✨Lịch sử nhân khẩu Trung Quốc

Lịch sử nhân khẩu Trung Quốc

Trung Quốc hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi tiết vào đầu thời Chiến Quốc, song tài liệu không được truyền lại đến ngày nay. Tuy nhiên, từ khi Ban Cố soạn Hán thư trở đi, trong các chính sử đại đa số đều có ghi chép về nhân khẩu trong thiên địa lý.

Tư liệu nhân khẩu phần lớn dựa vào chính sử, vốn ghi con số nhân khẩu nộp thuế, song vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên có một lượng dân cư không nhỏ phải lưu tán, họ không được tính đến trong chính sử, ngoài ra còn có rất nhiều tăng ni, đạo sĩ, nô tì, quân nhân cũng không được tính, nên kết quả thống kê có phần sai lệch. Trong thời gian chiến tranh, triều đình và quan phủ không thể kiểm soát địa phương, nhân dân chạy trốn hình thành lưu dân, do vậy trong trường hợp này cần phải có sự ước lượng để đưa ra một con số gần với thực tế.

Thời kỳ Chiến Quốc

Thời kỳ Chiến Quốc (453 TCN- 221 TCN) là thời kỳ nông nghiệp Trung Quốc phát triển nhanh chóng và đặt cơ sở cho nền văn minh nông canh sau này. Trong thời gian này, số dân của các nước chư hầu tăng trưởng mau lẹ. Ước tính vào trung kỳ Chiến Quốc, tổng nhân khẩu các nước chư hầu đạt khoảng 35-40 triệu người. Trong khi đó, tổng nhân khẩu toàn thế giới ước tính vào năm 1000 TCN đạt 50 triệu; vào năm 500 TCN ước đạt 100 triệu, vào năm 200 TCN ước đạt 190,5 triệu; Đế quốc Achaemenes ở Tây Á đạt 18-35 triệu vào năm 500 TCN và 18,7-40 triệu vào năm 340 TCN; Đế quốc Khổng Tước ở tiểu lục địa Ấn Độ đạt 26,5 triệu người vào năm 265 TCN.

Thời Tần

Năm 26 dưới quyền trị vì của Tần Thủy Hoàng, tức 221 TCN, nước Tần hoàn thành việc tiêu diệt sáu nước, sau đó tiếp tục mở mang lãnh thổ, đến năm 37 thời Tần Thủy Hoàng, tức 210 TCN, tổng nhân khẩu toàn quốc là 30 triệu người, trong khi nhân khẩu thế giới ước tính khoảng 190 triệu. Giáo sư Cát Kiếm Hùng tại Đại học Phúc Đán trong cuốn "Trung Quốc nhân khẩu phát triển sử" suy tính rằng nhân khẩu Đại Tần vào năm 213 vào khoảng trên dưới 25 triệu.

Thời Tây Hán

Trong thời kỳ ban đầu của lịch sử Trung Quốc, phát triển nông nghiệp tập trung ở khu vực trung hạ du Hoàng Hà, do vậy nhân khẩu có tình trạng bắc đông nam ít. Lấy Tần Lĩnh và Hoài Hà làm ranh giới, nhân khẩu Hoa Bắc vượt quá 85%, nhân khẩu Hoa Nam không đến 15%. Năm châu có nhân khẩu vượt quá 5 triệu là: Dĩnh, Dự, Ký, Duyện, Thanh đều nằm ở khu vực trung hạ du Hoàng Hà, tổng nhân khẩu của 5 châu này chiếm 55% tổng nhân khẩu toàn quốc. Mật độ nhân khẩu khu vực xung quanh thủ đô Trường An đạt trên dưới 1.000 người/km². Bốn châu có nhân khẩu dưới 2 triệu là Giao, Lương, Tịnh, Sóc Phương (U châu). Ba châu: Ích, Kinh, Dương có nhân khẩu phân bố chủ yếu tại bình nguyên Thành Đô, bồn địa Nam Dương, bình nguyên Thái Hồ và bình nguyên Ninh Thiệu.

Khởi nghĩa nông dân cuối thời Tần và chiến tranh Hán-Sở khiến một lượng lớn dân chúng tử vong, Tư Mã Thiên cảm thán trong Sử ký: "Ban đầu Trần Thiệp khởi đầu tai họa, họ Hạng tàn ác diệt Tần, dẹp loạn trừ bạo, bình định hải nội, tốt lên ngôi đế, trở thành Hán gia. Trong vòng 5 năm, ba lần đổi hiệu lệnh. Từ khi con người sinh ra đến nay, chưa từng thụ mệnh gấp như vậy" Năm 202 TCN, Hán vương Lưu Bang xưng đế, nhân khẩu khi đó ước tính vào khoảng từ 15 đến 18 triệu người.

Sau khi triều Hán được thành lập, theo đuổi Hoàng Lão chính trị, để dân chúng nghỉ ngơi phục hồi, sau Văn Cảnh chi trị đến năm Nguyên Quang thứ 6 (129 TCN) thời Hán Vũ Đế, nhân khẩu đạt đến 36 triệu người, trong khoảng 60 năm này nhân khẩu vùng trung hạ du Hoàng Hà tăng trưởng rõ rệt, xuất hiện cảnh tượng phồn vinh.

Từ năm 129 TCN trở đi, do chiến tranh liên miên (như 11 lần đánh Hung Nô và lao dịch thu thuế cùng hình phạt ngày càng nặng, cho nên từ trung kỳ thời Hán Vũ Đế trở đi, số lượng nhân khẩu trở nên đình trệ và suy giảm trong nhiều năm, đến năm Chinh Hòa thứ 2 (91 TCN) thời Hán Vũ Đế thì chỉ còn 32 triệu. Sau đó, trong Chiêu Tuyên trung hưng, cuộc sống người dân lại được an định, quốc lực Đại Hán cơ bản khôi phục, trong thời gian này nhân khẩu khôi phục việc tăng trưởng. Theo "Hán thư- Địa lý chí" ghi chép: "Năm Nguyên Thủy thứ 2 (2) thời Hán Bình Đế, có 12.233.062 hộ, 59.594.978 người."

  • Năm Hán Cao Tổ thứ 1 (202 TCN): khoảng 15-18 triệu
  • Năm Nguyên Quang thứ 6 (129 TCN) thời Hán Vũ Đế: 36 triệu
  • Năm Chính Hòa thứ 2 (91 TCN) thời Hán Vũ Đế: 32 triệu
  • Năm Địa Tiết thứ 3 (67 TCN) thời Hán Tuyên Đế: 40 triệu
  • Năm Nguyên Thủy thứ 2 (2) Thời Hán Bình Đế:12.366.470 hộ, 57.671.401 người; có thuyết nói là 12.233.062 hộ, 59.594.978 người)

Học giả Vương Dục Dân ước tính nhân khẩu thực tế dưới 65 triệu. Ước tính vào năm 1, tổng nhân khẩu thế giới là 272,27 triệu, tỷ lệ người Hán vào năm này là 21,18%.

Thời Tân

Vương Mãng cải chế thất bại, cộng thêm thiên tai thường xuyên xảy ra và Hoàng Hà đổi dòng ở hạ du vào năm Thiên Phượng thứ 1 (14), kết quả là năm 17, bùng phát khởi nghĩa Lục Lâm, Xích Mi, sau đó chiến hỏa khắp nơi, quân phiệt cát cứ và hỗn chiến, khiến một lượng lớn người dân ở lưu vực Hoàng Hà phải dời đi lưu tán hoặc tử vong, hay chạy đến lưu vực Trường Giang tránh chiến tranh. Thời kỳ nhà Tân, không có điều tra nhân khẩu cụ thể, ước tính vào năm Thiên Phượng thứ 5 (17), toàn quốc có 56 triệu người.

Thời Đông Hán

Đến năm Kiến Vũ Trung Nguyên thứ 2 (57), nhân khẩu toàn quốc đạt gần 21.007.820, so với năm Nguyên Thủy thứ 2 (2) thời Tây Hán thì chỉ bằng 36,427%. Sau đó, nhân khẩu bắt đầu khôi phục tăng trưởng. Căn cứ theo "Hán thư-quận quốc chí ngũ" chép, năm Vĩnh Hòa thứ 5 (140) thời Hán Thuận Đế, toàn quốc có 9.698.630 hộ, 49.150.220 người. Đến năm Vĩnh Thọ thứ 3 (157) thời Hán Hoàn Đế, toàn quốc có 10.677.960 hộ, 56.476.856 khẩu, khôi phục đáng kể so với thời kỳ hoàng kim của Tây Hán. Phân bổ nhân khẩu thời Đông Hán cũng có sự biến hóa. Vào cuối Tân và đầu Đông Hán, có một lượng lớn người dân Trung Nguyên để tránh ngọn lửa chiến tranh nên đã chuyển đến lưu vực Trường Giang, nhân khẩu vùng phương nam chiếm đến 4/10 toàn quốc. Bốn châu: Dự, Kinh, Dương, Ích có số nhân khẩu vượt quá 5 triệu người. Hai châu Kinh và Ích đều có nhân khẩu tăng gấp đôi, nhân khẩu Dương châu cũng tăng thêm khoảng 1/4. Trong khi nhân khẩu phương nam tăng trưởng, đại bộ phận quận quốc ở phương bắc đều có nhân khẩu giảm thiểu. Cuối thời Đông Hán, chiến tranh không ngừng, đến năm Thái Khang thứ 3 (282) thời Tấn Vũ Đế, nhân khẩu toàn quốc chỉ còn 18,85 triệu, chỉ bằng 1/3 so với 125 năm trước đó.

Sau loạn Hoàng Cân, khu vực Trung Nguyên xảy ra thiên tai mất mùa đói kém và có ghi chép như "tháng 1 mùa xuân năm Kiến Ninh thứ 3, người Hà Nội vợ ăn chồng, người Hà Nam chồng ăn vợ". Sau khi Đổng Trác nắm quyền, cho binh sĩ hiếp dâm phụ nữ, cướp vật tư. Khi phải đối mặt với việc liên quân Quan Đông thảo phạt, Đổng Trác lại "di chuyển toàn bộ vài chục vạn dân cư quanh Lạc Dương đến Trường An; đốt hết cung, miếu, quan phủ, cư gia; trong vòng 200 lý không bỏ sót thứ gì". Khi Tào Tháo đánh Từ Châu trả thù cha, chôn sống hàng chục vạn nam nữ, gà chó cũng không bỏ sót, Tứ Thủy do vậy không chảy được". Lý Quyết tại Quan Trung "đương thời dân Tam Phụ vẫn còn vài chục vạn hộ, bọn Lý Quyết phát binh đi cướp đoạt, cộng thêm việc mất mùa, trong hai năm, người dân ăn thịt nhau". Do chiến tranh mà Ích châu của Lưu Yên và Lưu Chương, Kinh châu của Lưu Biểu, Dương châu của bọn Tôn Sách đều suy giảm nhân khẩu. Đương thời, nhân dân di chuyển theo ba dòng: từ Quan Trung về phía tây để đến Lương châu hoặc về phía nam để đến Ích châu, theo Hán Thủy dời đến Kinh châu, mỗi hướng khoảng 10 vạn hộ. Từ khu vực Trung Nguyên dời về phía đông bắc để đến Ký châu hoặc U châu, rồi lại chuyển đến Liêu Đông, người Tiên Ti và Ô Hoàn tiếp nhận làn sóng lưu dân này mà trở nên lớn mạnh. Dòng lớn nhất là từ khu vực Trung Nguyên dời đến Bành Thành Từ châu, rồi lại dời về phía nam đến khu vực Giang Nam. Đương thời, có rất nhiều sĩ đại phu tứ phương đến Giang Nam tị nạn, Đông Ngô lập quốc dựa trên cơ sở này.

  • Năm Kiến Vũ thứ 1 (25) thời Hán Quang Vũ Đế, tước tính tổng nhân khẩu toàn quốc là 28 triệu người.
  • Năm Kiến Vũ Trung Nguyên thứ 2 (57) thời Hán Quang Vũ Đế: 4,279,634 hộ, 21,007,820 người
  • Năm Vĩnh Bình thứ 18 thời Hán Minh Đế (75): 5.860.573 hộ, 34.125.021 người
  • Năm Chương Hòa thứ 2 (88) thời Hán Chương Đế: 7.456.784 hộ, 43.356.367 người
  • Năm Nguyên Hưng thứ 1 (105) thời Hán Hòa Đế: 9.237.112 hộ, 53.256.229 người
  • Năm Diên Quang thứ 4 (125) thời Hán An Đế: 9.647.838 hộ, 48.690.789 người
  • Năm Vĩnh Hòa thứ 3 (138) thời Hán Thuận Đế: 10.780.000 hộ, 53.869.588 người
  • Năm Vĩnh Hòa thứ 5 (140) thời Hán Thuận Đế: 9.698.630 hộ, 49.150.220 người
  • Năm Kiến Khang thứ 1 (144) thời Hán Thuận Đế: 9.946.919 hộ, 49.730.550 người
  • Năm Vĩnh Gia thứ 1 (145) thời Hán Xung Đế: 9.937.680 hộ, 49.524.183 người, có thuyết cho là năm này có 10.677.401 hộ, 56.366.856 người
  • Năm Bản Sơ thứ 1 (146) thời Hán Chất Đế: 9.348.227 hộ, 47.566.772 người
  • Năm Vĩnh Thọ thứ 3 (157) thời Hán Hoàn Đế: 10.677.960 hộ, 56.486.856 người
  • Năm Quang Hòa thứ 7 (184) thời Hán Linh Đế: ước tính có 11 triệu hộ, 50 triệu người
  • Năm Kiến An thứ 22 (217) thời Hán Hiến Đế: ước tính có 3 triệu hộ, khoảng 15 triệu người Học giả hiện đại Vương Dục Dân ước tính nhân khẩu Đông Hán vào thời tối thịnh vượt xa nhân khẩu Tây Hán (65 triệu) vào thời tối thịnh. Ước tính tổng nhân khẩu thế giới vào năm 200 đạt 223 triệu người, năm này nhân khẩu Đông Hán chiếm 18,2% tổng nhân khẩu thế giới.

Thời Tam Quốc

Sau khi dần hình thành thế cục Tam Quốc, nhân dân buộc phải thiên di do chiến tranh hay theo lệnh của người thống trị. Sau khi Tào Tháo đánh bại Trương Lỗ, một bộ phận cư dân Xuyên Đông và Hán Trung bị dời đến Quan Trung. Sau khi Tào Phi kiến đô ở Lạc Dương, đã cho dời 5 vạn binh hộ đến Hà Nam. Sau khi Ngụy diệt Thục, đã dời ba vạn gia đình người Thục đến Lạc Dương và Quan Trung. Sau khi Lưu Bị có được Ích châu, nhiều lần dời dân đến bình nguyên Thành Đô. Sau khi Gia Cát Lượng bắc phạt lần thứ nhất thất bại, đã tranh thủ di dời mấy chục van cư dân Lũng Tây đến bổ sung cho Hán Trung. Tôn Quyền đánh bại Giang Hạ thái thú Hoàng Tổ, bắt được hàng vạn nam nữ. Sau khi kiến quốc, Tôn Quyền đề xướng gia tăng nhân khẩu, sau khi bình định Sơn Việt thì lấy "người yếu sung hộ, người khỏe bổ binh", đồng thời tiến công Hoài Nam để bắt người.

Từ cuối thời Đông Hán đến khi Tây Tấn thống nhất toàn quốc, nhân khẩu suy giảm 35,3% so với thời kỳ đỉnh cao của Đông Hán. Đáng chú ý là nhân khẩu bị quân sự hóa cao độ, đương thời Tam Quốc còn có binh hộ, lại hộ, đồn điền hộ. Tào Tháo sáng lập ra đồn điền chế. Nhân khẩu Thục Hán đến khi bị diệt tuy chỉ còn có 90 vạn, song quân đội có đến hơn 10 vạn, Đồn điền hộ có số lượng lớn, có vai trò quyết định đối với việc khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội đương thời.

Vào thời điểm Thục Hán bị diệt (263), nhân khẩu theo tư liệu văn hiến còn lưu truyền lại thì tổng số nhân khẩu nộp thuế của ba nước đạt trên dưới 8,2 triệu người. Căn cứ theo "Trung Quốc nhân khẩu phát triển sử" do giáo sư Cát Kiếm Hùng thuộc Đại học Phúc Đán chủ biên, nhân khẩu thực tế thời kỳ Tam Quốc là khoảng 16-20 triệu người.

Thời Lưỡng Tấn- Thập Lục Quốc

Sau khi Tây Tấn thống nhất toàn quốc, nhân khẩu vẫn chưa khôi phục lại mức vào thời Đông Hán. Loạn bát vương và Ngũ Hồ loạn Hoa lại khiến cho nhân khẩu giảm mạnh. Trong thời kỳ Ngũ Hồ loạn Hoa, nhiều lần xảy ra đồ sát, như Lưu Thông, Lưu Diệu, Thạch Lặc và Thạch Hổ tiến hành đồ sát tại Hoa Bắc. Chiến loạn cũng gây ra dịch bệnh và mất mùa đói kém, khiến cho một lượng lớn cư dân tử vong, thậm chí xảy ra thảm cảnh "người ăn thịt nhau; người chết đói đến năm, sáu phần". Ngoài nhân tố chiến loạn ra, số nhân khẩu Lưỡng Tấn cũng vì nhiều nhân tố khác mà bị che giấu. Chính quyền trưng thu thuế nặng nề, khiến cho bách tính trốn vào nương nhờ đại tộc hoặc chùa miếu để trốn thuế; ngoài ra vì chiến loạn nên một lượng lớn nhân khẩu sau khi di dời đã che giấu hộ tịch.

Do phương Bắc chiến loạn không kham nổi, xuất hiện một dòng chảy nhân khẩu lớn. Đương thời có sáu hướng lưu vong chủ yếu: năm 296 thời Tấn Huệ Đế, Quan Trung xảy ra loạn Tề Vạn Niên, có vài vạn người từ Quan Trung qua Hán Trung để đến đất Thục, sau đó hiệp trợ Lý Đặc và Lý Lưu lập quốc Thành Hán. Một hướng khác là qua Hán Thủy, Uyển đến lưu vực Hoài Hà, sau được Thạch Lặc dung nạp. Sau khi Ba Thục bất ổn, nhân dân chạy đến khu vực Kinh Tương, song bị cường hào địa phương áp bức nên tiến hành nổi loạn, cuối cùng bị Vương Đôn và Đào Khản bình định. Dân đói Tịnh châu (trị sở nay thuộc Sơn Tây) đến khu vực Ký, Dự khất thực, sau do Điền Chân thống lĩnh, được gọi là "khất hoạt tặc". Lương châu ít chịu cảnh chiến loạn nên nhân dân đến đó tị nạn, do bảo lưu được một lượng lớn chế độ văn vật của người Hán nên tại khu vực này hình thành "văn hóa Hà Tây". Trong khi Hoa Bắc rối loạn, có nhiều người chạy đến Liêu Đông, được Mộ Dung Hoảng tiếp nhận, sau đó những kiều dân này hiệp trợ Mộ Dung Hoảng kiến lập Tiền Yên. Trong thời Đông Tấn thực thi bốn lần "thổ đoạn". Đương thời nhân dân là một tài sản quan trọng, khi chiến tranh thì bất luận là kẻ xâm lược hay người bị xâm lược đều buộc nhân dân thiên di để đề phòng họ giúp đỡ cho đối phương, đặc biệt là tại khu vực Hoa Bắc và Giang Hoài.

Cô Tang ở Hà Tây trở thành một trọng trấn mậu dịch trên Con đường tơ lụa, người Hán còn lưu lại Trung Nguyên thì tìm sự che chở giúp đỡ tại các ổ bảo hoặc quý tộc bộ lạc. Ổ bảo đại đa số đều do thế tộc cường hào lập ra, chủ yếu nhằm phòng vệ quân sự. Các hộ nương nhờ thế tộc cường hào không phải nộp thuế và lao dịch cho quốc gia, họ chỉ có nghĩa vụ với ổ chủ. Để đảm bảo thu nhập quốc khố và lao dịch, quân chủ Thập Lục Quốc thường kiểm tra hộ khẩu, đưa "ấm hộ" (hộ được che chở) trở về "biên hộ" (bình dân).

Sau khi ngoại tộc để mất nước, do thảo nguyên cố hương đã bị các tộc người khác như Nhu Nhiên chiếm cứ, tuyệt đại bộ phận lưu lại Trung Nguyên, chuyển sang thích ứng với văn hóa và lối sinh hoạt của Trung Nguyên, hợp nhất với người Hán. Quá trình dung hợp dân tộc đến thời Bắc Chu và Tùy thì hoàn thành. Tại Đông Tấn, sau khi người Hán ở phương bắc "y quan nam độ" cũng xảy ra xung đột và dung hợp với người Hán địa phương, các tộc người Bách Việt và các dân tộc khác. Sau khi Tùy thống nhất Trung Quốc, giới tuyến người Hán nam-bắc dần bị xóa mờ, hòa lẫn thành một thể.

  • Năm Thái Khang thứ 1 (280), sau khi diệt Ngô, Đại Tấn có 2.459.840 hộ, 16.163.863 người.
  • Thời Lưu Thông (310-318), khu vực do nước Hán Triệu kiểm soát có 63 vạn hộ người Hồ.
  • Theo "Thập lục quốc Xuân Thu- Tiền Tần lục" ghi lại thì vào năm Kiến Hy thứ 11 (370) thời Tiền Yên U Đế, nước Tiền Yên có 2.458.669 hộ, 9.987.935 người.

Thời Nam-Bắc triều

Tình hình xã hội và nhân khẩu vào thời Nam-Bắc triều rất phức tạp, nhìn chung có thể phân thành 4 tầng lớp: thứ nhất là thế tộc danh môn hào tộc; thứ hai là "biên hộ tề dân" tự làm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hay thương nghiệp; thứ ba là "y phụ nhân" phụ thuộc thế tộc cường hào như "bộ khúc" "điền khách" hay "y thực khách", những người chịu sự cai quản của chính quyền thuộc tạp hộ-bách công hộ-binh hộ-doanh hộ cũng được định là "y phụ nhân"; cuối cùng là các nô lệ như "nô tì", "sinh khẩu", "lệ hộ" và các thành dân bị bắt làm tù binh rồi bị buộc phải thiên di.

Ngụy-Tấn-Nam-Bắc triều là thời kỳ chính trị thế tộc, mặc dù hào tộc ở phương bắc có địa vị và quyền lực thấp hơn ở Nam triều, song vẫn ở địa vị rất cao. Số nhân khẩu do thế tộc khống chế gồm "bộ khúc", "điền khách" và "nô lệ" nếu không thể "tự thục" (tự chuộc thân) hoặc "phóng khiển" (phóng thích) thì không thể có được tự do. "Bộ khúc" chủ yếu được sử dụng vào việc tác chiến, do chiến sự giảm thiểu nên tham gia vào hoạt động sản xuất. Do tại Nam triều, "đại gia tộc chế" suy vong khiến "bộ khúc" dần chịu sự khống chế của quốc gia. Nô lệ chủ yếu bắt nguồn từ các nông dân phá sản hoặc là lưu dân, họ là tài sản của địa chủ, do vậy có thể bị địa chủ dùng làm vật thế chấp hoặc để giao dịch. Để ngăn chặn nô lệ chạy trốn, các nô lệ đều bị "kình diện" (Thích chữ bôi mực vào mặt). Nhờ các phương thức như "mi nam vi khách" hay " phát nô vi binh" mà nô lệ có thể chuyển thành điền khách của địa chủ hoặc binh sĩ của quốc gia. Những người tự cày cấy trồng trọt là lực lượng trọng yếu trong hoạt động sản xuất nông nghiệp đương thời. Họ phải thực hiện các nghĩa vụ tô điều, tạp thuế, lao dịch và binh dịch cho triều đình; vì thế mà nhiều nông dân tự canh đã phá sản và phải lưu vong, trở thành bộ khúc hoặc điền khách của thế tộc. Thời Nam-Bắc triều vẫn tiếp tục thi hành "thế binh chế" có từ thời Tam Quốc, các "binh hộ" truyền đời đảm nhiệm việc binh, thời bình cũng phải nộp tô điều. Do thợ thủ công nghiệp rất ít, cho nên quan phủ khống chế hết sức nghiêm ngặt với "tạp hộ" hoặc "bách công hộ", "bách công hộ" sau khi chuyển sang khu vực sản xuất của quan phủ thì hình thành nên các phố xưởng, truyền nghề cho thế hệ sau. Nếu như quý tộc và quan lại tự chiếm bách công hộ thì thường sẽ bị trừng trị. Tại Bắc triều còn có "tân dân" và "thành dân"; "tân dân" là những người dân hoặc thợ thủ công thuộc các dân tộc di dời quy mô lớn đến khu vực thủ đô dưới thời Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế nhằm tăng cường quốc lực, xét theo số khẩu mà được nhận ruộng; "thành dân" là những người dân bị chinh phục, bị buộc phải thiên di, được bố trí đến sống tại các châu và có thân phận giống như nô lệ; thành dân có cấu trúc dân tộc phức tạp và phân bố trên quy mô rộng.

Ở phương nam, vào khoảng thời Tấn mạt-Tống sơ, mô hình đại gia đình chuyển thành tiểu gia đình, người trong cùng một gia tộc không làm chung nghề phải lên đến bảy phần, lạnh nhạt với nhau. Điều này là do sau khi tông tộc phát triển, các gia đình giàu nghèo khác biệt, nếu như không cùng chung hoạn nạn từ bên ngoài thì sẽ dễ dàng phân ly; do đó phương thức đánh thuế dựa trên đại gia tộc trở nên vô dụng. Ở phương bắc, do ngoại tộc cần đoàn kết hợp tác nên vẫn duy trì được chế độ đại gia tộc. Do người Hán có cơ hội được tham gia chính quyền của người Hồ, truyền thống văn hóa và thể chế của Trung Quốc dần dần tiếp nhận các yếu tố ngoại tộc, song vẫn còn thịnh hành các phong tục như "tài hôn".

Thời Nam-Bắc triều, các dân tộc du mục và dân tộc nông nghiệp diễn ra Hồ-Hán dung hợp văn hóa, các dân tộc du mục trên thảo nguyên phương bắc không ngừng Hán hóa trong quá trình tiến vào Trung Nguyên, trong khi các thế tộc người Hán do muốn tránh chiến loạn nên đem gia đình dời đến phương nam, xúc tiến việc người Hán và các dân tộc khác ở phương nam tiến hành tiếp xúc và dung hợp. Do đó, người Hán vào thời Tùy-Đường không giống như người Hán vào thời Tần-Hán, các dân tộc ở hai lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang lấy người Hán làm chủ thể mà dụng hợp và hình thành nên "tân Hán tộc". Thời Nam triều, chính quyền 5 lần lần tiến hành "thổ đoạn", trong đó "Nghĩa Hy thổ đoạn" do Tống Vũ Đế Lưu Dụ tiến hành vào năm 413 là đáng kể nhất, khiến cho các châu huyện của kiều dân dần dần biến mất. Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế thúc đẩy phong trào Hán hóa, dung hợp hoàng tộc Tiên Ti với thế tộc người Hán, đổi họ của hoàng tộc từ "Thác Bạt" sang "Nguyên", cấm dùng tiếng Tiên Ti; Thượng trụ Tây Ngụy là Vũ Văn Thái nghe theo kiến nghị của Tô Xước mà lập chính sách Quan Trung bản vị. Tuy nhiên, quá trình dung hợp không thể tránh khỏi sản sinh xung đột tư tưởng, đấu tranh chính trị hoặc xung đột chủng tộc. Ví dụ như Bắc Ngụy Thái Vũ Đế nhân "sự kiện tu quốc sử" mà diệt tông tộc của trọng thần Thôi Hạo và các họ khác có liên hệ. Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế thúc đẩy phong trào Hán hóa khiến cho quý tộc Tiên Ti ở Lạc Dương và người Tiên Ti ở Lục trấn xảy ra mâu thuẫn, phát sinh phong trào Tiên Ti hóa để phản kháng văn hóa Hán, cuộc cùng dẫn đến loạn Lục trấn. Đông Ngụy và Bắc Tề do người Tiên Ti Lục trấn và người Hán bị Tiên Ti hóa làm chủ, duy trì tinh thần thượng võ, đề xướng văn hóa Tiên Ti, cực lực bài xích văn hóa Hán. Cuối cùng triều Bắc Chu dung hợp văn hóa Hồ-Hán và triều Tùy Hán hóa tiêu diệt triều Bắc Chu và Nam triều Trần, khởi đầu cho đế quốc Tùy-Đường mang tính chất "Thiên hạ một nhà".

Thời Tùy

Thời Ngũ Hồ thập lục quốc và Nam-Bắc triều, các dân tộc du mục và dân tộc nông nghiệp có sự giao thoa về văn hóa, đến Tùy triều thì hình thành Hán-Hồ dung hợp văn hóa, các dân tộc ở lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang dung hợp, lấy tộc Hán làm chủ thể, tạo thành tộc Hán mới. Năm Khai Hoàng thứ 5 (585) thời Tùy Văn Đế, Hoàng đế hạ lệnh cho quan châu huyện kiểm tra hộ khẩu, thân thuộc có quan hệ xa từ "đường huynh đệ" (anh em con chú con bác) trở đi đều phải tách hộ tịch, đồng thời mỗi năm thống kê một lần, do vậy phương bắc thống kê được thêm hơn 1,64 triệu khẩu.

Thời Tùy, nhân khẩu gia tăng nhanh chóng, diện tích đất canh tác được mở rộng và kho lương quốc gia dồi dào. Theo "Tùy thư-Địa lý chí", theo số liệu từ các quận thì toàn quốc có 9.073.926 hộ, khôi phục số hộ dưới thời Đông Hán trước đó 4 thế kỷ, năm 613 có 44,5 triệu người. Trong vòng 26-27 năm, quốc gia tăng thêm 428 vạn hộ, nhân khẩu tăng thêm hơn 17 triệu người. Cùng với việc lực lượng lao động tăng thêm, kinh tế-xã hội cũng xuất hiện cảnh tượng phồn vinh, thu nhập của triều đình tăng lên. Năm 592, dự trữ lương thực và lụa hoa chất cao như núi, sử tịch thuật lại là phủ khố đều đầy ắp, buộc phải tích trữ ở dưới hiên, ở một mức độ nhất định đã phản ánh sự phát triển của nền nông nghiệp thời Tùy.

Thời Đường

Triều Đường từ đầu những năm Vũ Đức (618-626) đến cuối những năm Thiên Bảo (742-756) théo thống kê thì có số nhân khẩu và hộ khẩu thấp hơn triều Tùy, có khả năng là do pháp lệnh không được thi hành, người dân giấu giếm hộ khẩu không báo cáo, như vậy số liệu do sử tịch ghi lại ít hơn so với con số thực tế. Theo "Cựu Đường thư", vào năm Đức Nguyên thứ 1 (618), Đại Đường có 1,8 triệu hộ; đến năm Vũ Đức thứ 7 (624) có 2,19 triệu hộ; đến năm Trinh Quán thứ 13 (639) có 3,04 triệu hộ; đến năm Trinh Quán thứ 22 (648) có 3,6 triệu hộ; năm Vĩnh Huy thứ 3 (652) có 3,8 triệu hộ. Căn cứ theo "Thông điển- quyển 7- thực hóa" thì vào năm Thiên Bảo 13 (754), toàn quốc có 9.069.154 hộ, 52.880.488 khẩu. Theo sử liệu thì triều Đường phải mất 100 năm thì mới phục hồi qua mức hộ khẩu vào thời cực thịnh của triều Tùy.

Đương thời, toàn quốc có 15 đạo, nhân khẩu khu vực phía bắc Tần Lĩnh-Hoài Hà là 30 triệu, các khu vực đông dân nhất là hai đạo Hà Nam và Hà Bắc cùng với khu vực Hoài Bắc; tổng nhân khẩu các khu vực còn lại là gần 20 triệu. Thủ đô Kinh Triệu phủ Trường An có 1,96 triệu người, đông đô Hà Nam phủ Lạc Dương có 1,18 triệu người. Ngụy Châu với 1,1 triệu người là một đầu mối giao thông nằm ven Đại Vận Hà vào thời Tùy-Đường. Nhân khẩu của Hà Đông đạo đạt 3,72 triệu, Quan Nội đạo có 1,5 triệu, Lũng Hữu đạo có số nhân khẩu thấp nhất với chỉ 53 vạn. Trong số các đạo ở phương nam, Giang Nam Đông đạo có số nhân khẩu đông nhất với 6,61 triệu, kế đến là Kiếm Nam đạo với 4,09 triệu, trong đó Thành Đô phủ có 92 vạn nhân khẩu, Giang Nam Tây đạo có 3,72 triệu nhân khẩu, Hoài Nam đạo có 2,27 triệu, Lĩnh Nam đạo có 1,16 triệu, Kiềm Trung đạo là đạo ít dân nhất toàn quốc với chỉ 16 vạn. Hậu kỳ triều Đường xảy ra tình trạng phiên trấn cát cứ và loạn Hoàng Sào, tình trạng nhân dân dời về phương nam tị nạn trở nên nghiêm trọng hơn. Từ sau loạn An Sử đến cuối thời Đường là làn sóng lớn dời về phương nam thứ hai trong lịch sử nhân khẩu Trung Quốc, kéo theo đó là phương nam trên các phương diện kinh tế-văn hóa đều vượt qua phương bắc. Trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, trong số 9 nước ở phương nam thì có sáu nước có quân chủ là di dân từ phương bắc.

  • Năm Vũ Đức thứ 1 (618) thời Đường Cao Tông: 1.800.000 hộ
  • Năm Vũ Đức thứ 5 (623) thời Đường Cao Tông: 2.190.000 hộ
  • Năm Trinh Quán thứ 2 (628) thời Đường Thái Tông: 2.900.000 hộ
  • Năm Trinh Quán thứ 13 (639) thời Đường Thái Tông: 3.041.871 hộ, 12.351.681 người.
  • Năm Trinh Quán thứ 20 (646) thời Đường Thái Tông: 3.600.000 hộ.
  • Năm Vĩnh Huy thứ 3 (652) thời Đường Cao Tông: 3.800.000 hộ
  • Năm Thần Long thứ 1 (705) thời Đường Trung Tông: 6.156.141 hộ, 37.140.000 người
  • Năm Khai Nguyên thứ 14 (726) thời Đường Huyền Tông: 7.069.565 hộ, 41.419.712 người.
  • Năm Khai Nguyên thứ 20 (732) thời Đường Huyền Tông: 7.861.236 hộ, 45.431.265 người.
  • Năm Khai Nguyên thứ 28 (740) thời Đường Huyền Tông: 8.412.871 hộ, 48.143.609 người.
  • Năm Thiên Bảo thứ 1 (742) thời Đường Huyền Tông: 8.525.763 hộ, 48.909.800 người.
  • Năm Thiên Bảo thứ 13 (754) thời Đường Huyền Tông: 9.619.254 hộ, 52.880.488 người.
  • Năm Thiên Bảo thứ 14 (755) thời Đường Huyền Tông: 8.914.709 hộ, 52.919.309 người.
  • Sử gia đương thời Đỗ Hựu ước tính vào năm này Đại Đường có trên dưới 14 triệu hộ, nhân khẩu đạt từ 75-80 triệu người.
  • Căn cứ theo "Trung Quốc nhân khẩu phát triển sử" của Cát Kiếm Hùng, vào những năm Thiên Bảo thời Đường Huyền Tông là thời điểm nhân khẩu triều Đường đạt cực thịnh với khoảng 80-90 triệu người.
  • Năm Càn Nguyên thứ 3(760) thời Đường Túc Tông: 2.933.174 hộ, 16.993.806 người. (chỉ có 169 châu báo cáo số hộ khẩu, không bằng một nửa số đơn vị trước loạn An Sử)
  • Năm Quảng Đức thứ 2 (764) thời Đường Đại Tông: 2.933.125 hộ, 16.900.000 người.
  • Năm Kiến Trung thứ 1 (780) thời Đường Đức Tông: 3.805.076 hộ (có thuyết nói là hơn 3,1 triệu hộ)
  • Năm Nguyên Hòa thứ 2 (807) thời Đường Hiến Tông: 2.473.963 hộ. (71 châu chưa báo cáo)
  • Năm Nguyên Hòa thứ 15 (820) thời Đường Hiến Tông: 2.375.400 hộ, 15.760.000 người.
  • Năm Trường Khánh (824) thời Đường Mục Tông: 3.944.595 hộ.
  • Năm Bảo Lịch (826) thời Đường Kính Tông: 3.978.982 hộ
  • Năm Khai Thành thứ 4 (839) thời Đường Văn Tông: 4.996.752 hộ.
  • Năm Hội Xương thứ 1 (845) thời Đường Vũ Tông: 4.955.151 hộ.
  • Năm Đại Trung thứ 13 (859) thời Đường Tuyên Tông: ước lượng toàn quốc có 33.000.000 người.
  • Năm Thiên Phục thứ 3 (907) thời Đường Ai Đế: toàn quốc có tổng cộng 20.000.000 người.

Thời Ngũ Đại Thập Quốc

Từ hậu kỳ triều Đường đến thời Ngũ Đại Thập Quốc, do chiến loạn kéo dài và thiên tai nên kinh tế khu vực Trung Nguyên bị tàn phá rất nặng. Sau loạn Hoàng Sào, trong suốt 60-70 năm, chiến sự lớn nhỏ không dừng. Binh dịch và các loại lao dịch ở khu vực Hoa Bắc rất nặng nhọc, quần chúng thường bị thảm sát. Chiến tranh và lao dịch nặng nhọc khiến hàng vạn người chết đói hoặc lưu tán tha hương. Giả dụ như vào hậu kỳ triều Đường, Tần Tông Quyền từ Thái châu đánh ra tứ phía, từng đánh chiếm Đông Đô, hình thành tình huống "nhìn xa nghìn lý, không thấy khói lửa".

Hậu kỳ triều Đường, phương nam chịu ảnh hưởng từ biến Bàng Huân và loạn Hoàng Sào, tuy nhiên sang đến thời Thập Quốc thì có tương đối ít các cuộc chiến tranh lớn, chính cục tương đối ổn định, có lợi cho việc khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội. Quan Nội đạo, Hà Nam đạo, Hà Bắc đạo đều có hộ khẩu giảm sút rất nhiều; song ở các nơi phương nam như Tô châu, Ngạc châu, Hồng châu, Nhiêu châu, Cát châu, Tương châu, Dĩnh châu, Đường châu, Hành châu, Quảng châu đều có hộ khẩu tăng đáng kể. Theo cách nói đương thời, thì trong số hộ khẩu tại Tô châu, một phần ba là từ phương bắc đến; ở Vũ Xương số hộ khẩu tăng gấp ba lần chỉ trong vòng hai năm, đều phản ánh việc có nhiều người di cư về phương nam, khiến phân bổ nhân khẩu khá tập trung ở phương nam. Đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc, khu vực Hoa Bắc nguyên thuộc Hậu Chu và Bắc Hán có khoảng 100 vạn hộ, song khu vực phương nam nguyên thuộc chín nước thì có 230 vạn hộ. Những năm đầu Bắc Tống, tỉ lệ nhân khẩu nam bắc đại ước là 6:4.

  • Năm 958, Nam Đường cắt đất Giang Bắc (tức Hoài Nam) với 226.574 hộ cho Hậu Chu.
  • Hậu Chu (959): 2.309.812 hộ.
  • Kinh Nam (963): 142.300 hộ.
  • Vũ Bình (963): 97.388 hộ.
  • Hậu Thục (965): 534.029 hộ.
  • Nam Hán (971): 170.263 hộ.
  • Nam Đường (975): 655.065 hộ.
  • Bắc Tống (976): 3.090.504 hộ (chủ hộ)
  • Thanh Nguyên (978): 151.918 hộ.
  • Ngô Việt (978): 550.680 hộ.
  • Bắc Hán (979): 35.250 hộ.

Thời Tống-Liêu-Hạ-Kim

Theo ghi chép trong "Thái bình hoàn vũ ký", năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 5 (980), toàn Đại Tống có 6.499.145 hộ với khoảng 32,5 triệu người. Theo ghi chép trong "Nguyên Phong cửu vực chí", vào những năm Nguyên Phong (1078-1085), toàn quốc có 16 triệu hộ. Căn cứ theo "Tống sử-Địa lý chí", năm Sùng Ninh thứ 1 (1102) thời Tống Huy Tông, toàn quốc có 17,3 triệu hộ. Năm Đại Quan thứ 5 (1110) thời Tống Huy Tông, Tống có 20.882.258 hộ, nhân khẩu khoảng 112,75 triệu. Ước tính vào năm Tuyên Hòa thứ 2 (1120), có 22 triệu hộ, nhân khẩu khoảng 118,8 triệu. Sau "họa Tĩnh Khang", lại xuất hiện hiện tượng cư dân Trung Nguyên dời về phương nam với số lượng lớn, có hai làn sóng: làn sóng thứ nhất là từ "sự kiện Tĩnh Khang" (1125-1127) đến "hòa nghị Thiệu Hưng" (1141), làn sóng thứ hai là trong thời gian hoàng đế Kim Hoàn Nhan Lượng xâm chiếm phương nam. Nhân khẩu phương nam do vậy tăng thêm rất nhiều, theo ước tính, vào năm Gia Định thứ 11 (1218) tức thời điểm đỉnh cao của Nam Tống, toàn quốc có 13,6 triệu hộ. Năm Thiệu Hưng thứ 32 (1162) so với năm Sùng Ninh thứ 1, Lưỡng Chiết lộ tăng thêm thêm 26 vạn hộ, Giang Nam Tây lộ tăng thêm 42 vạn hộ, Phúc Kiến lộ tăng thêm 33 vạn hộ, Đồng Xuyên Phủ lộ tăng thêm 24 vạn hộ, Quỳ Châu Phủ lộ tăng thêm 14 vạn hộ. Thời Tống, nhân khẩu thành thị tăng mạnh, có 50 thành thị có trên 10 vạn hộ, trong đó nhân khẩu Lâm An vượt 1,24 triệu hộ (1274), nhân khẩu Biện Lương trên 1,8 triệu hộ (1125), đương thời là một trong số các thành thị đông nhất trên thế giới.

Trong những năm Sùng Ninh thời Tống Huy Tông, trong số các lộ ở phương bắc thì Kinh Kỳ lộ có nhân khẩu tập trung nhất, năm Nguyên Phong thứ 6 (1083) có 23 vạn hộ, năm Sùng Ninh thứ nhất có 26 vạn hộ; song Vĩnh Hưng quân lộ có 100 vạn hộ, Kinh Triệu phủ với trung tâm là Trường An có 23 vạn hộ, nguyên nhân do đây là tiền tuyến trong chiến tranh giữa Tống và Tây Hạ. Nhân khẩu phương nam tập trung chủ yếu tại các lộ: Lưỡng Chiết, Giang Nam Đông-Tây, Phúc Kiến, Xuyên Thiểm. Hộ khẩu của năm lộ này đạt 5,71 triệu hộ, tức một nửa số hộ của phương nam. Trong đó, Lưỡng Chiết lộ là đông nhất với 1,97 triệu hộ, tiếp đến là Giang Nam Tây lộ với 1,66 triệu hộ, Giang Nam Đông lộ với 1,01 triệu hộ, Phúc Kiến lộ với 1,06 triệu hộ, hai lộ Hoài Nam Đông-Tây có tổng cộng khoảng 1,3 triệu hộ, bốn lộ Xuyên-Hiệp có tổng cộng 2 triệu hộ (năm 1231 có 5 triệu hộ), hai lộ Kinh Hồ Nam-Bắc có tổng cộng 1,4-1,5 triệu hộ, hai lộ Quảng Nam Đông-Tây có tổng cộng hơn 80 vạn hộ, Kinh Tây-Nam có tổng cộng 40 vạn hộ.

Căn cứ theo Liêu sử được học giả hiện đại khảo đính, vào năm Càn Thống thứ 10 (1110) thời Liêu Thiên Tộ Đế, nhân khẩu Liêu quốc đạt mức tối đa là hơn 1,5 triệu hộ, 10.569.288 người. Phong tục xã hội của người Khiết Đan khác biệt với người Hán, người Khiết Đan cai trị người Hán ở Yên Vân thập lục châu giống như cách thức ở Trung Nguyên, người Khiết Đan ở phương bắc vẫn sinh hoạt theo tục cũ, hai tộc người cũng hỗn tạp ở những vùng ranh giới.

Do Tây Hạ áp dụng chế độ toàn dân đều là binh lính nên có thể dựa vào số lượng binh lực để suy ra lượng nhân khẩu. Ngày nay có nhận định rằng nhân khẩu Tây Hạ không thấp hơn 30 vạn hộ, không cao hơn 2 triệu hộ. Theo "Tống sử" ghi lại thì Tây Hạ có 50 vạn đại quân

Kim Thái Tổ và Kim Thái Tông khi thống trị Trung Nguyên đã đưa hơn 1 triệu người Nữ Chân đến vùng đất hạ du Hoàng Hà vỗn đã có nhân khẩu đông đúc, dùng biện pháp hy sinh lợi ích của người Hán phục vụ cho người Nữ Chân, mục đích là để đáp ứng cho sinh hoạt và quân sự của họ. Cùng lúc với việc đưa những di dân mới người Nữ Chân đến chiếm lĩnh đất đai Trung Nguyên, người Khiết Đan và người Hán bị đưa đến nội địa của triều Kim (tức vùng Mãn Châu ngày nay). Trong cuộc chiến tranh chống Liêu, quân Kim từng bắt được một lượng lớn người Khiết Đan và người Hán làm nô lệ. Sau đó, Kim Thái Tổ từng hạ chiếu cấm chỉ giam giữ bách tính chịu đầu hàng, cấm chỉ nhà quyền thế mua dân nghèo làm nô lệ, lại quy định những người từng bán thân làm nô lệ có thể dùng công lao động để chuộc thân, song trên thực tế khả năng nô lệ có thể tự chuộc thân là rất thấp. Cư dân người Hán bị buộc phải thiên di không thể không trở thành nô lệ với số lượng lớn. Triều đình Kim đối với nhân dân khu vực chịu đầu hàng tuân phục thì áp dụng biện pháp cưỡng bách thiên di đến nội địa. Như cư dân các châu huyện Sơn Tây bị buộc phải thiên di với số lượng lớn đến Hồn Hà lộ thuộc Thượng Kinh của Kim. Cư dân địa khu Thượng Kinh lại được dời đến Ninh Giang châu. Nhân dân Bình châu nổi dậy phản kháng, sau khi bị trấn áp thì phải cùng với cư dân Nhuận châu, Tháp châu, Lai châu, Thiên châu dời đến đông đô Thẩm Dương. Những cư dân này không thể vượt qua khó khăn để tồn tại, buộc phải bán thân làm bô lệ, khiến người Hán hận thù sâu sắc. Sau đó, do dịch bệnh và mất mùa đói kém nên một lượng lớn nhân khẩu khu vực Đông Á cũng biến mất, trong đó khu vực Hoa Bắc nguyên thuộc Kim và khu vực Xuyên-Thiểm tứ lộ nguyên thuộc Nam Tống hết sức nghiêm trọng. Đây được xem là tai họa thảm khốc nhất trong lịch sử Trung Quốc, cũng là nguyên nhân chính dẫn đến phong trào di dân "Hồ Quảng điền Tứ Xuyên". Sau khi Kim diệt vong năm 1234, khu vực Hoa Bắc ước tính có 1,1 triệu hộ với 6 triệu người, chỉ bằng 13% so với mức 53,53 triệu người vào năm 1208. Trong thời gian chiến tranh Tống-Mông, số người thiệt mạng trong biên cảnh Nam Tống là khoảng 15 triệu người, chủ yếu tập trung tại khu vực Xuyên Thiểm tứ lộ. Sau khi quân Nguyên hoàn toàn tiêu diệt thế lực kháng Nguyên tại Tứ Xuyên vào năm 1279, theo điều tra thì khu vực chỉ còn hơn 9 vạn hộ và hơn 50 vạn người, chỉ bằng 4% so với mức năm 1231 tức trước khi quân Mông Cổ xâm lược Xuyên-Thiểm tứ lộ. Thời Đại Mông Cổ Quốc có 2 lần tiến hành thống kê hộ khẩu, lần thứ nhất là vào năm 1235 khi Oa Khoát Đài Hãn thi hành "Ất Mùi tịch hộ", có tư liệu về nhân khẩu của khu vực Hoa Bắc; lần sau là vào năm 1252 khi Mông Kha Hãn hoàn thành "Nhâm Tý tịch hộ", cho thấy nhân khẩu Hoa Bắc có sự gia tăng ở mức thấp. Năm 1271, Hốt Tất Liệt Hãn cải quốc hiệu thành "Đại Nguyên", kiến lập triều Nguyên. Tuy nhiên, trong thời gian từ thời Nguyên Thành Tông đến những năm đầu Chí Chính thời Nguyên Huệ Tông, chính cục triều Nguyên khổng ổn định, mỗi năm đều phải ứng phó với rất nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân, tuy nhiên về mặt xã hội thì cơ bản có tình trạng ổn định, kinh tế nhìn chung cũng thể hiện tăng trưởng, khiến nhân khẩu gia tăng, theo ước tính vào năm Chí Chính thứ 10 (1351) thì ở mức cao nhất. Những năm Chí Chính (1341-1370) thời Nguyên Huệ Tông, toàn quốc nhiều lần xảy ra mất mùa đối kém và dịch bệnh trên quy mô lớn, cuối cùng bùng phát thành khởi nghĩa Hồng Cân quân, sau cuộc khởi nghĩa này thì nhân khẩu suy giảm rất lớn. Sau khi Minh Thái Tổ kiến quốc có luận: "trong cuộc cách mạng đời trước, tùy tiện tiến hành giết chóc, làm trái ý trời mà hại dân, Trẫm thực không thể nhịn".

Thống kê nhân khẩu vào thời Nguyên không hoàn toàn chuẩn xác, bỏ mất những hộ chạy trốn, đi nương nhờ ở nơi khác. Triều đình không thống kê hộ khẩu của Lĩnh Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh (vùng Nội Mông-Mông Cổ-nam Siberi), Vân Nam đẳng xứ hành trung thư tỉnh, các cư dân ở những khu vực thổ ty Tây Nam và Tuyên Chính viện (Tây Tạng); nhân khẩu thuộc sở hữu riêng của chư vương, quý tộc, quân tướng Mông Cổ; ngoài "chức sắc hộ kế" ở các châu huyện. Các học giả hiện đại chỉ có thể căn cứ theo số liệu nguyên thủy trong sách sử lưu giữ được để suy đoán, do vậy số liệu có thể sai khác lớn. Hiện tượng nhân khẩu chạy trốn hết sức nghiêm trọng, như vào năm 1241, trong số 1.004.656 hộ có nguyên tịch ở các lộ do Hốt Đô Hổ cai quản, thì có đến 280.746 hộ bỏ trốn, chiếm 28%.

Ngoài ra, mối quan hệ dân tộc ngày càng mật thiết, hiện tượng vãng lai và tạp cư tương đối phổ biến. Từ thời kỳ chiến tranh Mông-Kim, một lượng lớn người Hán không ngừng bị buộc phải dời đến thảo nguyên Mông Cổ hay khu vực nam bắc Thiên Sơn, Liêu Dương đẳng xứ hành trung thư tỉnh và Vân Nam đẳng xứ hành trung thư tỉnh; Các quan viên, quân hộ hay thương nhân người Mông Cổ và Sắc Mục di cư với số lượng lớn đến nội địa Trung Nguyên; khu vực Vân Nam có khoảng trên dưới 10 vạn người Mông Cổ cư trú; các thành thị chính trị như Thượng Đô và Đại Đô, các thành thị thương nghiệp như Hàng Châu, Tuyền Châu, Trấn Giang đều có nhiều người Mông Cổ, người Duy Ngô Nhĩ, người Hồi giáo, người Đảng Hạng, người Nữ Chân hay người Khiết Đan cư trú, giữa các dân tộc có sự giao lưu kinh tế và văn hóa, bang trợ lẫn nhau. Do tỷ lệ người Mông Cổ và người Hán hết sức chênh lệch, văn hóa và chế độ của người Hán cũng ưu việt hơn so với người Mông Cổ, triều đình Nguyên do vậy bảo hộ địa vị của người Mông Cổ, chủ trương Mông Cổ chí thượng chủ nghĩa, thi hành chính sách phân chia chế độ với bốn tầng lớp dân cư: Mông Cổ nhân, Sắc Mục nhân (người Tây Vực và Tây Hạ), Hán nhân (người Hán nguyên thuộc Kim), Nam nhân (người Hán nguyên thuộc Nam Tống). Triều đình Nguyên trao cho Mông Cổ nhân và Sắc Mục nhân quyền lợi rất lớn, bắt Hán nhân và Nam nhân phải chịu thuế và lao dịch nặng, áp bức dân tộc và áp bức giai cấp rất trầm trọng.

Thời Minh

Sau khi Đại Minh thành lập và thống nhất Trung Hoa, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương thi hành chính sách "hưu dưỡng sinh tức" (phục hồi và phát triển), nông nghiệp thời Mông-Nguyên vốn chịu sự phá hoại từ chiến tranh nay khôi phục ở mức độ lớn, những năm Hồng Vũ tiến hành khẩn hoang vùng đất phía bắc Hoài Hà và Tứ Xuyên trên quy mô lớn, nhân khẩu do vậy tăng trưởng ổn định. Đến năm Hồng Vũ thứ 26 (1393), toàn quốc có 63 triệu người, trong đó 61,75 triệu người thuộc dân hộ, 3,25 triệu người thuộc quân hộ. Bắc ngũ tỉnh (Bắc Bình, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Thiểm Tây) có 17,55 triệu nhân khẩu, chiếm 27% toàn quốc; trong đó Sơn Đông là đông dân nhất với 5.462.850 người, kế đến là Sơn Tây (3.790.760 người), Hà Nam (2.825.300 người), Thiểm Tây (2.646.450 người), Bắc Bình (2.619.500 người). Trung ngũ tỉnh (Kinh Sư, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên) có 33,8 triệu người, chiếm 52% toàn quốc; trong đó Nam Trực Lệ có 11.291.460 người, mật độ nhân khẩu cao nhất là ở lực vực Tô Nam Thái Hồ với tổng số 6.320.300 người và đạt 220 người/km²; tiếp đến là Chiết Giang tỉnh với 9.959.270 người; Giang Tây có 7.260.000 người, Hồ Quảng có 4.318.420 người, Tứ Xuyên có 1.314.260 người. Nam ngũ tỉnh (Phúc Kiến, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu) có tổng cộng 10,40 triệu người, chiếm 16% toàn quốc.

Nhân khẩu triều Minh đạt đỉnh cao vào hậu kỳ, song các học giả bất đồng về thời gian và số lượng cụ thể. Dịch Trung Thiên nhận định vào thời Minh mạt toàn quốc có trên 60 triệu người, Hàn Văn Lâm và Tạ Thục Quân nhận định năm 1626 thì Đại Minh đạt đỉnh cao về nhân khẩu, với khoảng 99,873 triệu người, Vương Dục Dân nhận định vào những năm Vạn Lịch (1573-1620) thì nhân khẩu triều Minh đạt mức tối đa, nhân khẩu thực tế là từ 130-150 triệu người; Cát Kiếm Hùng nhận định vào năm 1600 triều Minh thực tế có 197 triệu dân, vào thời đỉnh cao là sát 200 triệu người; Tào Thụ Cơ nhận định nhân khẩu triều Minh lên đến đỉnh cao vào năm 1630 với nhân khẩu thực tế là khoảng 192,51 triệu người, sang năm 1644 thì số nhân khẩu thực tế giảm còn khoảng 152,47 triệu người; nhà kinh tế học Anh Quốc Angus Maddison thì nhận định vào năm 1600 nhân khẩu thực tế của triều Minh đạt khoảng 160 triệu người.

Cuối năm năm Gia Tĩnh thời Minh Thế Tông, các loại cây trồng cao sản đến từ châu Mỹ bắt đầu được truyền bá đến Trung Quốc, trở nên phổ biến tại những vùng có mật độ dân cư cao nhất như Giang-Chiết hay Lĩnh Nam. Đặc biệt là qua Vạn Lịch trung hưng, nhân khẩu tăng trưởng nhanh và ổn định, có học giả ước tính thì đạt đến mức chưa từng có là 150 triệu người, phân bổ vẫn không đổi. Từ Sùng Trinh thứ 11 (1640) thời Minh Tư Tông đến năm Thuận Trị thứ 7 (1650) thời Thanh Thế Tổ, do chiến tranh cùng mất mùa và dịch bệnh nên số người tử vong gia tăng, đặc biệt là bùng phát dịch hạch và hạn hán ở phương bắc, quân Bát kỳ nhập quan tiến hành giết hại và buộc người Hán phải thiên di để đề phòng họ phản kháng, khiến nhân khẩu giảm thiểu rất nhiều, chưa bằng một nửa so với trước đó, riêng phương bắc giảm xuống chỉ chưa bằng 20%.

Kế tục triều Nguyên, triều Minh phân cư dân thành "dân hộ", "quân hộ", "tượng hộ", những người làm thủ công nghiệp nhập tượng tịch. Tượng tịch và quân tịch có địa vị thấp hơn so với dân tịch, không được ứng thí, đồng thời phải kế thừa nghề của đời trước. Việc thoát khỏi hộ tịch ban đầu là khó khăn, cần phải được Hoàng đế đặc chỉ phê chuẩn.

Thời Thanh

Thời Minh mạt Thanh sơ, do cướp bóc lan tràn, chiến tranh Thanh binh nhập Tắc và nhập Quan, loạn Tam Phiên, sinh mạng và tài sản của nhân dân chịu tổn thất. Cùng với đó là mất mùa đói kém, dịch bệnh khiến cho nhân khẩu Trung Quốc suy giảm nhanh chóng. Nhà sử học Cát Kiếm Hùng nhận định giao thời Minh-Thanh, nhân khẩu ước tính suy giảm 40%, cuối những năm Thuận Trị là ở mức thấp nhất. Ý kiến khác cho rằng số lượng nhân khẩu che giấu hộ tịch lớn hơn nhiều so với số lượng nhân khẩu bị tổn thất, và số lượng nhân khẩu tổn thất lớn nhất thực sự vẫn là trong thời kỳ chiến loạn sau khi quân Mãn nhập Quan, cùng các cuộc đồ sát mang tính tận diệt tộc họ. Kể từ sau năm Khang Hy thứ 20 (1681), do nay triều đình Thanh hoàn thành bình định Tam Phiên đồng thời chiếm lĩnh Đài Loan, trải qua thịnh thế thời Khang Hy-Ung Chính-Càn Long, sinh hoạt được an định và khôi phục, nhân khẩu gia tăng nhanh chóng. Đầu thời Thanh, số liệu nhân khẩu còn chưa chính xác, nhà sử học Khương Đào ước lượng vào khoảng trước sau năm Khang Hy thứ 19 (1680), nhân khẩu tăng lên đến 100 triệu; Triệu Văn Lâm suy đoán vào năm Khang Hy thứ 24 (1685), nhân khẩu vượt quá 100 triệu. Ngoài việc quốc gia an định, nhu cầu lương thực được đáp ứng với việc trồng cấy rộng rãi các cây trồng mới như gạo Chiêm Thành, ngô, lạc, khoai tây. Đến thời kỳ Càn Long, nhân khẩu toàn quốc chính thức vượt quá 200 triệu, đến năm Đạo Quang thứ 13 (1833) trước chiến tranh Nha phiến thì tăng mạnh lên mức 400 triệu. Tăng trưởng nhân khẩu dưới triều Thanh hoàn toàn trái ngược với hình thái tăng trưởng dạng sóng trong quá khứ của Trung Quốc, thể hiện bằng đường chéo tăng lên. Trong thế kỷ 19, do cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc, Niệp loạn và Hồi loạn, số nhân khẩu tổn thất là không nhỏ; trong những năm Quang Tự lại xảy ra không ít thiên tai: năm Quang Tự thứ 3 (1877) xảy ra hạn hán ở Sơn Tây và Thiểm Tây, số người chết vì nạn đói và bạo loạn lên tới trên 10 triệu người. Cuối cùng, cùng với việc di cư ra hải ngoại trở nên phổ biến, nên đến khi triều Thanh diệt vong, nhân khẩu Trung Quốc duy trì ở mức 430 triệu người, không khác nhiều so với những năm Đạo Quang (1821-1850).

Do nhiều năm chiến loạn và đồ sát, khiến nhiều khu vực biến thành vô chủ, sau đó vì nhân khẩu gia tăng với số lượng lớn, một số nơi xảy ra tình trạng dư thừa nhân khẩu, dẫn đến làn sóng di dân. Như thủ lĩnh nổi dậy Trương Hiến Trung vào thời Minh mạt vào năm 1646 bại trận rút đến Thành Đô, tiến hành thiêu sát phá hoại chưa từng có tại Tứ Xuyên: 40 vạn người ở Thành Đô chỉ còn 20 hộ, nhân khẩu Tứ Xuyên từ ít nhất 3 triệu giảm mạnh chỉ còn 8 vạn người. Đến khi triều Thành diệt vong, tại hải ngoại có 7 triệu Hoa kiều. Để nắm được số nhân khẩu xác thực, Khang Hy Đế vào năm 1712 hạ chiếu "thịnh thế tư sinh nhân đinh vĩnh bất gia phú", lấy số nhân đinh ghi trong sổ sách năm 1711 để định ra mức tổng cố định cho việc trưng thu thuế đinh, đem số người tăng mới sau đó liệt vào "thịnh thế tư sinh nhân đinh", từ trung ương đến địa phương không được vì gia tăng nhân khẩu mà thêm thuế. Tuy nhiên, việc này vẫn có hạn chế, do vậy triều đình lại chọn chính sách "than đinh nhập địa", phế trừ "nhân đầu thuế" tức thuế định, nhập vào trong thuế thổ địa. Điều này khiến cho giai cấp vô sản không phải nộp thuế, song phần nộp thuế của địa chủ lại tăng thêm, đối với triều đình khiến cho nhân khẩu tiếp tục gia tăng, giảm hoãn việc tích tụ đất đai, có tác dụng nhất định trong việc phát triển công thương nghiệp.

Thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**Nhân khẩu Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc** đặc trưng bởi một dân số lớn với độ tuổi thanh niên khá nhỏ, một phần là kết quả của "chính sách một con" của đất nước.
**Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** (giản thể: 中国人民解放军, phồn thể: 中國人民解放軍, phiên âm Hán Việt: Trung Quốc Nhân dân Giải phóng Quân), gọi tắt là **Giải phóng quân**, cũng được gọi là **Quân
thumb|Cổng vào trường Đại học Nhân dân **Đại học Nhân dân Trung Quốc** (**RUC**; ) là một trường đại học công lập trọng điểm quốc gia tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Trường có liên kết
**Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc** hay **Hải quân Trung Quốc** () là lực lượng hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Quy mô tổ chức của Hải quân
**Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc** (), viết tắt **Chính Hiệp Toàn quốc** () hoặc **Ủy ban Toàn quốc Chính Hiệp** (), là tổ chức cấp quốc
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Lịch sử Tây Tạng từ năm 1950 đến nay** bắt đầu từ sau trận Qamdo năm 1950. Trước đó, Tây Tạng đã tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1913. Năm 1951, người
**Nội chiến Trung Quốc** hay **Quốc Cộng nội chiến** (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
Nhân quyền tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một vấn đề tranh cãi giữa chính phủ Trung Quốc và các nước khác cũng như các tổ chức phi chính phủ. Bộ Ngoại giao
Hình ảnh tái hiện một buổi trình diễn nhạc cụ truyền thống cổ của Trung Quốc (nhã nhạc cung đình [[nhà Thanh)]] nhỏ|Nhóm nghệ sĩ [[người Nạp Tây hòa tấu nhạc cụ cổ truyền]] **Những
**Danh sách báo chí Trung Quốc** (giản thể: 中国报纸列表; bính âm: Zhōngguó bàozhǐ lièbiǎo). Số lượng báo chí ở đại lục Trung Quốc đã tăng từ năm 1942, gần như tất cả tờ báo của
nhỏ|phải|Kiến trúc kiểu Trung Hoa. nhỏ|phải|Ẩm thực kiểu Trung Hoa. nhỏ|phải|Hán phục (áo [[Sườn xám).]] **Văn hóa Trung Quốc** (chữ Hán giản thể: 中华文化; chữ Hán phồn thể: 中華文化; Hán-Việt:Trung Hoa văn hoá;pinyin: Zhōnghuá wénhuà)
thumb|Thủ tướng Nhật Bản [[Shinzō Abe (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Đà Nẵng, Việt Nam vào tháng 11 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Trung Quốc tại Nhật
Quan hệ song phương giữa vương quốc Campuchia và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã được tăng cường đáng kể sau khi chiến tranh Việt Nam-Campuchia kết thúc. Trong suốt cuộc chiến, Trung Quốc
**Đại học Công nghệ Quốc phòng Trung Quốc** (tên tiếng Anh: **National University of Defense Technology** (**NUDT**; ) trực thuộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc, là một trường đại học trọng điểm quốc gia
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Lịch sử quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan** giới thiệu thay đổi về lịch sử quan hệ giữa hai bờ eo biển từ xưa đến nay. Các ghi chép sớm nhất trong lịch
**Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc** (_Quan hệ Việt-Trung_, ) là mối quan hệ giữa hai nước láng giềng vì có chung biên giới trên bộ và trên biển, hai nước có chung thể
**Biểu tình bài Nhật tại Trung Quốc năm 2012** là một loạt các cuộc biểu tình bài Nhật Bản được tổ chức ở các thành phố lớn tại Trung Quốc và Đài Loan trong khoảng
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Lịch sử kinh tế Nhật Bản** được quan tâm nghiên cứu chính là vì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này và bởi vì Nhật Bản là nền kinh tế quốc gia
**Lịch sử Ấn Độ độc lập** bắt đầu khi Ấn Độ trở thành quốc gia độc lập trong Khối Thịnh vượng chung Anh vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Kể từ năm 1858, người
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
nhỏ|Úc nhìn qua vệ tinh **Lịch sử Úc** đề cập đến lịch sử khu vực và nhân dân ở Thịnh vượng chung Úc và những cộng đồng bản địa và thuộc địa tiền thân của
**Quan hệ Trung Quốc- Triều Tiên** (, ) là quan hệ song phương giữa CHND Trung Hoa (PRC) và CHDCND Triều Tiên (DPRK). Trung Quốc và Triều Tiên trước đây có quan hệ ngoại giao
thumb|[[Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Hamburg, Đức tháng 7 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Trung Quốcthumb|Đại sứ quán
phải|Biên lai bia Alulu – một biên lai chứng nhận việc mua bia "tốt nhất" vào năm 2050 TCN từ thành phố cổ [[Ur của người Sumer, Iraq cổ đại.]] **Bia** là một trong những
**Quan hệ Trung Quốc - Pakistan** bắt đầu vào năm 1950 khi Pakistan là một trong những nước đầu tiên tham gia quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Hoa dân quốc (Đài Loan)
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
Có 6 ngôi chùa Thiếu Lâm ở Trung Quốc: ## Bắc Thiếu Lâm Tự Bàn Sơn ### Tọa lạc Chùa **Bắc Thiếu Lâm Bàn Sơn** thuộc tỉnh Hà Bắc tọa lạc trên đỉnh Tử Cái
thumb|alt=Kidney transplants rose from about 3,000 in 1997 to 11,000 in 2004, falling to 6,000 in 2007. Liver transplants rose from a few hundred in 2000 to 3,500 in 2005, then dropped to 2,000 in
nhỏ|Lăng mộ năm 1342 của [[Katarina Vilioni, thành viên của một gia đình thương gia người Ý ở Dương Châu]] Dựa trên bằng chứng văn bản và khảo cổ học, người ta tin rằng hàng
liên_kết=https://zh.wikipedia.org/wiki/File:Great_Wall_of_China_may_2007.JPG|nhỏ|250x250px|Quốc kỳ Trung Quốc treo trên [[Vạn Lý Trường Thành]] **Quốc kỳ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (), tức là **cờ đỏ năm sao** () là một trong những biểu tượng quốc gia
Không rõ về những cư dân đầu tiên đã định cư tại **Đài Loan**, nối tiếp họ là những người Nam Đảo (Austronesia). Hòn đảo bị người Hà Lan thuộc địa hóa vào thế kỷ
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Lịch sử Thái Lan** giai đoạn từ năm 1932 đến 1973 thực sự được đặc trưng bởi sự cai trị của quân đội và cuộc đấu tranh giữa chế độ độc tài và dân chủ.
nhỏ|Tranh trong hang động về [[bò rừng ở Châu Âu (_Bos primigenius primigenius_), Lascaux, Pháp, nghệ thuật thời tiền sử]] **Lịch sử hội họa** được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử
, cũng thường được gọi với tên phiên âm của nó là **Kuomintang** (**KMT**; ), là chính đảng do Tôn Trung Sơn và các chí sỹ của ông sáng lập và tồn tại cho đến
Tổng lượng cồn tiêu thụ trên đầu người trên thế giới, tính theo lít cồn nguyên chất Việc sản xuất có mục đích thức uống có cồn là phổ biến trong nhiều nền văn hóa,
**Quan hệ Trung Quốc - Sri Lanka** đề cập đến quan hệ song phương giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Sri Lanka.Có một đại sứ quán Trung Quốc ở Colombo và một đại
**Chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc** (còn được gọi tắt là **Thương chiến Mỹ Trung**) khởi đầu vào ngày vào ngày 22 tháng 3 năm 2018 khi Tổng thống Hoa Kỳ
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
**Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (**Quốc vụ viện**; Trung Văn giản thể: 中华人民共和国国务院, Hán-Việt: Trung hoa Nhân dân Cộng hòa quốc Quốc vụ viện) hay **Chính phủ Nhân dân Trung
phải|nhỏ| Chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai trong [[Chiến lược chuỗi đảo của Mỹ, được nghiên cứu bởi các chiến lược gia quân sự Trung Quốc để tránh bị bao vây ]] **Chính sách
**Liêu Ninh** (Liaoning) là chiếc tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Trung Quốc. Nó được đặt theo tên tỉnh Liêu Ninh nơi con tàu được tân trang. Sau một số lần chạy thử,
**Đài truyền hình trung ương Trung Quốc** (, - **CCTV**), trước đây gọi là _Đài truyền hình Bắc Kinh_, là đài truyền hình quốc gia của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, phát sóng chủ
**Du lịch Trung Quốc** đã phát triển đáng kể trong vài thập kỷ qua kể từ khi bắt đầu thực thi chính sách cải cách và mở cửa. Sự nổi lên của một tầng lớp