tôn Sách. Cả Tôn Quyền cùng em trai Tôn Dực đều được mời đến làm quan ở Hứa Xương nhưng họ từ chối.

Kế nhiệm Tôn Sách

Tôn Sách bị ám sát vào năm 200 trong một cuộc đi săn. Lúc sắp ra đi, ông nhận thức được rằng con trai mình vẫn có quá nhỏ để kế vị, vì thế ông giao lại quyền hành cho người em mới 18 tuổi là Tôn Quyền, mới cho gọi Tôn Quyền đến trối rằng: :Cử quân Giang Đông, quyết mưu giữa hai trận đánh, tranh giành thiên hạ, khanh không bằng ta, dùng người hiền tài để họ hết lòng gìn giữ Giang Đông, ta không bằng khanh. Tôn Sách qua đời, Tôn Quyền tiếc thương cho cái chết của anh trai đến nỗi không thể ngưng khóc, nhưng rồi theo lời khuyên của Trương Chiêu, ông mới mặc quân phục và đến thăm hỏi các tướng cũ của trưởng huynh. Nhiều thuộc hạ nghĩ rằng Tôn Quyền còn quá bé để kế thừa đại nghiệp và muốn rời đi. Đặc biệt, Lý Túc, người nắm giữ Lư Giang, đã về hàng Tào Tháo. Tôn Quyền viết lá thư cho Tào Tháo kể tội ác của Lý Túc rồi đem quân đánh ông này, lấy lại Lư Giang.

Trương Chiêu và Chu Du nhìn ra được tố chất của vị chủ công trẻ tuổi và quyết định tiếp tục theo phù Tôn Quyền. Trương Hoành, người mà Tôn Sách trước đó đã cử đến làm quan ở chỗ Tào Tháo, cũng trở về phục vụ cho Tôn Quyền. (Theo đề nghị của Trương Hoành, Tào Tháo, nhân danh Hán hoàng, phong cho Tôn Quyền làm Thảo Lỗ tướng quân (討虜將軍), một danh hiệu mà nhiều người gọi ông trong một thời gian dài.) Ông kính cẩn vâng theo những lời giáo huấn của mẫu thân là Ngô thị, và cũng rất tin tưởng Trương Chiêu và Trương Hoành về mặt chính trị và Chu Du, Trình Phổ, và Lã Phạm về các vấn đề quân sự. Tôn Quyền cũng tìm kiếm những người trẻ tuổi có tài làm cố vấn cho mình, trong thời gian đó đã kết giao cùng Lỗ Túc và Gia Cát Cẩn, hai người này cũng đóng vai trò quan trọng trong chính quyền về sau. Thêm vào đó, Lục Tốn, Bộ Chất, Cố Ung, Thị Nghi, Nghiêm Tuấn, Từ Hoảng và Chu Hoàn cũng trở thành những người dưới quyền ông. Trải qua nhiều thập kỉ tiếp theo, Tôn Quyền lãnh đạo đất nước bằng việc sáng suốt trong tìm kiếm người tài năng giao phó công việc quan trọng và có những quyết định đúng lúc hợp thời.

Qua nhiều năm, Tôn Quyền chủ yếu quan tâm đến việc bảo vệ lãnh địa trước sự nhòm ngó của các kẻ thù tiềm năng, nhưng ông cũng dần tìm cách quấy rối và làm suy yếu cấp dưới của Lưu Biểu, Hoàng Tổ (người trấn giữa vùng đất trọng yếu đông bắc của Lưu Biểu) – vì cớ Tổ là người đã giết hại cha ông trong chiến trận. Năm 208, ông cuối cùng đã đánh bại và giết được Hoàng Tổ. Không lâu sau đó, Lưu Biểu chết giữa lúc Tào Tháo chuẩn bị nam hạ nhằm tiêu diệt hai kẻ thù là Lưu Biểu và Tôn Quyền.

Đại chiến Xích Bích

thumb|Một bức tranh vẽ [[Ngựa trong văn hóa phương Đông|xe ngựa và kị binh, từ Đả Hổ đình Hán mộ (打虎亭漢墓) vào cuối đời Đông Hán (25-220), ]]

Cuối năm 208, sau khi Lưu Biểu chết, nội bộ Kinh châu nổ ra tranh chấp về người kế vị, một bên là trưởng công tử Lưu Kỳ và người kia là cháu họ Lưu Tông, vốn được người vợ thứ hai của Lưu Biểu là Thái phu nhân yêu thích (do Lưu Tông kết hôn với cháu của phu nhân). Hoàng Tổ chết đi, Lưu Kỳ vì thế được cử lên thế vị trí của Hoàng Tổ là trấn thủ Giang Hạ. Lưu Tông sau đó được kế vị sau khi Lưu Biểu qua đời, và Lưu Kỳ cảm thấy không hài lòng, nên khởi binh đối đầu với Lưu Tông. Tuy nhiên, Lưu Tông, lo sợ sẽ phải đối phó với cả Tào Tháo và Lưu Kỳ trên cả hai mặt trận, nên đã đầu hàng Tào Tháo. Lưu Bị, người đang nương nhờ Lưu Biểu, không muốn đầu hàng Tào Tháo, chạy về phía nam. Tháo đem quân thảo phạt và đè bẹp quân Lưu, nhưng Lưu Bị chạy thoát; trốn đến Đương Dương. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, tiến đến mục tiêu thống nhất Trung Quốc.

Tôn Quyền cũng nhìn rõ dã tâm của Tào Tháo, và ông cử Lỗ Túc đến lập liên minh với Lưu Bị và Lưu Kỳ để cùng chống Tào. Tào Tháo viết thư cho Tôn Quyền với lời lẽ đe dọa, phô trương thực lực của mình (ước tính khoảng 220, 000 quân, dù Tháo phao lên là 800, 000, trong khi Tôn Quyền chỉ có 30, 000 và Lưu Bị có 10, 000), nhiều gia thần của ông, bao gồm Trương Chiêu, chủ trương đầu hàng Tào Tháo. Tôn Quyền từ chối, theo lời khuyên của Chu Du và Lỗ Túc (vì họ cho rằng Tào Tháo cũng sẽ không tha cho Tôn Quyền ngay cả khi ông đầu hàng). Chu Du có ý nghi ngờ Lưu Bị, nên đề xuất với Tôn Quyền hãy nhân khi Lưu bị sang Ngô đón dâu sẽ ngầm giam giữ ông ta lại (dù vẫn đối xử tốt) và dùng Lưu Bị làm con tin buộc quân sĩ của ông ta nghe lời họ Tôn; Tôn Quyền, lại cho rằng quân của Lưu Bị sẽ nổi loạn nếu ông làm như vậy, nên đã từ chối. Tôn Quyền đồng ý với kế hoạch của Chu Du là gây chiến với Lưu Chương và Trương Lỗ (người kiểm soát phần đất hiện nay là phía nam Thiểm Tây) để khuếch trương sang lãnh thổ của họ, nhưng sau cái chết của Chu Du vào năm 210, kế hoạch này bị bác bỏ. Tuy nhiên, Tôn Quyền đã thành công trong việc thuyết phục các lãnh chúa đóng ở vùng đất hiện nay là Quảng Đông, Quảng Tây, và miền bắc Việt Nam xưng thần với ông, họ những vùng này trở thành lãnh thổ của Đông Ngô. Tôn Quyền sau đó đồng ý trao quyền quản lý miền bắc Kinh châu cho Lưu Bị, vì Lưu Bị nói rằng miền nam Kinh châu không đủ lương thực để cung cấp cho quân đội của ông ta. Cùng lúc này, Tôn Quyền chỉ định Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu (刺史) thay cho Lại Cung. Sĩ Nhiếp cùng các tướng dưới quyền đều xin tuân lời Bộ Chất. Tôn Quyền nắm quyền cai quản Giao Châu.

Năm 211, Tôn Quyền dời trị sở từ Đan Đồ về Mạt Lăng, năm sau xây dựng lại thành trì ở đây và đổi tên là Kiến Nghiệp. Trị sở mới này giúp ông cai quản tốt hơn vùng hạ lưu Trường Giang và thuận tiện cho việc liên lạc với các tướng lĩnh đóng ở các nơi. Ông cũng cho xây pháo đài tại tại Nhu Tu, theo kế của Lã Mông để ngăn chặn sự tấn công từ Tào Tháo. Năm 212, Lưu Bị vào Xuyên, Tôn Quyền sai Chu Thiện sang Kinh Châu lấy cớ Quốc thái bệnh nặng mà đón em gái là Tôn Thượng Hương về Đông Ngô.

Lã Mông đề xuất bắc phạt vào đầu năm 213. Tôn Quyền đích thân dẫn quân đến Nhu Tu và nhờ vào các pháo đài của Lã Mông dựng lên để chống lại các đợt phản kích của quân Tào. Vào thời điểm đó, Tào Tháo cử thủy quân cố gắng phá vỡ phòng tuyết của Tôn Quyền, nhưng bị các tàu của Tôn Quyền bao vây và tiêu diệt. Cuối cùng, các pháo đài của Lã Mông phòng thủ chắc chắn và khi mưu mùa xuân đến, Tào Tháo phải triệt thoái.

Sau thất bại của Tào Tháo tại Nhu Tu, nhiều người dân ở lưu vực sông Dương Tử chạy về phía nam theo Tôn Quyền. Ngoại trừ Vạn An và những vùng gần đó, thì miền đất ven sông gần như bỏ hoang. Năm 214, Tào Tháo sai Chu Quảng đến Vạn An để gầy dựng lại vùng đất này và củng cố nó dưới quyền kiểm soát của Tào Tháo. Chu Quảng thực hiện các chánh sách nông nghiệp, và cũng thường kích động các toán cướp nổi loạn quấy nhiễu đất của Tôn Quyền. Lã Mông sợ rằng nếu chánh sách của Chu Quảng thành công, sẽ củng cố nền thống trị của Tào Tháo ở vùng đất này và không dễ gì chiếm lại được. Tôn Quyền theo lời Lã Mông nhân khi mùa nước lũ mà cho thủy quân đến thành, tấn công bất ngờ. Thay vì chiến đấu lâu dài, Lã Mông, Cam Ninh và Lăng Thống dùng chiến thuật đánh nhanh phá vỡ các phòng tuyến của Chu Quảng, bao vây thành trì.

Sau khi Lưu Bị chinh phạt được Ích Châu, ông ta đã có đủ nguồn lương thực để cung cấp cho quân đội, nên Tôn Quyền cử Lỗ Túc làm sứ thần sang đòi Kinh Châu, nhưng Lưu Bị từ chối. Tôn Quyền bèn cử Lã Mông và Lăng Thống dẫn 20, 000 người đánh vào nam Kinh Châu và họ bao vây các thành Trường Sa, Quế Dương và Lan Lăng. Lúc này, Lỗ Túc và Cam Ninh tiến đến Ích Dương (益陽) với 10, 000 người (để ngăn cản Quan Công) và đảm nhận việc chỉ huy quân ở Lục Khẩu (陸口). Lưu Bị đích thân tới Công An và Quan Công dẫn 30, 000 quân tới Ích Dương. Khi tin tức về cuộc chiến bay về Hứa Xương, Tào Tháo tìm cách tấn công Hán Trung buộc Lưu Bị, phải tìm cách kí hiệp ước hòa bình với Tôn Quyền để phòng ngừa việc Tào Tháo chiếm giữ Hán Trung. Lưu Bị yêu cầu Tôn Quyền trả lại Lan Lăng cho mình; đổi lại, Lưu Bị cắt Trường Sa và Quý Dương cho Tôn Quyền, lấy sông Tương làm ranh giới.

Song, đó không phải là chiến thắng quyết định. Hầu hết quân Tào Tháo vẫn còn và còn có lực lượng lớn của Hạ Hầu Đôn đóng ở nay mặt bắc của Tôn Quyền. Điều này dẫn đến thế bế tắc vì khi Tôn Quyền giữ quân ở Nhu Tu, Hạ Hầu Đôn không thể tiến quân đánh xuống phía nam; nhưng sau khi Tôn Quyền rời khỏi Nhu Tu, Hạ Hầu Đôn sẽ lập tức gây chiến. Cũng vì lực lượng của Hạ Hầu Đôn quá đông nên khó có thể đuổi đi được. Tôn Quyền nhận thấy dùng binh không thuận lợi, vì thế dùng đến biện pháp ngoại giao. Năm 217, Tôn Quyền kết minh với Tào Tháo, công nhận Tháo là người đại diện hợp pháp của triều đình Hán. Về danh nghĩa là Tôn Quyền đã hàng Tào, Tào Tháo biết rằng Tôn Quyền sẽ không hài lòng nếu bị mình đối xử như bề tôi nên ông ta đồng ý cho Tôn Quyền giữ lại hầu hết các tước hiệu tự xưng khi trước và có toàn quyền cai quản Giang Đông. Tôn Quyền được phép tiếp tục cai trị độc lập nhưng về danh nghĩa là chư hầu của họ Tào.

Phá vỡ liên minh với Lưu Bị

Năm 219, Quan Vũ bắc phạt, tấn công Phàn Thành, giành chiến thắng trước quân của Tào Nhân. Phàn Thành không vẫn còn nằm trong tay quân Tào, Quan Vũ xua quân vây thành, tình hình nghiêm trọng đến nỗi Tào Tháo muốn bỏ quốc đô Hứa Xương chạy về phía Bắc. Tuy nhiên, Tôn Quyền, bực mình vì những hành động khiêu khích của Quan Vũ trước đó (bao gồm cả việc cướp lấy lương thực của Quyền để dùng cho chiến dịch bắc phạt), nắm lấy cơ hội này, sai Lã Mông cất quân dùng kế áo trắng qua đò mà đánh vào Kinh Châu. Hai tướng My Phương và Phó Sĩ Nhân bất bình với Quan Vũ, bèn dâng Giang Lăng và thành Công An cho Tôn Quyền. Quan Vũ hạ lệnh giải vây Phàn Thành rút lui về Kinh châu, mới biết Giang Lăng và Công An đã mất, phải chạy về Mạch Thành (phía đông nam đường từ Hồ Bắc tới Đương Dương). Tháng chạp năm 219, Tôn Quyền sai người dụ hàng Quan Vũ. Quan Vũ giả vờ đầu hàng, nhưng lại dẫn 10 kỵ quân chạy tới Lâm Thư nằm ở tây bắc Tương Dương thì bị tướng Ngô là Chu Nhiên và Phan Chương bắt mang về. Từ đó Đông Ngô khống chế toàn bộ phía nam sông Trường Giang, gồm Kinh châu và Dương châu.

Tôn Quyền giết chết Quan Vũ, sai người mang đầu ông đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo hậu táng cho Quan Vũ, lại phong Tôn Quyền làm Phiêu kị tướng quân, Kinh châu mục, tước Nam Xương hầu, nhằm làm Lưu Bị thù hận Tôn Quyền.

Sau khi Tào Tháo chết năm 220, Tào Phi buộc Hiến Đế thiện vị cho mình, kết thúc 400 năm của Nhà Hán và lập ra Tào Ngụy. Tôn Quyền không ngay lập tức quyết định xưng thần với Ngụy hoặc là chống lại Ngụy, mà chờ một thời gian để xem xét tình thế; ngược lại, đầu năm 221, Lưu Bị xưng là hoàng đế, lập ra nhà Thục Hán, em trai của Gia Cát Cẩn là Gia Cát Lượng, người nhiếp chính cho con trai và người thừa kế của Lưu Bị là Lưu A Đẩu, tái lập liên minh với Tôn Quyền, và hai bên vẫn duy trì liên minh này cho đến khi Thục bị diệt vong vào năm 263.

Chính quyền Tôn Quyền

thumb|Tôn Quyền

Thời kỳ đầu

Đầu thời Tôn Quyền, chính quyền Ngô vẫn hoạt động hiệu quả, vì ông biết nghe những lời can gián và biết trọng dụng những người tài năng. Thí dụ, ông tin tưởng vào lòng trung thành của Lục Tốn và Gia Cát Cẩn, vì thế ông cho làm một cái ấn tín và dưa đến chỗ Lục Tốn; bất cứ khi nào trao đổi công văn với Thục hoàng A Đẩu hoặc nhiếp chánh Gia Cát Lượng, ông đều viết thư cho Lục Tốn trước (vì chỗ đóng quân của Lục Tốn gần biên giới Thục), và sau đó, theo ý kiến của Tốn, ông sẽ sửa công văn lại ở những chỗ cần sửa, rồi đưa đến chỗ Tốn để đóng dấu ấn kia vào. Hơn thế nữa, Lục Tốn và Gia Cát Cẩn được ủy quyền điều phối quan hệ với Thục mà không cần báo trước với triều đình. Tôn Quyền đối xử với các quan chức cấp cao như bạn bè và gọi họ bằng tên tự cho nó thân thiết, do đó các quan đều hết lòng trung thành. Ông cũng biết dùng người vào đúng việc; thí dụ, năm 225, khi tìm người lên đảm nhiệm chức thừa tướng, trong khi các đại thần chủ chốt đều ủng hộ Trương Chiêu và muốn ông này làm tướng, Tôn Quyền đã từ chối, với lý do là mặc dù rất tôn trọng Chiêu, nhưng một Thừa tướng là người cần phải giải quyết hết công việc của quốc gia, và Chiêu, tuy có năng lực, nhưng thái độ cứng rắn của ông này dễ dẫn đến căng thẳng với Tôn Quyền và các quan chức khác. Ông cũng đề bạt viên chức Lã Phạm mặc dù, khi ông còn trẻ, Lã Phạm nhiều lần mách với Tôn Sách về thói quen chi tiêu lãng phí của Tôn Quyền, ông hiểu rằng Phạm làm vậy chỉ vì trung thành với chủ Tôn Sách.

Năm 224 và 225, Tào Phi lại tiến quân đánh Ngô, nhưng cả hai lần quân Ngụy đều đại bại – một cách dễ dàng và Tào Phi đã có lời than, "Trời làm Dương Tử để phân chia nam bắc." Tuy nhiên, Tôn Quyền cũng không đủ sức để tấn công sâu vào đất Ngụy. Thí dụ, khi Tào Phi băng hà vào năm 226, Tôn Quyền cất quân đánh vào Giang Hạ của Ngụy nhưng buộc phải lui về khi viện quân của Ngụy kéo đến. Quan trấn giữ Giao châu suốt 40 năm là Sĩ Nhiếp qua đời, con là Sĩ Huy tự lập làm Thái thủ. Tôn Quyền chia Giao châu ra làm hai châu Giao và Quảng, sai Lã Đại làm Thứ sử Quảng châu, Đái Lương làm Thứ sử Giao châu, sai Trần Thì đến thay Sĩ Nhiếp. Các quan của Ngô đến nơi thì Sĩ Huy đem quân ra chống giữ. Lã Đại cất quân đến thuyết phục anh em Sĩ Huy ra hàng, rồi giết hết bọn này và chấm dứt sự cai trị của họ Sĩ ở Giao Châu. Nhà Ngô lại hợp hai châu Giao và Quảng làm một, cho Lã Đại làm Thứ sử. Thêm vào đó, nhiều vương quốc độc lập ở các vùng đất mà nay là Campuchia, Lào, và miền nam Việt Nam đều xưng chư hầu với Ngô.

Lương thư có tường thuật về sự xuất hiện của các thương gia người La Mã (Đại Tần) năm 226 tại Giao Chỉ (lúc đó miền bắc Việt Nam nằm dưới sự đô hộ của Trung Quốc, có tên là Giao Chỉ). Quan ở Giao Châu đưa thương gia này tới triều đình của Tôn Quyền ở Nam Kinh. Tôn Quyền yêu cầu ông này giới thiệu về đất nước và người dân Đại Tần..

Ngày 23 tháng 6 năm 229, Tôn Quyền quyết định xưng đế, một hành động bị các triều thần bên Thục cho là một hành động phá vỡ liên minh, vì họ cho rằng việc Ngô xưng đế là phản lại Nhà Hán – còn Thục là chính quyền kế thừa hợp pháp của Hán. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng phản đối việc hủy liên minh và ngược lại đã kí một hiệp ước với Ngô vào cuối năm đó, theo đó hai bên hỗ trợ lẫn nhau cùng chống Ngụy và sau khi thành công thì phân chia đất đai. Cuối năm này, ông rời đô từ Vũ Xương đến Kiến Nghiệp, để thái tử Tôn Đăng, với sự hỗ trợ của Lục Tốn, trấn thủ lãnh địa phía tây của Đông Ngô.

Thời kì giữa

thumb|Thế cục Tam quốc qua từng năm. Năm 230, một trong những mầm mống cho sự suy tàn của triều đại Tôn Quyền đã đến. Năm đó, ông gửi các tướng Vệ Ôn (衛溫) và Gia Cát Trực (諸葛直) đem 10,000 thủy quân đến Biển Đông để thăm dò các đảo ở Nghi châu (夷洲) và Đam Châu (亶洲), có thể là Đài Loan hoặc Lưu Cầu, và rồi chinh phạt các đảo này, nhưng gặp sự can ngăn của Lục Tốn và Tiền Tông. Hải quân không thể đến được Đam Châu mà chỉ dừng lại ở Nghi châu, và triệt về năm 231 sau khi bắt được mấy nghìn người bản địa – nhưng tới 80-90% quân Ngô bị chết vì bệnh tật. Thay vì nhận sai lầm, Tôn Quyền lại xử tử Vệ Ôn và Gia Cát Trực. Có lẽ lo ngại về việc phụ thân dần kém minh mẫn, thái tử Tôn Đăng rời Kinh Tương và giao lại nơi này cho Lục Tốn năm 232 rồi trở về Kiến Nghiệp, và ông ta vẫn ởt Kiến Nghiệp cho đến khi qua đời năm 241. Năm 242, ông phái bọn Nhiếp Hữu đến châu Nhai Đam Nhĩ.

Năm 232, Tôn Quyền có một hành động sai lầm liên quan đến hải quân – khi ông cử các tướng Chu Hạ và Bùi Tiềm vượt biển đến chỗ quân phiệt đang xưng thần với Ngụy là Công Tôn Uyên, người nắm giữ vùng Liêu Đông (Liêu Ninh ngày nay), để mua ngựa, hành động này bị phản đối bởi Lã Phạm – trong cơn giận dữ, ông đày Lã Phạm ra đất Thương Ngô. Tuy nhiên, khi người của Tôn Quyền đến, chuyến đi hoàn toàn thất bại – cả Chu Hạ và Bùi Tiềm, trên đường trở về, bị hải quân của Ngụy chặn đánh và giết chết. Nhận ra sai lầm của mình, Tôn Quyền triệu hồi Lã Phạm về Kiến Nghiệp, tuy nhiên Lã Phạm chưa về đến nơi thì đã đổ bệnh mà chết.

Tuy nhiên, năm sau, Tôn Quyền lại phạm một sai lầm khác trong quan hệ ngoại giao với Công Tôn Uyên, khi đó Công Tôn đã gửi thư cho ông, tự nguyện xưng thần. Tôn Quyền cả mừng, và gia phong Công Tôn Uyên làm Yên vương và gia phong cho cửu tích, thậm chí còn gửi 10,000 quân vượt biển ra bắc để giúp Uyên chống Ngụy, không nghe theo lời khuyên của các cận thần cấp cao, trong đó có Trương Chiêu. Khi quân Ngô đến, tuy nhiên, Công Tôn Uyên phản bội lời hứa, đã giết các tướng của Tôn Quyền là Trương Di và Hứa Yến, những người được Tôn Quyền cử đến để ban chiếu gia phong cửu tích cho Uyên, và bắt giữ quân cứu viện của Ngô. Nghe được tin này, Tôn Quyền rất tức giận và muốn ngay lập tức thân chinh ra miền bắc để đánh Công Tôn Uyên, lúc đầu, ngay cả Lục Tốn cũng không thể ngăn cản ông, dù sau đó ông nhận ra được sai lầm và từ bỏ kế hoạch. Để bày tỏ lòng thành, ông đích thân tới nhà Trương Chiêu để xin lỗi ông này. Hơn thế nữa, mặc dù không còn nhanh nhạy và chính xác như trước đây, ông vẫn có khả năng đưa ra những quyết định định hợp lý. Ví dụ, năm 235, khi, Ngụy đế Tào Tuấn cho người mang ngựa đến và đề nghị đổi lấy ngọc trai, cẩm thạch, và mai rùa, một hành động chứng tỏ sự khinh miệt, Tôn Quyền đã bình tĩnh tỏ ra không quan tâm gì đến sự xúc phạm đến và đồng ý trao đổi, với lý do rằng nước Ngô đang cần ngựa chiến hơn là những thứ kia.

Tháng 5 năm 234, để hưởng ứng chiến dịch bắc phạt cuối cùng trong đời Gia Cát Lượng,

Cũng năm 238, khi tướng Ngụy là Tư Mã Ý nhận mệnh thảo phạt Công Tôn Uyển, Tôn Quyền, dù có mối thù từ trước với họ Công Tôn, vẫn nhận ra rằng mình có thể lợi dụng thời cơ nếu Tư Mã Ý thất bại, vì thế ông không ngay lập tức bác bỏ yêu cầu cứu viện từ Công Tôn Uyên. Tuy nhiên, vì Tư Mã Ý nhanh chóng đánh bại Công Tôn Uyên, Tôn Quyền không kịp cử quân bắc phạt theo kế hoạch. Cùng năm này Lã Nhất bị nghị tội gian tà và xử tử, Tôn Quyền mới thừa nhận sai lầm, và viết thư cho Gia Cát Cẩn, Bộ Chất, Chu Nhiên, và Lã Đại, tự mình nhận lỗi lầm trong mấy năm gần đây và đề nghị họ thẳng thắn can gián bất cứ khi nào thấy chủ công phạm phải sai lầm. Ngôi trữ quân bỏ trống khiến những tranh cãi trong triều nổi lên và việc này dần khiến Tôn Quyền chán nản và suy kiệt. Năm 242, ông lập con trai thứ ba là Tôn Hòa, do Vương thị sanh ra, làm hoàng thái tử

Năm 250, vì chán nản với việc Tôn Bá luôn tìm cớ hãm hại Tôn Hòa, Tôn Quyền đã có một hành động hết sức bất ngờ, ông buộc Tôn Bá phải tự tử, cùng lúc phế truất Tôn Hòa (người vốn không có lỗi gì), và sau đó lập ấu tử mới 8 tuổi, Tôn Lượng, làm thái tử thế cho Tôn Hòa. Việc này gặp phải sự phản đối của phò mã Thừa tướng Chu Cứ (chồng của con gái Tôn Quyền là Tôn Lỗ Dục), nhưng sự can ngăn của Chu Cứ không những chẳng giúp gì được cho Tôn Hòa, mà trái lại còn dẫn đến họa sát thân, vì Tôn Quyền đã buộc Chu Cứ phải tự sát sau đó. Nhiều quan chức phản đối việc phế trữ quân, cũng như bọn người theo phe Tôn Bá, đã bị hành quyết.

Trong thời gian này, Tôn Quyền sai các tướng cứ định kỳ lại đến phá các con đê ở gần biên giới với Ngụy, mục đích là khiến vùng đất này bị ngập lụt, từ đó khiến nước Ngụy không có thời gian rảnh mà tấn công xuống phía nam.

Năm 251, Tôn Quyền hạ chiếu lập hậu – người được chọn là mẫu thân của Tôn Lượng, phu nhân Phan Thục (trước đây, ông có rất nhiều vợ, nhưng chưa bao giờ phong một ai lên ngôi Chánh cung, chỉ có một ngoại lệ là Bộ phu nhân, người thị thiếp được sủng ái nhất, nhưng chỉ là truy phong sau khi bà qua đời năm 238). Cuối năm đó, tuy nhiên, thấy rằng Tôn Hòa không có lỗi nên Tôn Quyền muốn gọi Hòa trở về, nhưng cuối cùng do sự can thiệp của con gái ông là Tôn Lỗ Ban cùng tôn thất Tôn Tuấn, những người ủng hộ thái tử Tôn Lượng. Khi này ông đã rất già yếu (69 tuổi vào năm đó) và, theo kiến nghị của Tôn Tuấn, bổ nhiệm con trai của Gia Cát Cẩn là Gia Cát Khác làm nhiếp chính trong tương lai cho Tôn Lượng Vào thời điểm đó ở khắp nước Ngô, người ta vẫn ấn tượng với những thành tích gần đây của Khác, đều tin rằng Khác là lựa chọn thích hợp nhất cho địa vị nhiếp chính vương.

Năm 252, Tôn Quyền lập phế thái tử Tôn Hòa làm Nam Dương vương, con thứ 5 Tôn Phấn làm Tề vương, con thứ 6 Tôn Hưu làm Lang Nha vương. Cùng năm đó, khi Tôn Quyền bệnh trọng đang hấp hối, Phan hoàng hậu bị cung nhân ám sát, nhưng sự việc cụ thể diễn ra như thế nào vẫn là một bí ẩn. Các quan chức của Ngô tuyên bố rằng do hoàng hậu tính tình độc ác và khắc nghiệt, khiến cung nhân căm ghét, nên họ nhân khi bà đang ngủ đã xông vào cung bóp cổ tới chết, trong khi nhiều sử gia, bao gồm Hồ Tam Tỉnh, người viết bài bình cho Tư trị thông giám cho Tư Mã Quang, tin rằng việc này là do thế lực triều thần ở Ngô làm ra, vì họ sợ Phan thị sẽ chiếm lấy quyền lực khi trở thành hoàng thái hậu lúc Tôn Quyền không còn. Ngày 21 tháng 5 năm 252, Tôn Quyền mất ở tuổi 70 (theo cách tính tuổi truyền thống của phương Đông), và Tôn Lượng lên kế ngôi. Tôn Quyền được an táng vào tháng 8 hoặc tháng 9 năm 252 tại một lăng mộ đặt tại Tử Kim Sơn ngày nay là Nam Kinh. '' Mắt xanh, râu đỏ, chí anh hùng, Khéo khiến thân liêu chịu hết lòng, Hăm bốn năm giời gây nghiệp lớn, Hổ ngồi, rồng cuộn xứ Giang Đông.

''

Trần Thọ trong Tam quốc chí nói về Tôn Quyền: :Tôn Quyền cúi mình nhẫn nhục, ưa tài chuộng kế, có cái anh hào của Câu Tiễn, là bậc hùng kiệt trong muôn người vậy. Cho nên tự nắm giữ được miền Giang Biểu, lập nên nghiệp chân vạc. Nhưng tính hay nghi ngờ, vội vàng giết chóc, cho đến năm cuối đời lại càng thêm xấu. Đến như tin lời gièm mà làm mất đức, phế bỏ người nối dõi, há gọi là mưu nghĩ giúp đỡ cho con cháu được yên sao? Dòng dõi sau này suy yếu, bèn dẫn đến mất nước, không hẳn là không do từ đó vậy.

Gia đình

thumb|Hoàng hậu [[Phan Thục.]] Ông: Tôn Chung (孫鍾) Cha: Tôn Kiên, truy tôn miếu hiệu là Thủy Tổ (始祖), thụy hiệu là Võ Liệt hoàng đế (武烈皇帝). Mẹ: Ngô phu nhân, sau truy tôn thụy hiệu Võ Liệt hoàng hậu (武烈皇后). Mẹ nuôi: Ngô quốc thái, em gái của Ngô phu nhân. *Anh chị em:

Tôn Sách, sau truy tôn là Trường Sa Hoàn vương (長沙桓王).

Tôn Dực. Ông có một người vợ là Từ phu nhân, vừa đẹp vừa tài. Một tên gia thần thèm muốn sắc đẹp của bà mà sát hại Tôn Dực, bà đã lập mưu giết chết nghịch thần.

Tôn Khuông.

Tôn Lãng.

Tôn Thượng Hương, gả cho Lưu Bị.

*Thê thiếp:

Tạ phu nhân (謝夫人), chị của Tạ Thừa. Nhan sắc và thiên chất của nàng nổi tiếng Giang Đông nên được coi là môn đăng hộ đối với nhà Tôn gia. Chủ trì cho cuộc hôn nhân này chính là mẹ của Tôn Quyền Ngô quốc thái. Nhưng không may Tạ phu nhân qua đời quá sớm khi chưa kịp sinh quý tử cho Tôn gia. Cái chết của Tạ phu nhân chính là do sự sủng ái của Tôn Quyền dành cho Từ phu nhân nên nàng bị ghẻ lạnh ấm ức mà chết.

Từ phu nhân (徐夫人), sinh Tôn Đăng. Nhờ dựa phúc của con trai, mỹ nữ này được Tôn Quyền phong làm Hoàng hậu. Phan phu nhân bắt đầu thể hiện là một người rất có dã tâm, trước tiên bà xin Tôn Quyền cho phép chị ruột của mình ra khỏi cung để xuất giá, sau đó thường xuyên dùng lời đường ngọt mê hoặc Tôn Quyền, vu oan giáng họa cho các phu nhân khác ở hậu cung, từ đó có thể một mình sở hữu Tôn Đế. Không chỉ có vậy, người này còn vô cùng quá quắt với người hầu, vì thế mà cuối cùng chết dưới tay của cung nữ trong cung. Rước phải một xà nữ như vậy, Tôn Quyền có thể không hối hận sao.

Bộ phu nhân (步夫人), tính tình ôn hòa, cẩn túc, phong thái đĩnh đạc, thông minh nên ông luôn tin kính và quý mến bà. Sinh 2 công chúa. Sau khi mất truy tặng Hoàng hậu (không có thụy hiệu).

Trọng Cơ (仲姬), sinh Tôn Phấn.

  • Con trai:

    Tôn Đăng, tự Tử Cao (子高).

    Tôn Lự, tự Tử Trí (子智).

    Tôn Hòa, tự Tử Hiếu (子孝).

    Tôn Bá, tự Tử Uy (子威).

    Tôn Phấn, tự Tử Dương (子揚).

    Tôn Hưu, tự Tử Liệt (子烈). Hoàng đế thứ ba của Đông Ngô.

    Tôn Lượng, tự Tử Minh (子明). Hoàng đế thứ hai của Đông Ngô, bị quyền thần phế truất.

  • Con gái

    Tôn Lỗ Ban (孫魯班), nhũ danh Đại Hổ, lấy Chu Tuần (周循), sau lấy Toàn Tông (全琮).

    Tôn thị, lấy Lưu Toản, mất sớm.

    Tôn Lỗ Dục (孫魯育), nhũ danh Tiểu Hổ, lấy Chu Cứ (朱據), sau lấy Lưu Toản.

    Tôn thị, lấy Đằng Dận (滕胤).

  • Con nuôi

    Lăng Liệt, con trưởng của Lăng Thống

    Lăng Phong, con thứ của Lăng Thống. Cả hai anh em được Tôn Quyền nuôi ở trong cung từ nhỏ, sau phong là Đình hầu

Niên hiệu

Tôn Quyền xưng vương năm 222, xưng đế năm 229, qua đời năm 252, tổng cộng trong 30 năm, cải nguyên 6 lần

  • Hoàng Vũ () 222–229
  • Hoàng Long () 229–231
  • Gia Hòa () 232–238
  • Xích Ô () 238–251
  • Thái Nguyên () 251–252
  • Thần Phượng () 252

Trong văn hóa hiện đại

Trò chơi điện tử

Tôn Quyền xuất hiện như một nhân vật trong loạt video games Dynasty WarriorsWarriors Orochi của Koei.

Trong trò chơi thẻ Magic: The Gathering có một thẻ gọi là "Tôn Quyền, Chúa của Ngô''.

Trong trò chơi board game của Trung Quốc Tam Quốc Sát, có một thẻ anh hùng Tôn Quyền mà người chơi có thể chọn nó khi bắt đầu lượt đầu tiên.

Trong bộ phim The Weird Man của Shaw Brothers Studio, Tôn Quyền xuất hiện ở phần cuối cùng phim khi Tôn Sách lập ông làm người kế vị trước khi qua đời sau vụ ám tiến hành bởi Hứa Cống và Vu Cát.

Tôn Quyền cũng là nhân vật xuất hiện trong trò chơi điện tử Puzzle & Dragons như một phần của series Three Kingdoms Gods.

Trong phim ảnh

Nhân vật Tôn Quyền xuất hiện trong khá nhiều bộ phim về đề tài Tam quốc như

  • Tam Quốc diễn nghĩa (1994), do Ngô Hiểu Đông thủ vai
  • Diễn viên người Đài Loan Trương Chấn thủ vai Tôn Quyền trong hai phần của bộ phim về Xích Bích năm 2018 về đề tài chiến tranh của đạo diễn Ngô Vũ Sâm.
  • Tam Quốc (2010) do Trương Bác thủ vai
  • Đại quân sư Tư Mã Ý chi Quân sư liên minh (2017) do Đinh Hải Phong thủ vai
  • Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân (2006), Tướng soái cổ đại Trung Hoa, tập 1, Nhà xuất bản Lao động.
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôn Quyền** (; 5 tháng 7 năm 182– 21 tháng 5, 252), tự là **Trọng Mưu** (仲谋), thụy hiệu **Ngô Đại Đế** (吴大帝, tức là "Hoàng đế lớn của Ngô"), là người sáng lập của
Thông tin về Đồ Chơi Lắp Ráp Gundam Tôn Quyền Tam Quốc lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà triều đình ngày càng bê tha, hư nát, khiến kinh tế
**Lục Tốn** (chữ Hán: 陸遜; 183 - 245), tên tự ** Bá Ngôn ** (伯言), là 1 tướng lĩnh quân sự và chính trị gia của nhà Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu
**Tôn Sách** (chữ Hán: 孫策; 174 - 200), tự **Bá Phù** (伯符), là một viên tướng và một lãnh chúa trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam Quốc
Đây là một **chỉ mục chủ đề bảo tồn**. Đây là một chỉ số theo thứ tự chữ cái bài liên quan đến bảo tồn sinh học và bảo tồn môi trường tự nhiên. ##
thumb|Logo của Phong trào đấu tranh cho Nhân quyền, kết hợp giữa biểu tượng [[hòa bình|chim hòa bình và bàn tay]] **Nhân quyền** (hay **quyền con người**; tiếng Anh: _human rights_) là những quyền tự
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
|Số khu dự trữ sinh quyển thế giới tại các nước **Khu dự trữ sinh quyển thế giới** là một danh hiệu do UNESCO trao tặng cho các khu bảo tồn thiên nhiên có hệ
Chiêu thức _Đơn tiên_ trong Quyền lộ [[Trần thức Thái cực quyền|Trần gia Thái cực quyền]] **Thái cực quyền** (chữ Hán phồn thể: 太極拳; chữ Hán giản thể: 太极拳; bính âm: Taijiquan; Tiếng Anh: Tai
Nhân quyền tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một vấn đề tranh cãi giữa chính phủ Trung Quốc và các nước khác cũng như các tổ chức phi chính phủ. Bộ Ngoại giao
**Danh sách dị giáo phái theo quan điểm của Chính quyền** (_Governmental lists of cults and sects_) là việc phân loại các tôn giáo, giáo phái, các hội nhóm tôn giáo, tín ngưỡng được Chính
**Tôn Lỗ Ban** (chữ Hán: 孫魯班; khoảng 229-258), biểu tự **Đại Hổ** (大虎), là một công chúa của hoàng tộc Đông Ngô thời kỳ Tam Quốc Trung Quốc, con gái của Tôn Quyền, hoàng đế
**Kỳ thị tôn giáo** hay **phân biệt đối xử tôn giáo** là việc đối xử với một người hoặc một nhóm người khác nhau vì niềm tin cụ thể mà họ có về một tôn
**Tôn Kiên** (chữ Hán: 孫堅; (155-191), tên tự là **Văn Đài** (文臺), là người đặt nền móng xây dựng nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Đương thời ông là tướng
Vấn đề **nhân quyền tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** rất khó để đánh giá toàn diện vì nó bị xem là vấn đề bí mật và nhạy cảm ở quốc gia
Quốc giáo của nhà Thương () là một tôn giáo cổ đại của Trung Quốc, trong đó các tín đồ được đào tạo giao tiếp với nhiều vị thần, bao gồm tổ tiên và các
nhỏ|300x300px|Những đám mây xoáy vòng đầy màu sắc của Sao Mộc. Một ảnh chụp [[Vết Đỏ Lớn, dùng màu giả, từ Voyager 1. Cơn bão hình bầu dục màu trắng phía dưới Vết Đỏ Lớn
phải|nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily ở Moskva]] **Tôn giáo tại Nga** là một tập hợp các tôn giáo được thành lập trên lãnh thổ Liên bang Nga. Hiến pháp Liên bang Nga hiện hành
**Tôn Lỗ Dục** (chữ Hán: 孙鲁育; ?-255), biểu tự **Tiểu Hổ** (小虎), là một công chúa Đông Ngô thời Tam Quốc của Trung Quốc. Bà là con gái nhỏ của Tôn Quyền, hoàng đế khai
**Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền** (**TNQTNQ**) là văn kiện quốc tế đặt ra các quyền con người được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào ngày 10 tháng 12 năm 1948 ở
Vùng sinh thái phù sa ven biển đặc trưng ở bãi ngang - [[cồn nổi (Kim Sơn, Ninh Bình)]] Vị trí 3 tiểu khu (màu đỏ) của khu dự trữ sinh quyển thế giới châu
**Chiến tranh Tôn giáo Pháp** là một chuỗi gồm tám cuộc tranh chấp giữa phe Công giáo và phe Huguenot (Kháng Cách Pháp) từ giữa thế kỷ 16 kéo dài đến năm 1598. Ngoài những
**Giáo dục nhân quyền** có mục đích giúp mọi người có khả năng nhận thức được các quyền của mình và tích cực tranh đấu cho các quyền lợi của riêng mình cũng như của
**Tôn Thiệu** (, 162-225) là thừa tướng đầu tiên của nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ cho chính quyền Đông Ngô của họ Tôn nhưng không phải
**Công ước châu Âu về Nhân quyền**, tên chính thức là **Công ước bảo vệ Nhân quyền và các quyền Tự do căn bản** () là một hiệp ước quốc tế nhằm bảo vệ nhân
**Tôn Lượng** (chữ Hán: 孫亮, bính âm: Sun Liang (243 - 260) tự là **Tử Minh** (子明), là vị hoàng đế thứ hai của nhà Đông Ngô trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử
**Tôn giáo tại Hoa Kỳ** đặc trưng bởi sự đa dạng các niềm tin và thực hành tôn giáo. Theo các cuộc thăm dò ý kiến gần đây, 76% tổng số dân Hoa Kỳ nhận
**Tôn Tuấn** (chữ Hán: 孫峻; 219–256), tên tự là **Tử Viễn** (子遠), là thừa tướng thứ 5 nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới thời hoàng đế
nhỏ|[[Hoàng đế La Mã Augustus trong vai thần Jupiter, tay cầm quyền trượng và quả cầu (nửa đầu thế kỷ 1 CN)]] **Thần quyền** là một dạng của chế độ chuyên quyền, trong đó một
thumb|right|[[Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ|Khu bảo tồn thiên nhiên rừng ngập mặn Cần Giờ.]] **Các khu bảo tồn tại Việt Nam** bao gồm các khu bảo tồn thiên nhiên, các
**Quyền đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới ở Úc** đã phát triển từ cuối thế kỷ XX đến thời điểm người LGBT ở Úc được bảo vệ khỏi sự phân
**Phong trào quyền động vật** (_Animal rights movement_) hay **phong trào bảo vệ quyền động vật** và đôi khi được gọi là **phong trào giải phóng động vật** hay **phong trào bảo vệ động vật**
**Ngoại quyển** là khu vực cao nhất của bầu khí quyển Trái Đất (nghĩa là nó là giới hạn trên của khí quyển) khi nó dần dần biến thành khoảng trống của không gian. Không
**Quyền động vật trong các tôn giáo Ấn Độ** là quan điểm, quan niệm, giáo lý, học thuyết của các tôn giáo lớn ở Ấn Độ bao gồm Ấn Độ giáo (Hindu giáo), Phật giáo
**Quốc gia tàn tồn** (tiếng Anh: _Rump state)_ là một tàn tích của một quốc gia từng lớn hơn nó nhiều, tức diện tích của nó nhỏ hơn, có thể sau một cuộc ly khai,
Tự do tín ngưỡng và tôn giáo là quyền được thực hiện các hành vi tôn giáo, theo đuổi một tín ngưỡng của một cá nhân một cách tự do. Nó được nhiều người cho
nhỏ|320x|Các biểu tượng của các tôn giáo lớn trên thế giới (từ trái qua phải)
Hàng 1: [[Kitô giáo, Do Thái giáo, Ấn Độ giáo
Hàng 2: Hồi giáo, Phật giáo, Thần đạo
Hàng 3:
**Tôn thức Thái cực quyền**, **Tôn gia Thái cực quyền** hay **Tôn thị Thái cực quyền** (孫式, 孫家, 孫氏 太極拳), còn gọi là **Khai hợp hoạt bộ Thái cực quyền** (開合活步太極拳), là dòng phái Thái
**Tôn phu nhân** (chữ Hán: 孫夫人), 190-266, là một người vợ Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị, người đã lập ra Thục Hán vào thời kì thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Theo
**Độc quyền** là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm đó cho người mua mà không có bất kỳ sự lựa chọn nào khác giữa
**Tôn Hạo** (chữ Hán: 孫皓; bính âm: Sun Hao, 242-284), hay **Ngô Mạt đế** (吳末帝), là hoàng đế cuối cùng của nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con
**Hà Tông Quyền** hay **Hà Tôn Quyền** (chữ Hán: 何宗權, 1798 -1839), sau phải đổi là **Hà Quyền** do kiêng tên húy của Vua Thiệu Trị (Nguyễn Phước Miên Tông), tự là **Tốn Phủ**, hiệu
**Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị** (tiếng Anh: _International Covenant on Civil and Political Rights_, viết tắt: **ICCPR**) là một công ước quốc tế do Đại Hội đồng Liên
**Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông** bao gồm các tranh chấp về đảo và vùng biển. Quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa là hai quần đảo trên các rạn san hô
**Ngô phu nhân**(156-?207) (chữ Hán: 吴夫人), còn gọi **Tôn Phá Lỗ Ngô phu nhân** (孙破虏吴夫人), **Ngô Thái phi** (吴太妃) hay **Vũ Liệt Ngô hoàng hậu** (武烈吴皇后), là vợ của Phá Lỗ tướng quân Tôn Kiên,
**Tuyên bố Nhân quyền ASEAN** (tiếng Anh: _ASEAN Human Rights Declaration_, viết tắt là AHRD) là văn bản tuyên bố chung về nhân quyền của các nước ASEAN trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao
Theo Chương trình con người và khu dự trữ sinh quyển của UNESCO, hiện nay có 290 khu dự trữ sinh quyển được công nhận như là một phần của mạng khu dự trữ sinh
alt=Map of the South East China|thumb|Trung quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền [[Đường lưỡi bò đối với Biển Đông]] **_Vụ Philippines kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông_** là việc Philippines đệ đơn
**Tôn Phụ** (; ? – ?), tự **Quốc Nghi** (國儀), là tướng lĩnh dưới quyền quân phiệt Tôn Sách, Tôn Quyền thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tôn Phụ quê
Biểu trưng thường gặp của các tôn giáo Abraham: [[Ngôi sao David (ở trên cùng) của Do Thái giáo, Thánh giá (ở dưới bên trái) của Cơ Đốc giáo, và từ Allah được viết theo