✨Tôn Hạo

Tôn Hạo

Tôn Hạo (chữ Hán: 孫皓; bính âm: Sun Hao, 242-284), hay Ngô Mạt đế (吳末帝), là hoàng đế cuối cùng của nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai của thái tử Tôn Hòa, cháu đích tôn của Đại Đế Tôn Quyền. Sau khi người chú của ông là Cảnh Đế Tôn Hưu qua đời và thái tử Tôn Quân còn nhỏ tuổi, các đại thần nước Ngô quyết định đưa Tôn Hạo lên ngôi hoàng đế. Trong thời gian trị vì, ông hoang dâm vô đạo, xa xỉ cùng cực, giết hại trung lương, tin dùng hoạn quan, việc chính sự thì ít để tâm tới, vì thế quốc lực Giang Đông suy yếu. Nhân cơ hội đó, năm 280, Tấn Vũ Đế phát động chiến tranh, tiêu diệt được Đông Ngô, Tôn Hạo hàng Tấn rồi bị bắt giải về Lạc Dương, kết thúc thế chân vạc Tam Quốc. Ông qua đời vào năm 284 dưới thời Tấn Vũ Đế.

Trước khi lên ngôi

Tôn Hạo chào đời năm 242, là con trai trưởng của thái tử Tôn Hòa (sau được truy tôn là Văn hoàng đế), cháu đích tôn của Ngô Đại Đế Tôn Quyền. Mẹ ông là Hà thị, thiếp của Tôn Hòa. Nguyên Ngô Đại Đế Tôn Quyền có bảy người con trai, con trưởng là Tôn Đăng được tấn phong làm thái tử. Năm Xích Ô thứ hai (241), thái tử qua đời. Theo lệ cũ, Tôn Hòa (con trai thứ hai) được phong lên làm thái tử. Nhưng Tôn Hòa có hiềm khích với Toàn công chúa, vì thế luôn bị gièm pha, lại thêm tranh chấp ngôi vị trữ quân với người em là Tôn Bá. Năm 250 (khi đó Tôn Hạo mới 9 tuổi), Tôn Quyền chán ghét cuộc tranh giành trong cung, lại thêm sự gièm pha của công chúa, cuối cùng quyết định ép Tôn Bá tự vẫn và phế truất Tôn Hòa, đày sang Cố Chương. Tôn Hạo do vậy cũng bị liên lụy, bị coi như thứ dân bình thường mặc dù mang thân phận hoàng tôn.

Năm 252, lúc Tôn Quyền sắp mất mới xuống chiếu phong cho Tôn Hạo tước hầu, nhận lãnh địa ở Trường Sa. Cùng năm Tôn Quyền qua đời, thái tử Tôn Lượng nối ngôi, Gia Cát Khác làm thái phó nắm quyền triều chính. Gia Cát Khác vốn là chú vợ của Tôn Hòa nên có ý khôi phục địa vị cho ông. Nhưng không được bao lâu, vào năm 253, Tôn Tuấn tiến hành đảo chính, lật đổ và sát hại Gia Cát Khác, thu hết quyền lực về tay mình. Tôn Tuấn tìm cách loại bỏ các thế lực gây trở ngại cho mình trong đó có Tôn Hòa. Tôn Tuấn vu cho Tôn Hòa có ý khác, rồi đày đến Tân Đô, sau đó bức tử. Phu nhân Trương thị cũng bị buộc phải chết, còn Hà thị không đồng ý tự vẫn, lấy cớ mình phải nuôi các con Tôn Hòa (gồm Tôn Hạo, Tôn Đức, Tôn Khiêm và Tôn Tuấn) đến tuổi trưởng thành. Lúc này Tôn Hạo vừa được 11 tuổi.

Năm 258, Tôn Lượng bị Tôn Lâm (em Tôn Tuấn) phế truất. Tôn Lâm lập con trai thứ sáu của Tôn Quyền, một người chú khác của Tôn Hạo, tên là Tôn Hưu lên ngôi vua, tức là Ngô Cảnh Đế., phong thái tử Tôn Quân làm Dự Chương vương, ba người em của Quân cũng được phong vương (Nhữ Nam vương, Lương vương, Trần vương), lại lập vợ là Đằng thị làm hoàng hậu; phong cha vợ là Đằng Mục làm Vệ tướng quân, Lục Thượng thư sự.Khi mới lên ngôi, Tôn Hạo cho giảm sưu thuế, mở kho lúa phát chẩn cho dân nghèo, thả những cung nữ chưa được ngự hạnh cho về quê, ai cũng tưởng ông là vua anh minh. Nhưng chỉ được bấy nhiêu thì Tôn Hạo trở nên thô bạo và đắm chìm vào tửu sắc. Tháng 11 ÂL năm 264, Bộc Dương Hưng, Trương Bố ra sức ngăn cản, Tôn Hạo cho bắt lại, dời ra Quảng châu, sau đó giết hại rồi tru di ba họ. Mùa đông, Tây Lăng đốc Bộ Xiển dâng biểu xin dời đô từ Kiến Nghiệp thuộc Dương châu sang Vũ Xương. Ngô chủ nghe theo, dời đô sang Vũ Xương, để Ngự sử đại phu Đinh Cố, Hữu tướng quân Gia Cát Tĩnh trấn giữ Kiến Nghiệp. Cuối năm này ở Trung Nguyên, nhà Ngụy mất, Tư Mã Viêm lên ngôi xưng là Vũ Đế, lập ra nhà Tấn (265-420).

Tán kị thường thị, Lư Giang vương Tôn Phàn được nhiều người nể trọng, tỏ ra bất bình trước những hành động của Tôn Hạo, Hạo không vừa lòng. Tán kị thường thị Vạn Úc, Trung thư thừa Trần Thanh biết vậy cùng nhau ra sức gièm pha. Ngô chủ nghi Phàn có điều gian trá, bèn đuổi khỏi kinh đô, giữa đường bỗng triệu về. Khi về tới, Phàn có thái độ làm Ngô chủ không vừa lòng, liền bị điệu khỏi điện và bị chém, rồi ném thủ cấp vào núi cho hổ lang ăn thịt kì hết. Sang tháng 4 năm 266, Đinh Trung tâu với Ngô chủ rằng Trung Nguyên (nhà Tấn) không lo việc phòng thủ miền biên cương, có thể nhân đó mà đánh lấy. Ngô chủ triệu quần thần vào cung bàn bạc, Trấn Tây tướng quân Lục Khải, người trong họ với Lục Tốn lên tiếng can ngăn vì Tấn quốc đang thịnh. Ngô chủ tuy không xuất binh nhưng cũng tuyệt giao với Tấn từ đó. Sang mùa thu cải nguyên là Bảo Đỉnh, cất nhắc Lục Khải, Vạn Úc làm Tả, Hữu thừa tướng. Cuối năm 264, khi Lã Hưng bị giết, Nhà Tấn cử các tướng của mình sang coi giữ Giao Chỉ.

Năm 268, Tôn Hạo bèn phong cho Lưu Tuấn làm thứ sử Giao Châu, cùng với Tu Tắc làm Đại đô đốc, cùng tướng quân Cố Dung, đem quân chiếm lại Giao châu, nhưng bị quân Tấn đánh bại tới ba lần, phải rút chạy. Dương Tắc thừa thắng tiến công lên Quảng châu, lấy được quận Uất Lâm, giết chết Lưu Tuấn và Tu Tắc. Nhà Tấn sai Mao Linh đến làm thái thú Uất Lâm.

Tháng 11, Đinh Phụng, Gia Cát Tịnh xuất Thược Bi, đánh Hợp Phì, bị An Đông tướng quân nhà Tấn là Nhữ Âm vương Tư Mã Tuấn đánh lui. Đầu năm 269, Tôn Hạo lập Hoàng tử Cẩn làm Hoàng thái tử nghi Tôn Hạo có ý giết mình, bèn bỏ trốn vào đầu hàng nhà Tấn vào tháng 9. Lục Kháng nghe tin, sai Tả Dịch và Ngô Ngạn thảo phạt Bộ Xiển. Tấn đế sai Dương Triệu, Dương Hỗ và Từ Dận suất thủy quân đánh Kiến Bình cứu Xiển. Tháng 12 năm này, Lục Kháng đánh tan quân của Dương Triệu, nhân đó tiến vào chiếm lại Tây Lăng, giết Bộ Xiển và tướng lại đồng mưu hơn 10 người, tru di tam tộc hết.

Tôn Hạo lấy lại Tây Lăng, tỏ ra dương dương tự đắc, cho rằng trời giúp mình. Sai một người thuật sĩ là Thượng Quảng, bói xem việc lấy thiên hạ thế nào. Quảng thưa rằng:

:Bệ hạ bói được quẻ này hay lắm, đến năm Canh tý, lọng xanh vào được Lạc Dương.

Hạo càng mừng, từ đó không biết tu sửa đức chính mà chỉ tính việc kiêm tính. Lại nhớ tới thù xưa, nên định dùng rượu độc bí mật sát hại Vạn Úc và Lưu Bình. Cả hai phát giác việc này, nhưng biết ý Tôn Hạo muốn hại mình thì mình khó thoát, nên Vạn Úc tự sát luôn, còn Lưu Bình cũng lo sợ, nhuốm bệnh rồi qua đời. Sau đó ông chia quân của Lục Kháng thành 6 phần do các con của Kháng là Yến, Cảnh, Huyền, Cơ, Vân. Mấy hôm sau Lục Kháng qua đời.

Năm 275, Trung thư lệnh Hạ Thiệu, bị trúng phong không nói được, Ngô chủ nghi ngờ ông ta giả bệnh, liền đem đi chất vấn, Thiệu không nói được, Hạo liền cho cưa tay chân và thiêu ông ta, cuối cùng Thiệu chết bởi tra tấn. Hạo dời gia thuộc của Hạ Thiệu sang Lâm Hải.

Đỗ Dự lại đưa quân đánh lấy Kiến Nghiệp. Trước đó Tôn Hạo theo lời Thừa tướng Trương Đễ, đốc Đơn Dương thái thú Thẩm Oánh, Hộ quân Tôn Chấn, phó quân sư Gia Cát Tịnh đem 30000 quân vượt sông giao chiến. Oánh, Tịnh khuyên Đễ đầu hàng Tấn để bảo toàn gia thuộc, Đễ thà chết không chịu bỏ trốn hoặc đầu hàng, vì đó là nỗi nhục lớn. Nhưng ra quân trận nào cũng thua cả, Gia Cát Tịnh đã bỏ đi. Cuối cùng Trương Đễ, Tôn Chấn, Thẩm Oánh... hơn 7800 người bị giết.

Vương Tuấn từ Vũ Xương xuôi dòng Trường Giang đến Kiến Nghiệp, Tôn Hạo sai Du Kích tướng quân Trương Thượng đem vạn quân ra chống, nhưng họ đã đầu hàng, người Ngô lo sợ.

Tháng 5 năm đó, Tôn Hạo bị đưa đến thành Lạc Dương, yết kiến Tấn Vũ Đế. Vũ Đế phong ông làm Quy Mệnh hầu, các con được phong chức quan trong triều. Vũ Đế cho ông ngồi, bảo: :Trẫm kê chỗ ngồi này để đợi ngươi đến đã lâu rồi!

Hạo đáp: :Tôi ở phương Nam cũng chuẩn bị một cái ghế như vậy cho Bệ hạ.

Giả Sung hỏi: :Nghe nói ông ở phương nam, thường hay khoét mắt và lột da mặt người ta, đó là hình pháp gì thế?

Hạo lại đáp: :Bề tôi mà giết vua, cùng làm những kẻ gian tà bất trung, thì xử tội ấy.

Giả Sung nhớ lại chuyện Tào Mao bị giết ở cửa nam khi trước, hổ thẹn lui ra.

Tháng 12 ÂL năm Thái Khang thứ tư đời nhà Tấn (284), Tôn Hạo qua đời, hưởng dương 43 tuổi. Ông làm vua ở Đông Ngô 16 năm rồi mất nước.

Gia đình

Cha: thái tử Tôn Hòa (truy tôn Văn hoàng đế) Mẹ: Hà thái hậu Anh chị em: Tiền Đường hầu Tôn Đức Vĩnh An hầu Tôn Khiêm, bị Tôn Hạo giết chết Tôn Tuấn, cũng bị Tôn Hạo giết Một người em gái lấy Lục Cảnh Vợ: Đằng hoàng hậu, sau khi Ngô bị diệt cùng Tôn Hạo đến sống ở Lạc Dương Trương mĩ nhân, con gái Trương Bố, bị Tôn Hạo ép chết *Tả phu nhân, được Tôn Hạo sủng ái nhất. Bà mất sớm, sau cái chết của bà Tôn Hạo rất đau buồn, bỏ không lên triều mấy tháng Con cái: Thái tử Tôn Cẩn, triều Tấn phong làm Lang trung Tôn Sung, chết trong chiến loạn năm 310 **Tôn Phan, năm 318 mưu phản và bị giết

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôn Hạo** (chữ Hán: 孫皓; bính âm: Sun Hao, 242-284), hay **Ngô Mạt đế** (吳末帝), là hoàng đế cuối cùng của nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con
**Tôn Tú** (chữ Hán: 孙秀, ? – 301 hoặc 302), tên tự là **Ngạn Tài**, người Phú Xuân, Ngô Quận , tông thất nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Tôn Hưu** (chữ Hán: 孫休, bính âm: Sun Xiu) (234 - 3/9/264), tự là **Tử Liệt** (子烈), sau này trở Ngô Cảnh Hoàng đế, vị quân chủ thứ ba của nhà Đông Ngô trong thời
**Tôn Khải** (; ? – 304), là tướng lĩnh Đông Ngô, Tây Tấn thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tôn Khải là con trai của tướng quân Tôn Thiều, cùng
**Tôn Phấn** (; ? – 270), tự **Tử Dương** (子揚), là Hoàng tử Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tôn Phấn quê ở huyện Phú Xuân, quận Ngô,
**Tôn Hòa** (chữ Hán:孫和; 224-253) ông là hoàng thái tử nhà Đông Ngô con thứ 3 **Ngô Đại Đế** Tôn Quyền và là cha của **Ngô Mạt Đế** Tôn Hạo. Sau khi con ông Tôn
**Tôn Sung** (; ? – 310), không rõ tên tự, là hoàng tử của Tôn Hạo, vua cuối cùng của Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tôn Sung
Nhiều **người Trung Quốc được truy tôn là vua chúa**, dù khi còn sống chưa từng làm vua, do có quan hệ thân thích với những người sau này trở thành vua chúa, và được
**Bạt Bạt Tung** (chữ Hán: 拔拔嵩) hay **Trưởng Tôn Tung** (长孙嵩, 358 – 437 ), tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy. Ông có họ hàng gần với hoàng thất Bắc Ngụy, hộ
**Tôn Sách** (chữ Hán: 孫策; 174 - 200), tự **Bá Phù** (伯符), là một viên tướng và một lãnh chúa trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam Quốc
**Tôn Khả Vọng** (chữ Hán: 孙可望, 1630 – 21 tháng 12 năm 1660), người Diên Trường Thiểm Tây, tên thật là **Khả Vượng**, tên lúc nhỏ là **Vượng Nhi**, con nuôi của Trương Hiến Trung,
**Tôn Dị** (; ? – ?), là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tôn Dị quê ở huyện Phú Xuân, quận Ngô thuộc Dương Châu, là
**Tôn Thiệu** (Trung văn giản thể: 孙绍; phồn thể: 孫紹; bính âm: Sūn Shào; 200-?) là con ruột của Tôn Sách với Đại Kiều sinh ra sau 2 ngày sau khi Tôn Sách bị ám
**Khúc Hạo** (chữ Hán: 曲顥; 860 - 917) hoặc **Khúc Thừa Hạo**, được suy tôn là **Khúc Trung Chủ** (曲中主), là con của Khúc Thừa Dụ. Quê của cha con Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo
**Thôi Hạo** (chữ Hán: 崔顥, ? - 450), tên tự là **Bá Uyên** (伯淵), tên lúc nhỏ là **Đào Giản** (桃簡) nguyên quán ở Thành Đông Vũ, quận Thanh Hà, là chính trị gia hoạt
**Trần Hạo Dân** (tiếng Trung: 陳浩民, tiếng Anh: _Benny Chan Ho-man_, sinh ngày 7 tháng 10 năm 1969) là một nam diễn viên kiêm ca sĩ người Hồng Kông. Anh từng là diễn viên độc
**Lưu Hạo Tồn** (tiếng Trung: 刘浩存, bính âm: Liú hàocún, sinh ngày 20 tháng 5 năm 2000), là một nữ diễn viên, vũ công người Trung Quốc. ## Tiểu sử nhỏ|Văn bản tòa án chứa
**Hoàng Minh Hạo** (tiếng Trung: 黄明昊, phiên âm: _Huáng Mínghào_, tiếng Anh: _Justin Huang_) sinh ngày 19 tháng 2 năm 2002. Cậu thường được biết đến với nghệ danh **Justin**, là một nam rapper, dancer,
**Hoàng Hạo** (?-?) là một hoạn quan phục vụ Lưu Thiện, hoàng đế thứ hai và cũng là cuối cùng của Thục Hán thời Tam Quốc. ## Cuộc đời Hoàng Hạo trở thành hoạn quan
**Hà Toàn Hạo** (chữ Hán: 何全皞, bính âm: He Quanhao, 839 - 870), là Tiết độ sứ Ngụy Bác dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, cai trị bán độc lập với chính
**Nguyễn Phúc Hạo** (chữ Hán: 阮福暭; ? – ?), tước phong **Tương Dương Quận vương** (襄陽郡王), là một hậu duệ của Chúa Nguyễn và là anh của vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử
**Trần Hạo Cơ** (sinh năm 1975) là một nhà văn trinh thám, tội phạm nổi tiếng sinh ra ở Hồng Kông, hiện đang sinh sống và làm việc tại Đài Loan. Các sáng tác của
**Cao Xuân Hạo** (30 tháng 7 năm 1930 – 16 tháng 10 năm 2007) là một nhà ngôn ngữ học người Việt với nhiều đóng góp trong việc định hình phương pháp phân tích cấu
**Thư Cừ Mông Tốn** () (368–433) là một người cai trị của nước Bắc Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc, và là vua đầu tiên của thị tộc Thư
Bản bằng [[tre thời Càn Long.]] **_Tôn Tử binh pháp_** hay _Binh pháp Ngô Tôn Tử_ là sách chiến lược chiến thuật chữ Hán do Tôn Vũ soạn thảo vào năm 512 TCN thời Xuân
**Tôn Ngộ Không** (), còn gọi là **Tề Thiên Đại Thánh** (齊天大聖) hay **Ngộ Không** (悟空 hay 悟空), **Tôn Hành Giả** (孫行者), **Tời Thiên/Tề Thiên** (齊天), một trong Thất Đại Thánh, là một nhân vật
Nguyên Thủy Thiên Tôn **Nguyên Thủy Thiên Tôn** (chữ Hán: 元始天尊) là vị thần tiên tối cao của Đạo giáo, đứng thứ hai trong Tam Thanh với ngôi vị Ngọc Thanh. Hai vị kia là
**Tôn Di** (tiếng Trung giản thể: 孙怡; sinh ngày 04 tháng 06 năm 1993) là nữ diễn viên người Trung Quốc. Cô từng giành được giải thưởng _Nữ diễn viên xuất sắc nhất_ (hạng mục
**Mạt Đế** (chữ Hán: 末帝) là tôn hiệu, cũng sử dụng như thụy hiệu, do các sử gia đặt cho một số vị quân chủ, cũng như Mạt Chủ, họ đều là những ông vua
**Chiến tranh Tấn-Ngô 279-280** là cuộc chiến cuối cùng thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Vua Tây Tấn là Tư Mã Viêm phát động chiến tranh và nhanh chóng tiêu diệt nước Đông
**Đào Hoàng** (chữ Hán: 陶璜), tự **Thế Anh** (世英), là đại tướng dưới triều Đông Ngô và Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Giành lại Giao châu Tấn thư không ghi rõ ràng
**Lưu Bình** (; ? - 272), không rõ tên tự, là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Lưu Bình quê ở huyện Trường Sơn, quận Cối
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王濬; 206-285) là đại tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công góp phần tiêu diệt nước Đông Ngô, thống nhất Trung Quốc sau thời kỳ chia
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Bắc thuộc lần thứ hai** (chữ Nôm: 北屬吝次二, ngắn gọn: **Bắc thuộc lần 2**) trong lịch sử Việt Nam kéo dài khoảng 500 năm từ năm 43 đến năm 543, từ khi Mã Viện theo
**Đỗ Dự** (chữ Hán: 杜预; 222-284) là tướng nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc, người Đỗ Lăng, Kinh Triệu (nay là phía đông nam Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc). Ông là người
**Hà Thực** (; ? – ?), tự **Nguyên Cán** (元幹), là quan viên, ngoại thích Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Hà Thực quê ở quận Đan Dương,
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Chiến dịch Giao Quảng** (còn gọi theo Hán Việt là **Giao Chỉ chi loạn** hoặc **Tấn Ngô Giao Chỉ chi chiến**) là cuộc chiến thời Tam Quốc giữa hai nước Tấn và Đông Ngô trong
**Trương Đễ** (chữ Hán: 张悌, ? – 280), tên tự là **Cự Tiên**, người huyện Tương Dương , là thừa tướng cuối cùng của nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2** phản ánh những biến động về địa giới hành chính của Việt Nam từ năm 43 đến năm 541, qua tay 7 triều đại phong kiến
ĐỢI ĐI VẾT THƯƠNG NÀO RỒI CŨNG LÀNH Lư Tư Hạo Tên sách Đợi Đi Vết Thương Nào Rồi Cũng Lành Tác giả Lư Tư Hạo Người dịch Liêu Dương Ca Thể loại Tản Văn
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Lý Khắc Ninh** (, ? - 25 tháng 3 năm 908) là em trai của quân phiệt Lý Khắc Dụng vào những năm cuối của nhà Đường. Sau khi Lý Khắc Dụng qua đời, Lý
**Sầm Hôn** (?-280) là quan lại nhà Đông Ngô thời Tam Quốc và là nịnh thần của Tôn Hạo, hoàng đế cuối cùng của Đông Ngô. ## Cuộc đời Theo _Tam quốc chí_ của Trần
**Lâu Huyền** (; ? – 275?), tự **Thừa Tiên** (承先), là quan viên Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Lâu Huyền quê ở huyện Kỳ, quận Bái, Dự
**Nguyễn Phúc Luân** (chữ Hán: 阮福㫻, 11 tháng 6 năm 1733 - 24 tháng 10 năm 1765) hay **Nguyễn Phúc Côn**, còn gọi là **Nguyễn Hưng Tổ** (阮興祖), là một Vương tử ở Đàng Trong,
**Tôn Khoa**
**孫科**
x|}