Ngô phu nhân(156-?207) (chữ Hán: 吴夫人), còn gọi Tôn Phá Lỗ Ngô phu nhân (孙破虏吴夫人), Ngô Thái phi (吴太妃) hay Vũ Liệt Ngô hoàng hậu (武烈吴皇后), là vợ của Phá Lỗ tướng quân Tôn Kiên, một vị quân phiệt thời cuối Đông Hán, người đặt cơ sở hình thành nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Lấy chồng
Ngô phu nhân người huyện Ngô, Ngô quận (nay là Tô Châu, Giang Tô). Gia thế của bà không được ghi chép, nhưng dựa vào việc Viên Thiệu tiến cử em trai bà là Ngô Cảnh (吳景) làm quan Thái thú ở Đan Dương, thì người ta suy ra gia đình bà cũng có gốc nho giáo có địa vị khá cao. Bà nổi tiếng là người tài sắc vẹn toàn. Tôn Kiên khi đó là Quan huyện đã cầu hôn bà.
Gia đình bà thấy Tôn Kiên vũ phu và ngông cuồng nên không muốn gả, định từ hôn khiến Tôn Kiên vừa xấu hổ vừa căm hận. Trong hoàn cảnh đó, bà đã đứng ra thuyết phục cả nhà không nên vì mình mà gây oán với Tôn Kiên, hãy coi đó là số mệnh. Vì vậy gia đình bà gả bà cho Tôn Kiên. Bà trở thành Ngô phu nhân được ghi trong sử sách.
Tôn Kiên và Ngô phu nhân có bốn người con trai là Tôn Sách, Tôn Quyền, Tôn Dực và Tôn Khuông; cùng 1 người con gái, nhưng không rõ đó có phải là Tôn phu nhân, người gả cho Lưu Bị hay không.
Theo con
Năm Sơ Bình thứ 2 (191), Tôn Kiên tử trận trong khi giao chiến ở Tương Dương với Kinh Châu thái thú là Lưu Biểu, bà cùng bốn con nhỏ là Tôn Quyền, Tôn Dực và Tôn Khuông, Tôn thị được con cả Tôn Sách đưa về huyện Giang Đô gửi một người quen là Trương Hoằng.
Đương thời, Ngô phu nhân có người em là Ngô Cảnh. Tôn Sách đến gặp sứ quân Viên Thuật – người cộng tác với Tôn Kiên trước đây - vừa từ Nam Dương chạy sang phía đông, chiếm đóng Thọ Xuân. Viên Thuật đã phong cho Ngô Cảnh làm Thái thú quận Đan Dương (丹楊, ngày nay là Tuyên Thành, An Huy) và sai Tôn Sách đến theo giúp Ngô Cảnh. Tôn Sách bèn đón Ngô phu nhân cùng các em, đi cùng một người trong họ là Tôn Hà và người ở Nhữ Nam là Lã Phan đến Khúc A theo Ngô Cảnh. Tôn Sách dựa vào Ngô Cảnh bắt đầu xây dựng lực lượng nhưng không thành công, lại quay trở lại Thọ Xuân nương tựa Viên Thuật.
Năm Hưng Bình nguyên niên (194), triều đình Hán Hiến Đế do quyền thần Lý Thôi, Quách Dĩ muốn chống lại Viên Thuật, bèn bổ nhiệm Lưu Do làm Thứ sử của Dương Châu. Lưu Do không thể đối địch được với Viên Thuật nên không dám tới trị sở Dương Châu ở Thọ Xuân mà tới đóng nhiệm sở tại Khúc A thuộc Đan Dương. Thái thú Ngô Cảnh cùng Đô úy Tôn Bí (anh họ Tôn Sách) đã nghênh đón Lưu Do tới nhiệm sở Khúc A.
Ngô phu nhân còn giữ ngọc tỷ truyền quốc do Tôn Kiên khi còn sống đã bắt được lúc tiến quân vào Lạc Dương. Viên Thuật muốn giành ngọc tỷ, nên ép bà phải giao nộp. Ngô phu nhân bèn đưa ngọc tỷ tới cho Viên Thuật. Viên Thuật có ngọc tỷ muốn xưng đế. Lưu Do cho rằng Ngô Cảnh và Tôn Bí là người cùng phe với Thuật bèn bất ngờ xuất quân đánh úp hai người để giải trừ mối lo. Ngô Cảnh và Tôn Bí phải bỏ Đan Dương chạy sang bên kia sông Trường Giang đóng ở Lịch Dương. Ngô phu nhân được Ngô Cảnh đưa từ Khúc A về Lịch Dương.
Viên Thuật và Lưu Do dàn quân tranh giành Dương châu. Theo lệnh của Viên Thuật, Ngô Cảnh cùng Tôn Bí mang quân chống Lưu Do. Hai bên đánh nhau lâu ngày không phân thắng bại. Tôn Sách bèn xin lĩnh quân ra mặt trận đánh Lưu Do. Được sự đồng ý của Viên Thuật, Tôn Sách mang 1000 quân tới Lịch Dương. Nhưng Tôn Sách lại muốn xây dựng cơ sở quân sự tại đây, sợ mẹ bị kinh động vì chiến tranh, nên sai người đưa bà huyện Phụ Lăng.
Năm Kiến An thứ 4 (199), Viên Thuật chết sau khi xưng đế được vài năm. Tôn Sách có sự phò trợ của các tướng cũ của Tôn Kiên đánh chiếm được 5 quận Giang Đông, được Tào Tháo nhân danh Hán Hiến Đế phong làm Thái thú Cối Kê. Ngô phu nhân được đón về quận Cối Kê.
Năm Kiến An thứ 5 (200), Tôn Sách đột ngột qua đời. Con thứ hai của Ngô phu nhân là Tôn Quyền lên nối nghiệp anh. Trong khi Tào Tháo chinh phục phía bắc thì Tôn Quyền nhiều năm chinh chiến với Lưu Biểu ở Kinh châu, vừa để mở bờ cõi sang phía tây, vừa để báo thù cho cái chết của Tôn Kiên khi tham chiến với Lưu Biểu.
Ngô phu nhân qua đời trước trận Xích Bích. Sử sách có những cách nói khác nhau, dẫn tới suy luận thời điểm này có thể là năm 202 (Kiến An thứ 7) hoặc 207 (Kiến An thứ 12).
Sau này Tôn Quyền xưng đế (229) đã truy tôn bà là Vũ Liệt hoàng hậu (武烈皇后), hợp táng cùng Tôn Kiên ở Cao lăng (高陵).
Trong Tam Quốc diễn nghĩa
Chân dung Ngô phu nhân trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung khá mờ nhạt. Bà có một người em gái là Ngô quốc thái cũng lấy Tôn Kiên, đây là nhân vật do La Quán Trung hư cấu, không có thật.
Tại hồi 29, khi Tôn Sách qua đời, Ngô phu nhân lo lắng về người kế vị, Tôn Sách đã trấn an bà về tài năng của Tôn Quyền. Sau này bà mất, cũng nhắc lại lời trăng trối của Tôn Sách để Tôn Quyền nhớ: "Việc trong không quyết được thì hỏi Trương Chiêu, việc ngoài không quyết được thì hỏi Chu Du".
Khi bà mất, em gái là Ngô quốc thái thay vai trò làm "Quốc mẫu" vùng Giang Đông, có vai trò ảnh hưởng lớn tới Tôn Quyền.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngô phu nhân**(156-?207) (chữ Hán: 吴夫人), còn gọi **Tôn Phá Lỗ Ngô phu nhân** (孙破虏吴夫人), **Ngô Thái phi** (吴太妃) hay **Vũ Liệt Ngô hoàng hậu** (武烈吴皇后), là vợ của Phá Lỗ tướng quân Tôn Kiên,
**Chương Kính Ngô hoàng hậu** (chữ Hán: 章敬吳皇后; ? - 730), thông xưng **Ngô phu nhân** (吳夫人), là cơ thiếp của Đường Túc Tông Lý Hanh khi ông còn là Thái tử. Bà được biết
**Tôn phu nhân** (chữ Hán: 孫夫人), 190-266, là một người vợ Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị, người đã lập ra Thục Hán vào thời kì thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Theo
**Tôn Kiên** (chữ Hán: 孫堅; (155-191), tên tự là **Văn Đài** (文臺), là người đặt nền móng xây dựng nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Đương thời ông là tướng
nhỏ|Những nghiên cứu phủ nhận quá trình ấm lên toàn cầu do con người gây nên được kiểm duyệt bởi hội đồng chuyên gia là gần như không tồn tại trong khoảng 2013-14. Hơn 99.99%
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Hà Nam** (Tiếng Trung Quốc: 河南省人民政府省长, Bính âm Hán ngữ: _Hé Nán shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Hà Nam tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thiên Tân** (Tiếng Trung Quốc: **天津市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Tiān Jīn shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán – Việt: _Thiên Tân thị Nhân dân Chính
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Bắc Kinh** (Tiếng Trung Quốc: **北京市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Běijīng shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Bắc Kinh thị Nhân dân Chính phủ
**Tỉnh trưởng Chính phủ nhân dân** (, bính âm Hán ngữ: _Shěng jí Xíngzhèngqū Xíngzhèng Shǒuzhǎng_, Từ Hán – Việt: _Tỉnh cấp hành chính khu Hành chính Thủ trưởng_) là vị trí cán bộ, công
**Mary Churchill, Công tước phu nhân xứ Montagu** (15 tháng 7 năm 1689 – 14 tháng 5 năm 1751), là một quan chức triều đình và quý tộc người Anh, vợ của John Montagu, Công
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Cam Túc** (tiếng Trung: 甘肃省人民政府省长, bính âm: _Gān Sù shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Cam Túc tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu cử bởi Đại
**Chính phủ Nhân dân thành phố Đặng Châu thứ hai** () hoặc **Chính phủ Nhân dân thành phố Đặng Châu mới** (), là chính quyền địa phương giả mạo do ba người nông dân tên
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng** (Tiếng Trung Quốc: **西藏自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Xī Zàng Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, Từ Hán - Việt: _Tây Tạng tự trị Khu Nhân
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Trùng Khánh** (Tiếng Trung Quốc: **重庆市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Chóng Qìng shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Trùng Khánh thị Nhân dân Chính
**Tôn Quyền** (; 5 tháng 7 năm 182– 21 tháng 5, 252), tự là **Trọng Mưu** (仲谋), thụy hiệu **Ngô Đại Đế** (吴大帝, tức là "Hoàng đế lớn của Ngô"), là người sáng lập của
**Ngô Phù Sai** (; ? - 473 TCN) hay **Ngô vương Phù Sai** (吳王夫差), tên thật là **Cơ Phù Sai** (姬夫差), là vị vua thứ 25 của nước Ngô thời Đông Chu trong lịch sử
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**Tôn Sách** (chữ Hán: 孫策; 174 - 200), tự **Bá Phù** (伯符), là một viên tướng và một lãnh chúa trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam Quốc
**Tôn Tú** (chữ Hán: 孙秀, ? – 301 hoặc 302), tên tự là **Ngạn Tài**, người Phú Xuân, Ngô Quận , tông thất nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Ngô Cảnh** (; ? – 203) là tướng lĩnh dưới quyền quân phiệt Viên Thuật, Tôn Sách và Tôn Quyền cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Theo Viên Thuật Ngô Cảnh
**Ngô quốc thái** () là nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết _Tam quốc diễn nghĩa_ của La Quán Trung. Trong tiểu thuyết, nhân vật này là vợ thứ Tôn Kiên – tướng nhà Hán
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Ngô Nhật Khánh** (chữ Hán: 吳日慶; ? - 979), Tước hiệu **Ngô Lãm công** (吳覽公) hoặc **Ngô An vương** (吳安王), là một thủ lĩnh thời 12 sứ quân
**Lãnh đạo Đảng và Nhà nước** là thuật ngữ chính trị được sử dụng trên các phương tiện truyền thông về các lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc.Tại
**Tôn Khuông** (; 180 - ?), tự **Quý Tá** (季佐), là em trai của quân phiệt Giang Đông Tôn Sách, Tôn Quyền. ## Cuộc đời Tôn Khuông quê ở huyện Phú Xuân, quận Ngô, Dương
**Tôn Hòa** (chữ Hán:孫和; 224-253) ông là hoàng thái tử nhà Đông Ngô con thứ 3 **Ngô Đại Đế** Tôn Quyền và là cha của **Ngô Mạt Đế** Tôn Hạo. Sau khi con ông Tôn
**Tôn Lãng** (), hay **Tôn Nhân** () là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tôn Lãng quê ở huyện Phú Xuân, quận Ngô, Dương Châu, là
**Duệ Chân Thẩm Hoàng hậu** (chữ Hán: 睿真沈皇后; _không rõ năm sinh năm mất_), là thiếp của Đường Đại Tông khi còn là Quảng Bình vương, đồng thời là sinh mẫu của Đường Đức Tông
**Vũ Tuyên Biện Hoàng hậu** (chữ Hán: 武宣卞皇后; 30 tháng 12, 159 – 9 tháng 7, 230), còn gọi là **Biện phu nhân** (卞夫人), là kế thê của Ngụy Vũ Đế Tào Tháo, người đặt
**Bạc phu nhân** (chữ Hán: 薄夫人, ? - 155 TCN), thường gọi là **Bạc Cơ** (薄姬), là một phi tần của Hán Cao Tổ Lưu Bang, Hoàng đế sáng lập ra nhà Hán, mẹ sinh
**Đinh phu nhân** (chữ Hán: 丁夫人) là chính thất của Tào Tháo, người đặt cơ sở hình thành nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc. Tào Tháo vốn là người túc trí, đa mưu và cũng
**Phụng Thánh phu nhân** (chữ Hán: 奉聖夫人, 1108 - 18 tháng 9, 1171), là một phi tần của hoàng đế Lý Thần Tông, em gái của Linh Chiếu hoàng thái hậu, mẹ của Lý Anh
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
Ỷ Thiên Đồ Long ký là bộ tiểu thuyết nằm trong Xạ điêu tam bộ khúc của Kim Dung, phần tiếp theo của Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ, trong truyện có
Tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" về cơ bản dựa trên chính sử "Tam quốc chí" tiểu thuyết hóa. Các học giả đều thống nhất nhận định rằng "Tam quốc diễn nghĩa" sử dụng thủ
**_Trung nghĩa Thủy hử truyện_** (忠義水滸傳), thường được biết đến tới tên gọi **_Thủy hử truyện_** (水滸傳), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được sáng tác thời cuối Nguyên đầu Minh. Tác giả của
**Lục Tốn** (chữ Hán: 陸遜; 183 - 245), tên tự ** Bá Ngôn ** (伯言), là 1 tướng lĩnh quân sự và chính trị gia của nhà Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu
**Phù Nam** (chữ Hán: 夫南, , ) là tên gọi được đặt cho một quốc gia cổ theo mô hình Mandala trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện khoảng thế kỉ 1 trước Công
**Tôn Hưu** (chữ Hán: 孫休, bính âm: Sun Xiu) (234 - 3/9/264), tự là **Tử Liệt** (子烈), sau này trở Ngô Cảnh Hoàng đế, vị quân chủ thứ ba của nhà Đông Ngô trong thời
**Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam** là một chính phủ tồn tại ở miền nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chính phủ này tồn tại
**Tôn Ngộ Không** (), còn gọi là **Tề Thiên Đại Thánh** (齊天大聖) hay **Ngộ Không** (悟空 hay 悟空), **Tôn Hành Giả** (孫行者), **Tời Thiên/Tề Thiên** (齊天), một trong Thất Đại Thánh, là một nhân vật
**Ngô** (吳) (229 - 1 tháng 5, 280) sử gọi là **Tôn Ngô** (孫吳) hay **Đông Ngô** (東吳) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc (220-280) trong lịch sử Trung Quốc. Trước đó,
**Tôn Hạo** (chữ Hán: 孫皓; bính âm: Sun Hao, 242-284), hay **Ngô Mạt đế** (吳末帝), là hoàng đế cuối cùng của nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**Hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa XIII nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (giản thể: 中华人民共和国第十三届全国人民代表大会第一次会议 hoặc 十三届全国人大一次会议; phiên âm Hán-Việt: _Đệ thập tam Giới Toàn
Dưới đây là danh sách các nhân vật trong bộ tiểu thuyết cổ điển Trung quốc Tây Du Ký, bao gồm cả tên những nhân vật chỉ được nhắc tới. ## Các nhân vật chính
**Thượng phụ Nikon** (tiếng Nga: Никон, tiếng Nga cổ: Нїконъ; tên khai sinh: **Nikita Minin (Minov)** _Ники́та Ми́нин (Минов)_; 7 tháng 5 năm 1605 – 17 tháng 8 năm 1681) là Thượng phụ Moskva và
**Sự kiện 11 tháng 9**, còn được gọi là **vụ khủng bố ngày 11 tháng 9**, **cuộc tấn công ngày 11 tháng 9** hay đơn giản là **11/9** (; ở Hoa Kỳ thường được gọi
**Ngô Đình Cẩn** (1911 – 9 tháng 5 năm 1964), biệt hiệu **Hắc Long**, là em trai của Ngô Đình Diệm, tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa. Ông được anh trai giao
**Chính phủ Bắc Kinh Trung Hoa Dân Quốc** là chỉ chính phủ trung ương đặt thủ đô tại Bắc Kinh trong thời kỳ đầu kiến quốc Trung Hoa Dân Quốc, do nhân sĩ Bắc Dương
**Cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn**, ở Trung Quốc được gọi là **Sự cố ngày 4 tháng 6** (), là các cuộc biểu tình do sinh viên lãnh đạo được tổ chức