Khi nói đến làng Liêu Xuyên (xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên), người ta thường nhắc đến vị Trạng nguyên đời Lý Cao Tông là Đỗ Thế Diên; đến 2 cha con kế thế đăng khoa là Quốc lão, Thái tể Phạm Công Trứ (1600 - 1675) và Tiến sĩ Phạm Công Phương thời Lê - Trịnh, nhưng còn một nhân vật rất nổi tiếng, là một trung thần tuẫn tiết dưới triều vua Minh Mệnh nhà Nguyễn, đó chính là quan Án Phạm Đình Trạc.
Phạm Đình Trạc, tự là Bạt Khanh, thụy Đoan Trực, hiệu là Thuần Tiết, người xã Liêu Xuyên, huyện Đường Hào, trấn Hải Dương. Tổ 4 đời của ông húy là Thiền, đỗ Hương cống cuối đời Lê, làm quan đến Tham nghị xứ Kinh Bắc; tổ 3 đời húy là Đôn, cũng đỗ Hương cống.
Phạm Đình Trạc là người tính hạnh hiền hòa, thường ngày giao tiếp rất rộng rãi, cung kính theo lễ độ.Ông đỗ Cử nhân khoa Tân Tỵ (1821) và được sung vào làm Hành tẩu bộ Lễ. Được nhiều người đứng ra tiến cử, nhưng vì tính cương trực nên ông đều không chấp nhận. Năm Đinh Hợi (1827), Phạm Đình Trạc được tuyển cử làm Tri huyện Hà Đông (tòng Lục phẩm); sau đó, ông được triệu về Kinh làm Chủ sự bộ Lễ (chánh Lục phẩm). Tháng 9 năm Nhâm Thìn (1832), thăng Phạm Đình Trạc lên làm Lang trung bộ Lại (chánh Tứ phẩm) và đến mùa Xuân, tháng Giêng, năm Quý Tỵ (1833), ông được điều bổ làm Án sát sứ tỉnh Cao Bằng (tòng Tam phẩm).
Đến nhậm chức được 7 tháng, Bế Văn Cận và Nông Văn Vân tụ tập dân chúng, kéo nhau từ tỉnh Tuyên Quang sang vây đánh tỉnh thành Cao Bằng. Thự Bố chính Bùi Tăng Huy, Án sát Phạm Đình Trạc và Lãnh binh Lạng Sơn Phạm Văn Lưu cùng đồng sự mưu giữ lấy của cải, thóc lúa để cố thủ. Qua hơn một tháng, quân cứu viện không đến, giặc quây đánh bốn mặt, pháo bắn như mưa, thành sắp bị vỡ.
Trước tình thế nguy cấp đó, Bùi Tăng Huy và Phạm Đình Trạc mới họp văn, võ, binh lính và chức dịch mà bàn rằng: Nay sức đã kiệt, quân cứu viện lại không có, chúng ta thà chết cho toàn tính mệnh quan quân một thành. Rồi các viên ấy đều mặc triều phục, đặt hương án, trông về cửa cung khuyết mà lạy, đoạn đem triều phục, bằng sắc đốt hết. Bùi Tăng Huy tự thắt cổ chết, Phạm Đình Trạc nằm xuống hố (đã đào sẵn), sai người lấp đất lên; Phạm Văn Lưu cũng thắt cổ chết. Hôm đó là ngày mồng 5 tháng 10 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mệnh thứ 14 (1833).
Ngay sau khi Tổng thống Quân vụ Đại thần Tạ Quang Cự khôi phục được tỉnh thành Cao Bằng, đã đem hết sự trạng tâu lên triều đình. Thánh tổ Nhân hoàng đế (Minh Mệnh) khen họ là những người có chí khí và đến năm Ất Mùi (1835) cho lập một đàn tế cùng với việc xây dựng ngôi đền thờ (gọi là đền Tam Trung, ngày nay thuộc xã Gia Cung, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng) để nêu gương tiết liệt.
Đến đời vua Thiệu Trị đã truy tặng Phạm Đình Trạc chức Tham tri bộ Lễ (tòng Nhị phẩm) và lục dụng hai người con của ông: Con trưởng là Phạm Đình Nghị ấm thụ chức Tư vụ; con thứ Phạm Bá Quỹ được sung vào học ở Quốc Tử Giám. Năm Bính Thìn (1856) đời vua Tự Đức, cùng với Bùi Tăng Huy, Phạm Đình Trạc đều được liệt thờ vào Trung Nghĩa từ (đền thờ những vị trung thần của triều Nguyễn).
Tấm gương tuẫn tiết của Bùi Tăng Huy, Phạm Văn Lưu và Phạm Đình Trạc đã được các quan đồng liêu, bạn bè, nhân dân địa phương và du khác thập phương kính trọng. Và, rất nhiều bài văn tế, văn viếng, bài thơ, câu đối, bia ký... của những danh nhân thuở bấy giờ, như Hoàng giáp Phạm Sĩ Ái, Phó bảng Nguyễn Văn Siêu, Hội nguyên Đỗ Huy Cát, Cử nhân Dương Bá Trạc... lưu tại đền Tam Trung đã nói lên điều đó./.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Link
https://hophamvietnam.com/Ed82E33_EdC29d9
Khi nói đến làng Liêu Xuyên (xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên), người ta thường nhắc đến vị Trạng nguyên đời Lý Cao Tông là Đỗ Thế Diên; đến 2 cha con
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân** là một cuộc đấu tranh chống nhà Nguyễn của các dân tộc thiểu số ở Việt Bắc (Việt Nam) do Nông Văn Vân làm thủ lĩnh, xảy ra
nhỏ|Danh Sỹ Nguyễn Bá Trác **Nguyễn Bá Trác** (chữ Hán: 阮伯卓; 1881 – 1945), bút hiệu _Tiêu Đẩu_, là quan nhà Nguyễn, cộng sự của thực dân Pháp, nhà cách mạng, nhà báo và là
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
**Trung Hoa Dân quốc** () là đảo quốc và quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Ngày nay, do ảnh hưởng từ vị thế lãnh thổ cùng nhiều yếu tố chính trị
**Kinh Thư** (書經 _Shū Jīng_) hay còn gọi là **Thượng Thư** (尚書) là một bộ phận trong bộ sách Ngũ Kinh của Trung Quốc, ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua
**Lý Thạnh** (chữ Hán: 李晟, 727 – 793), tên tự là **Lương Khí**, người Lâm Đàm, Thao Châu , là tướng lĩnh trung kỳ nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia trấn
**Trịnh Giang** (chữ Hán: 鄭杠, 14 tháng 10 năm 1711 – 30 tháng 12 năm 1762), còn có tên khác là **Trịnh Khương** (鄭橿), hay **Trịnh Cường**, thụy hiệu là **Dụ Tổ Thuận vương** (裕祖順王),
**_Đại Việt sử ký toàn thư_** (), đôi khi gọi tắt là **_Toàn thư_**, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Thanh vương** **Trịnh Tráng** (chữ Hán: 鄭梉, 6 tháng 8 năm 1577 – 28 tháng 5 năm 1657), thụy hiệu **Văn Tổ Nghị vương** (文祖誼王), là chúa Trịnh thứ 2 thời Lê Trung hưng chính
là một seri truyện tranh Nhật Bản do Jun Mochizuki sáng tác, lần đầu xuất hiện trên tạp chí shounen manga G-Fantasy của Square Enix tháng 6 năm 2006. Tính tới thời điểm hiện tại
**Diễn Châu** là một huyện cũ đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Nghệ An, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện Diễn Châu nằm ở phía đông tỉnh Nghệ An, có
**Lương Khải Siêu** (1873 - 1929), tự là **Trác Như**, hiệu là **Nhiệm Công**, bút hiệu là **Ẩm Băng Tử**, **Ẩm Băng Thất chủ nhân**. Ông là nhà tư tưởng và là nhà hoạt động
**Thắng cảnh loại AAAAA** (chữ Hán giản thể: 国家5A旅游景区, _Quốc gia 5A lữ du cảnh khu_) là các thắng cảnh, khu du lịch tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được Cơ quan Du lịch
**Hannah Arendt** (; tên khai sinh: **Johanna Arendt**; 14 tháng 10 năm 1906 – 4 tháng 12 năm 1975) là một nhà triết học và sử học người Mỹ gốc Đức. Bà được đánh giá là