✨Hannah Arendt

Hannah Arendt

Hannah Arendt (; tên khai sinh: Johanna Arendt; 14 tháng 10 năm 1906 – 4 tháng 12 năm 1975) là một nhà triết học và sử học người Mỹ gốc Đức. Bà được đánh giá là một trong những nhà lý luận chính trị cực kỳ có ảnh hưởng của thế kỷ thứ 20.

Arendt sinh ra trong một gia đình Do Thái tại Linden, nay là Hanover, vào năm 1906. Khi lên ba, gia đình Arendt chuyển đến sống ở Königsberg, thủ phủ Đông Phổ, để cha bà là Paul Arendt tiện điều trị giang mai. Ông mắc phải căn bệnh này từ khi còn trẻ và bệnh tình đã thuyên giảm lúc Arendt chào đời. Ông mất lúc bà mới 7 tuổi. Arendt được nuôi dưỡng trong một gia đình có tư tưởng chính trị vô thần và tiến bộ. Mẹ bà là người nhiệt tình ủng hộ Đảng Dân chủ Xã hội Đức. Sau khi hoàn thành chương trình trung học ở Berlin, bà đỗ Đại học Marburg và học tập dưới sự chỉ bảo của triết gia Martin Heidegger. Thời gian đó, giữa bà và Heidegger nảy sinh mối tình kéo dài 4 năm. Arendt nhận bằng tiến sĩ triết học tại Đại học Heidelberg vào năm 1929 với luận văn Tình yêu và Thánh Augustinus theo sự hướng dẫn của nhà triết học hiện sinh Karl Jaspers.

Hannah Arendt kết hôn với Günther Stern vào năm 1929. Vào khoảng những năm 1930 khi Đức Quốc Xã trở nên lớn mạnh, Arendt phải đối diện với thái độ miệt thị người Do Thái ngày càng tăng. Năm 1933 Adolf Hitler lên nắm quyền, Arendt bị cầm tù một thời gian ngắn bởi Gestapo với tội danh thực hiện nghiên cứu bất hợp pháp về chủ nghĩa bài Do Thái ở Đức Quốc xã. Sau khi được thả, bà trốn khỏi Đức sang Tiệp Khắc và Thụy Sĩ rồi định cư tại Paris. Ở đó, bà làm việc cho tổ chức Thanh niên Aliyah, hỗ trợ những người Do Thái trẻ tuổi di cư đến lãnh thổ ủy trị Palestine. Bà ly hôn Stern vào năm 1937, và cưới Heinrich Blücher vào năm 1940. Khi Đức xâm lược Pháp vào năm 1940, Arendt bị chính quyền sở tại giam giữ vì là người ngoại quốc dù bà đã bị tước quyền công dân Đức từ năm 1937. Bà trốn thoát và đặt chân đến Hoa Kỳ vào năm 1941 qua đường Bồ Đào Nha, tới được New York và sống ở đó suốt quãng đời còn lại. Bà trở thành nhà văn, nhà biên tập và công tác tại Tổ chức Tái thiết Văn hóa Do Thái, chính thức nhập quốc tịch Mỹ năm 1950. Sau khi xuất bản cuốn Các nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị (The Origins of Totalitarianism) vào năm 1951, Arendt nổi danh trong vai trò một nhà tư tưởng và một nhà văn. Bà tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm như Thân phận con người (The Human Condition) vào năm 1958, Eichmann ở JerusalemVề cách mạng (On Revolution) vào năm 1963. Ngoài ra, bà còn giảng dạy tại nhiều trường đại học ở Mỹ, nhưng luôn từ chối các hợp đồng thuê theo nhiệm kỳ. Bà đột ngột qua đời vì một cơn đau tim năm 1975, hưởng thọ 69 tuổi, để lại cuốn Đời sống tinh thần (The Life of the Mind) còn đang dang dở.

Trước tác của Arendt xoay quanh nhiều chủ đề. Nổi bật nhất trong số đó là về bản chất của quyền lực và cái ác, cũng như về chính trị, dân chủ trực tiếp, quyền hành (authority) và chủ nghĩa toàn trị. Với công chúng, bà có lẽ được nhớ đến nhiều nhất với tranh cãi xung quanh vụ xét xử Adolf Eichmann, là nỗ lực của bà nhằm giải thích rằng chế độ toàn trị hoàn toàn có khả năng biến những người bình thường thành tác nhân dưới sự thống trị của nó, điều mà một số người bất đồng quan điểm coi là lời biện hộ, và với cụm từ "sự tầm thường của cái ác" (the banality of evil).

Tuổi thơ, thiếu thời và giáo dục (1906-1929)

Gia đình

Hannah Arendt, tên khai sinh là Johanna Arendt, chào đời vào năm 1906 trong một gia đình thế tục Do Thái – Đức có học thức tại Linden, Phổ (nay là Hanover), thuộc lãnh thổ Đức thời Wilhelmine. Gia đình bà gốc gác là những thương nhân Nga từ Königsberg, thủ phủ Đông Phổ. Ông bà Arendt là thành viên của cộng đồng Do Thái giáo Cải cách ở đó. Ông nội bà, (1843–1913), là một doanh nhân, chính khách địa phương rất nổi trội, một trong những thủ lĩnh của cộng đồng Do Thái Königsberg và là thành viên của Centralverein deutscher Staatsbürger jüdischen Glaubens (Tổ chức Trung ương các Công dân Đức của Đức tin Do Thái). Giống như các thành viên khác của Centralverein, ông coi bản thân mình là công dân Đức và không tán thành những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái như Kurt Blumenfeld trẻ tuổi (1884–1963) chẳng hạn, người thường xuyên đến thăm nhà họ và sau này trở thành một trong những người thầy của Hannah. Trong số những người con của Max, Paul Arendt (1873–1913) làm kỹ sư và Henriette Arendt (1874–1922) làm cảnh sát kiêm nhân viên xã hội.

Hannah là con một của Paul và Martha Arendt (nhũ danh Cohn; 1874–1948). Hai ông bà kết hôn vào ngày 11 tháng 4 năm 1902 và sinh con gái đặt tên theo người bà nội. Họ Cohn chạy khỏi khu vực nay là Litva (bấy giờ thuộc Nga) tới tị nạn tại Königsberg vào năm 1852 vì thái độ bài Do Thái ở quê nhà. Họ kiếm sống bằng nghề nhập khẩu trà, mở công ty J. N. Cohn & Company rất thành đạt trong khu vực. Họ Arendt cũng rời Nga tới Đức một thế kỷ trước. Gia đình mở rộng của Hannah có rất nhiều người cô dì góa chồng và mất mát con cái. Cha mẹ Hannah được học hành tử tế và có lập trường chính trị tả khuynh hơn thế hệ đi trước. Đôi vợ chồng trẻ gia nhập Đảng Dân chủ Xã hội Đức, thay vì Đảng Dân chủ Đức lúc bấy giờ được nhiều người trạc tuổi ủng hộ. Paul Arendt từng theo học trường Albertina (nay là Đại học Königsberg). Mặc dù hành nghề kỹ sư, Paul lại rất lấy làm tự hào sở thích nghiên cứu văn học cổ điển của mình. Ông sưu tập và tạo dựng một thư viện tại gia lớn, cho phép con gái tha hồ đọc sách. Về phần Martha Cohn, bà từng học ba năm tại Đại học Paris, sau trở thành một nhạc sĩ.

Trong bốn năm đầu của cuộc hôn nhân, gia đình Arendt sống tại Berlin và trở thành những người ủng hộ tạp chí xã hội chủ nghĩa . Tại thời điểm Hannah chào đời, Paul Arendt đang làm việc cho một công ty kỹ thuật điện ở Linden, và họ sống trong một căn nhà gỗ trên quảng trường chợ (Marktplatz). Gia đình họ chuyển về Königsberg vào năm 1909 vì sức khỏe của Paul sa sút. Cha của Hannah mắc bệnh giang mai kéo dài và phải nằm điều trị tại viện tâm thần Königsberg vào năm 1911. Ròng rã mấy năm sau đó, Hannah thường xuyên phải xét nghiệm Wassermann để tìm triệu chứng giang mai bẩm sinh. Cha bà mất vào ngày 30 tháng 10 năm 1913, khi Hannah mới 7 tuổi. Hannah và mẹ chuyển tới sống cùng ông nội ở địa chỉ Tiergartenstraße 6, nằm trên một con phố rợp bóng cây giáp với Königsberg Tiergarten, trong khu Hufen chủ yếu có cư dân Do Thái. Mặc dù cha mẹ Hannah không theo tôn giáo nào, họ vẫn vui vẻ cho phép ông nội Max đưa con gái đến hội đường Cải cách. Tại đây, bà nhận được những lời chỉ giáo của rabbi Do Thái Hermann Vogelstein. Vào thời điểm đó, Hannah trẻ tuổi tâm sự bồng bột rằng bà muốn kết hôn với anh ta khi lớn lên. Gia đình bà có liên kết xã giao với nhiều hội nhóm trí thức – chuyên gia với những tiêu chuẩn và lý tưởng cao. Hannah hồi tưởng:

Sự hình thành tư tưởng trí thức ban sơ của tôi diễn ra trong bầu không khí nơi mà chẳng ai thèm đặt ra các câu hỏi về đạo đức; chúng tôi được nuôi dạy dưới sự thừa nhận rằng: (_Đạo đức không cần phải giãi bày_), cách cư xử đạo đức là chuyện thường tình ắt xảy đến.

Khoảng thời gian này đặc biệt thuận lợi cho cộng đồng Do Thái ở Königsberg, một tâm điểm của làn sóng Haskalah (khai sáng Do Thái). Gia đình Hannah vốn đã bị Đức hóa một cách triệt để và sau này bà kể lại: "Đối với những người như chúng tôi đến từ Đức, cái từ 'đồng hóa' mang một ý nghĩa triết học 'sâu sắc'. Các bạn khó có thể hiểu chúng tôi nghiêm túc với nó như thế nào." Bất chấp thuận cảnh, người Do Thái vẫn chưa được ban quyền công dân hoàn chỉnh, và mặc dù tệ bài Do Thái bấy giờ không được công khai, song thực chất vẫn tồn tại. Hannah nhìn nhận bản sắc Do Thái của mình một cách tiêu cực do bị miệt thị khi lớn lên. Bà tự coi mình là mẫu người kiểu Rahel Varnhagen (1771–1833), một phụ nữ có vai vế trong xã hội Phổ, rất muốn được hòa nhập vào văn hóa Đức song bị khước từ chỉ vì bản thân sinh ra đã là người Do Thái. Hannah chia sẻ rằng, Varnhagen là "người bạn nữ thân thiết nhất của tôi, chỉ tiếc rằng cô ấy đã mất cách đây cả trăm năm." Varnhagen sau này trở thành nhân vật chủ đề trong một cuốn tiểu sử được viết bởi Hannah.

Vào hai năm cuối Thế chiến thứ nhất, mẹ Hannah chủ trì các nhóm thảo luận dân chủ xã hội và trở thành tín đồ của Rosa Luxemburg (1871–1919) khi các cuộc nổi dậy xã hội chủ nghĩa nổ ra trên khắp nước Đức. Các bài luận của Luxemburg đã ảnh hưởng không nhỏ đến tư duy chính trị của Hannah về sau. Năm 1920, Martha Cohn kết hôn với Martin Beerwald (1869–1941), một người thợ sắt góa vợ đã bốn năm. Họ chuyển đến sống chung với gia đình Beerwald tại địa chỉ Busoldstrasse 6, cách hai dãy nhà. Cuộc hôn nhân này đã cải thiện an ninh tài chính và vị thế xã hội của hai mẹ con bà. Lúc đó Hannah mới 14 tuổi và có thêm hai người chị gái Clara (1901–1932) và Eva (1902–1988).

Giáo dục

Thuở nhỏ

Mẹ của Hannah Arendt, người tự cho mình là có tư tưởng tiến bộ, tìm cách nuôi dạy con gái theo đường lối nghiêm khắc của Goethe, bao gồm việc bắt Hannah đọc hết đống tác phẩm hoàn chỉnh của Goethe, thường được tóm tắt bằng câu văn Was aber ist deine Pflicht? Die Forderung des Tages (Và nhiệm vụ của bạn là gì? Những yêu cầu trong ngày) trong tác phẩm Wilhelm Meisters Lehrjahre (1796). Goethe lúc bấy giờ được coi là chuyên gia về công cuộc (giáo dục), sự hình thành có ý thức của tâm trí, cơ thể và tinh thần. Các yếu tố then chốt của quá trình đó bao gồm sự kỷ luật tự giác, sự truyền tải đam mê mang tính xây dựng, sự quên mình và trách nhiệm đối với người khác. Quá trình giáo dục của Hannah () được mẹ bà ghi lại cẩn thận trong một cuốn sổ đặt tựa là (Con chúng ta), và bà thường xuyên so sánh Hannah với tiêu chuẩn ("phát triển bình thường") lúc bấy giờ.

Arendt đi học mẫu giáo từ năm 1910, nơi giáo viên rất ấn tượng trước sự thông minh lanh lợi của cô bé. Bà vào học trường Szittnich, Königsberg (Hufen-Oberlyzeum), trên phố Bahnstraße vào tháng 8 năm 1913, nhưng việc học ở đó bị gián đoạn do chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, buộc gia đình bà phải tạm lánh đến Berlin vào ngày 23 tháng 8 năm 1914 để tránh cuộc tiến công của quân Nga. Họ trú nhờ tại nhà người dì Margarethe Fürst (1884–1942), cùng ba đứa con, trong thời gian đó Hannah theo học tại trường dành cho nữ sinh ở Berlin-Charlottenburg. Sau 10 tuần, gia đình Arendt quay trở lại Königsberg sau khi chiến sự đã lắng xuống, rồi trải qua những năm tháng chiến tranh còn lại tại nhà ông nội. Arendt học tiếng Hy Lạp cổ đại từ khi còn rất nhỏ, biết viết thơ khi tới tuổi thiếu niên, và mở một câu lạc bộ triết học và Hy Lạp tên là Graecae tại ngôi trường mà bà đang học. Bà rất độc lập trong học tập và là người ham mê đọc sách, thuộc lòng văn thơ và triết học của Pháp và Đức. Năm 14 tuổi, bà đã đọc được các tác phẩm của Kierkegaard, cuốn của Jaspers và Phê phán lý tính thuần túy của Kant. Vị triết gia Kant, vốn cũng là người Königsberg, đã có ảnh hưởng vô cùng lớn đến tư tưởng của bà, và chính Kant đã bình phẩm như sau về Königsberg "một thị trấn như đây là nơi thích hợp để thu thập kiến ​​thức về loài người và thế giới mà chẳng cần phải chu du phiêu bạt".

Arendt học trung học tại trường Königin-Luise-Schule, một trường gymnasium nữ sinh nằm trên phố Landhofmeisterstraße. Hầu hết bạn bè của bà tại đây là những đứa trẻ có năng khiếu được sinh thành trong các gia đình Do Thái chuyên nghiệp, hầu hết đều lớn tuổi hơn bà và đỗ đạt lên bậc đại học. Trong số đó có anh chàng Ernst Grumach (1902–1967), người đã giới thiệu bà với người bạn gái của mình là Anne Mendelssohn, sau này trở thành người bạn tri kỷ của Arendt. Sau khi Anne chuyển đi, Ernst và Arendt nảy sinh tình cảm, và Ernst cũng là mối tình đầu tiên trong đời bà. Giống như Arendt, Anne trở thành một nhà triết học, lấy bằng tiến sĩ tại Hamburg, còn Ernst trở thành một nhà bác ngữ.

Bậc đại học và cao học

thumb|upright=0.8|Chân dung Hannah năm 1924|alt=Photo of Hannah in 1924

Berlin (1922–1924)

Arendt bị đình chỉ khỏi Luise-Schule vào năm 1922 hồi 15 tuổi vì đầu trò tẩy chay một giáo viên đã xúc phạm bà. Mẹ bà đành sắp xếp cho con gái lên Berlin nhờ vả những người bạn của gia đình trong Đảng Dân chủ Xã hội. Tại Berlin, Arendt sống tại khu ký túc xá dành cho sinh viên và dự thính các khóa học do bà chọn tại Đại học Berlin (1922–1923), bao gồm các khóa nghiên cứu kinh điển và thần học Kitô giáo của Romano Guardini. Điều này giúp bà có thể tham dự kỳ thi tuyển sinh __ của Đại học Marburg, nơi Ernst Grumach từng học hỏi người thầy Martin Heidegger được bổ nhiệm làm giáo sư ở đó vào năm 1922. Để đạt kết quả tốt trong kì thi tới, mẹ bà đã thuê một gia sư riêng, còn cô dì Frieda Arendt, vốn là một giáo viên, cũng giúp đỡ bà, và Ernst Aron, chồng của Frieda, đã hỗ trợ tài chính để bà theo đuổi ước mơ đại học.

Marburg (1924–1926)

Tại Berlin, Guardini giới thiệu Arendt với Kierkegaard, khiến bà quyết tâm chọn thần học là lĩnh vực chính của mình.Tại Marburg (1924–1926) bà học ngôn ngữ cổ điển, văn học Đức, thần học Tin lành dưới sự dìu dắt của Rudolf Bultmann và triết học dưới trướng Nicolai Hartmann và Heidegger. Arendt đến Marburg vào đúng thời điểm cuộc cách mạng tri thức đang được Heidegger khởi xướng, người mà bà vô cùng ngưỡng mộ, mô tả ông ấy thời đó là "vị vua ẩn mình ngự trị ở cõi tư duy".

Trước khi tới Marburg, Heidegger từng làm phụ tá cho Edmund Husserl thời còn ở Đại học Freiburg, và sau này ông đã tách khỏi phong trào trí thức do người thầy cũ khơi mào. Đây là thời kỳ Heidegger đang chuẩn bị các bài giảng về Kant, mà về sau sẽ phát triển thành hai cuốn (Tồn hữu và Thời gian) vào năm 1927 và Kant und das Problem der Metaphysik (Kant và Vấn đề Siêu hình học) vào năm 1929. Tuy rằng Heidegger thể hiện sự kính trọng Edmund Husserl trong cuốn Sein und Zeit, Husserl đã đánh giá tác phẩm này khá tệ, nên trong ấn bản thứ hai, Heidegger đã lược bỏ phần tỏ sự kính trọng đó.

Ở các lớp giảng, ông và các sinh viên của mình cố gắng mổ xẻ ý nghĩa của "Tồn hữu" trong khi dần dần làm quen với khái niệm ἀλήθεια (sự thật) của Aristotle và đọc qua tác phẩm Ngụy biện của Platon. Nhiều năm sau, Arendt nhớ lại khoảng thời gian này, mọi người lũ lượt kéo về Marburg để nghe ông thuyết giảng, và trên hết, cách ông truyền đạt ý tưởng ("tư duy") như thể một sinh hoạt, điều mà bà đánh giá là "lối suy nghĩ nồng nhiệt".

Arendt hồi đó bồn chồn. Cho đến nay con đường học vấn của bà chẳng hề thỏa mãn về cả mặt tinh thần lẫn trí tuệ. Bà đã sẵn sàng cho một đam mê, hoàn thành bài thơ (sự an ủi, 1923) với những vần thơ tiếng Đức:

Cuộc gặp gỡ của bà với Heidegger thể hiện một sự thoát ly đầy kịch tính khỏi quá khứ. Ông ấy là một thiên tài, đẹp trai, lãng mạn, người dạy rằng tư duy và "sống động" chỉ là một. Arendt hồi 17 tuổi bắt đầu mối tình lãng mạn lâu dài với Heidegger 35 tuổi, người đã kết hôn và có hai đứa con trai nhỏ. Arendt sau đó bị chỉ trích vì điều này do Heidegger ủng hộ Đảng Quốc xã sau khi ông được bầu làm hiệu trưởng của Đại học Freiburg vào năm 1933. Tuy nhiên, ông vẫn là một trong những nhân vật có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến lối suy nghĩ của bà, và về sau ông cũng thổ lộ rằng bà chính là nguồn cảm hứng cho công trình của ông về suy nghĩ đam mê hồi đó. Họ đồng ý giữ bí mật các chi tiết của mối quan hệ, lưu giữ các bức thư tình mà không công bố. Mối quan hệ lén lút này bị phát hiện sau khi cuốn tiểu sử về cuộc đời Arendt của tác giả Elisabeth Young-Bruehl được xuất bản vào năm 1982. Vào thời điểm đó, Arendt và Heidegger đã qua đời còn người vợ của Heidegger, Elfride (1893–1992), vẫn còn sống. Mối tình này không được nhiều người quan tâm cho đến năm 1995, khi Elzbieta Ettinger được quyền truy cập vào các thư từ niêm phong và công bố một tường thuật gây tranh cãi, bị lợi dụng bởi những người không ủng hộ Arendt nhằm công kích tính chính trực của bà. Tường thuật đó đã dẫn đến một vụ bê bối mà rốt cuộc bị bác bỏ.

Tại Marburg, Arendt sống tại địa chỉ Lutherstraße 4. Trong số những người bạn của bà có Hans Jonas, người bạn cùng lớp gốc Do Thái duy nhất của bà. Một học trò khác của Heidegger là bạn của Jonas, nhà triết học Do Thái Gunther Siegmund Stern (1902–1992)con trai của nhà tâm lý học nổi tiếng Ludwig Wilhelm Sternsau này sẽ trở thành người chồng đầu tiên của Arendt. Stern hoàn thành luận văn tiến sĩ với sự giúp đỡ của Edmund Husserl tại Freiburg, và bấy giờ đang làm luận văn habilitation cùng Heidegger, nhưng Arendt vào thời điểm đó đang lưu luyến với Heidegger nên ít để mắt đến Stern.

Die Schatten (1925)

Vào mùa hè năm 1925, trong khi bà về thăm Königsberg, Arendt đã sáng tác tự truyện duy nhất về chính mình mang tên (Những cái bóng), một "mô tả về bản thân bà" để gửi gắm cho Heidegger. Trong tác phầm tràn đầy sự dằn vặt khổ tâm này, bà bày tỏ những nỗi bất an liên quan đến sự nữ tính và gốc gác Do Thái của mình bằng ngôn ngữ của Heidegger, viết theo kiểu trừu tượng ở ngôi thứ ba. Bà miêu tả trạng thái "" (xa lánh), một mặt là sự mất mát đột ngột của thanh xuân và sự ngây thơ, mặt khác là một "" (sự lạ kỳ), tức là sự phát hiện điều đáng chú ý trong điều tầm thường. Trong những dòng tâm tư giãi bày nỗi đau thời thơ ấu và khao khát được chở che, bà để lộ những tổn thương trong lòng và kể về tình yêu đối với ông đã giải phóng bà như thế nào và một lần nữa lấp đầy thế giới của bà với sắc màu và huyền bí. Bà coi mối quan hệ của mình với Heidegger là "" ("một sự tận tâm cứng nhắc đối với một người đàn ông độc nhất"). Khoảng thời gian khám phá nội tâm này cũng là một trong những giai đoạn bà sáng tác nhiều thơ nhất, chẳng hạn như bài (Lạc vào sự tự chiêm nghiệm).

Freiburg và Heidelberg (1926–1929)

Sau một năm tại Marburg, Arendt dành một học kỳ tại Freiburg, tham dự các bài giảng của Husserl. Năm 1926, bà chuyển đến Đại học Heidelberg, nơi vào năm 1929, bà hoàn thành luận văn của mình dưới sự chỉ bảo tận tình của triết gia đại tài dẫn đầu phong trào triết học hiện sinh mới và mang tính cách mạng lúc bấy giờ, Karl Jaspers (1883–1969), một bằng hữu của Heidegger. Luận văn của bà mang tên Der Liebesbegriff bei Augustin: Versuch einer Philosophischen Interpretation (Về khái niệm tình yêu trong tư tưởng của Thánh Augustinus: Phân tích một diễn giải triết học). Bà trở thành bạn với Jaspers và vợ ông là Gertrud Mayer (1879–1974), hai người phát triển mối quan hệ tri thức sâu sắc với nhau. Tại Heidelberg, nhóm bạn của bà bao gồm Hans Jonas, người cũng đã chuyển từ Marburg để hoàn thiện tác phẩm của mình, và ngoài ra có ba nhà triết học trẻ: Karl Frankenstein, Erich Neumann và Erwin Loewenson. Những người bạn và học trò khác của Jaspers bao gồm các nhà ngôn ngữ học Benno von Wiese và Hugo Friedrich (chụp chung với Hannah ở ảnh dưới). Bà cùng với Hugo tham dự các bài giảng của Friedrich Gundolf theo gợi ý của Jaspers, điều này đã khiến bà quan tâm đến chủ nghĩa lãng mạn Đức. Bà cũng quen biết với Kurt Blumenfeld vào một buổi giảng và được tiếp xúc lần đầu với chính trị Do Thái. Tại Heidelberg, bà sống ở khu phố cổ () gần lâu đài Heidelberg có địa chỉ là Schlossberg 16. Ngôi nhà nơi bà sống đã bị phá bỏ vào những năm 1960, nhưng hiện trên vách tường phế tàn của ngôi nhà đó, người ta có treo một tấm bảng tưởng nhớ Arendt.

Sau khi hoàn thành luận văn, Arendt theo đuổi chứng chỉ , ban đầu là về chủ nghĩa lãng mạn Đức, và sau đó là một sự nghiệp giảng dạy hàn lâm. Tuy nhiên năm 1929 lại là năm cuộc Đại khủng hoảng xảy ra, khép lại kỷ nguyên vàng () của Cộng hòa Weimar, một chế độ chênh vênh suốt bốn năm cuối đời nó. Arendt, vì là người Do Thái, ít có cơ hội được đứng giảng tại các trường học ở Đức lúc đó. Dù gì đi chăng nữa, bà đã hoàn thành hầu hết các công trình học thuật trước khi hoàn cảnh ép buộc bà rời khỏi Đức.

Sự nghiệp

Đức (1929–1933)

Berlin-Potsdam (1929)

thumb|[[Günther Stern và Hannah Arendt vào năm 1929|alt=Photo of Günther Stern with Hannah Arendt in 1929]] Năm 1929, Arendt hội ngộ với Günther Stern ở Berlin tại một yến hội hóa trang mừng năm mới, kể từ đó hai người bắt đầu một mối quan hệ gần gũi. Trong vòng một tháng, bà chuyển đến ở cùng ông trong một căn hộ một phòng, dùng chung với một trường dạy múa ở Berlin-Halensee. Sau đó, họ chuyển đến Merkurstraße 3, Nowawes, ở Potsdam và kết hôn vào ngày 26 tháng 9. Họ chia sẻ nhiều điểm chung và cuộc hôn nhân được cả hai bên gia đình hoan nghênh. Vào mùa hè, Hannah Arendt nộp đơn lên để xin trợ cấp cho Habilitation của bà, được hỗ trợ bởi Heidegger và Jaspers cùng nhiều người khác, và trong lúc chờ đợi, bà tiếp tục nghiên cứu hiệu đính để xuất bản luận văn của mình với sự giúp đỡ của Günther.

Wanderjahre (1929–1931)

Giai đoạn hai năm đầu của cuộc hôn nhân giữa Arendt và Günther được nhà nghiên cứu Christian Dries gọi là (những năm lang thang). Hồi đó họ chỉ cố gắng vô ích nhằm đưa Günther lên một chức vị học thuật nào đó. Họ sống ở Drewitz lân cận phía nam Potsdam trong một thời gian ngắn, rồi chuyển đến Heidelberg, nơi họ ở nhờ nhà của Jaspers. Tại Heidelberg, Günther viết xong bản thảo đầu tiên của luận văn Habilitation. Đôi vợ chồng trẻ sau đó chuyển đến Frankfurt nơi Günther hy vọng sẽ hoàn thiện nốt luận văn. Ở đó, Arendt đắm mình trong cuộc sống đại học, tham dự các bài giảng của nhiều giảng viên, trong đó bao gồm Karl Mannheim và Paul Tillich. Gia đình Stern cộng tác cùng viết bài báo bình phẩm về của Rilke (1923) và về của Mannheim (1929). Bài đánh giá đó là đóng góp duy nhất của Arendt dành cho ngành xã hội học. Trong cả hai bài viết về Mannheim và Rilke, Arendt nhận xét rằng tình yêu là một nguyên tắc siêu nghiệm "Bởi vì không tồn tại sự siêu nghiệm thực sự trong thế giới trật tự này, một người cũng chẳng thể vượt trên thế giới, mà chỉ có thể đạt lên những cấp bậc cao hơn". Bà xem Rilke như thể một Augustinus thế tục ngày trước, ví tác phẩm Elegies như một "hình thức tối thượng của kinh sách" (). Sau này, bà phát hiện những hạn chế của tình yêu siêu nghiệm trong việc lý giải các sự kiện lịch sử đưa đẩy bà sang hành động chính trị. Một chủ đề khác mà bà sau này sẽ xây dựng thêm dựa theo Rilke đó là sự tuyệt vọng khi không được lắng nghe. Suy ngẫm về những dòng mở đầu của Rilke:


(Ai, khi ta thét lên, sẽ nghe thấy ta trong số các phẩm trật thiên thần?)

Arendt và Stern viết như sau:

Cái hoàn cảnh nghịch lý, mơ hồ, và tuyệt vọng mà từ cái quan điểm đó _Duino Elegies_ mới thật sự được hiểu sở hữu hai đặc trưng: cái thiếu vắng một sự vang vọng và cái hiểu biết về sự vô ích. Sự quên mình có ý thức của cái nhu cầu cần được lắng nghe, sự tuyệt vọng vì không được lắng nghe, và cuối cùng là cái thôi thúc cất tiếng ngay cả khi không nhận được lời hồi đáp–đây là những nguyên nhân thực sự của bóng đêm, sự khắc nghiệt, và sự căng thẳng của phong cách mà trong đó thơ ca bộc lộ những khả năng của chính nó và ý chí của nó để thành hình

Arendt cũng xuất bản thêm một bài báo về Augustinus (354–430) đăng trên tờ Frankfurter Zeitung để kỷ niệm 1.500 năm ngày mất của ông. Theo bà, bài đăng này đóng vai trò là cầu nối giữa quan điểm về Augustinus trong luận văn khi trước của bà và những nghiên cứu hiện tại của bà về chủ nghĩa lãng mạn. Khi họ nhận ra Stern không thể có được một vị trí ở đại học, đôi vợ chồng đành quay về Berlin vào năm 1931.

Quay về Berlin (1931–1933)

Tại Berlin, vợ chồng Stern ban đầu sống tại khu phố Do Thái mang tên Bayerisches Viertel (Khu phố Bavaria hay "Thụy Sĩ của người Do Thái") ở Schöneberg, Stern, với sự trợ giúp của Bertold Brecht, làm biên tập viên góc văn hóa của tờ Berliner Börsen-Courier do Herbert Ihering chủ biên. Tại đây ông lấy bút danh Günther Anders, tức "Günther Tha Nhân". Arendt phụ giúp Günther trong công việc, nhưng cái bóng của mối tình cũ với Heidegger vẫn bao trùm mối quan hệ hai người họ. Trong lúc Günther nỗ lực hoàn thiện Habilencesschrift, Arendt từ bỏ chủ đề luận văn ban đầu là chủ nghĩa lãng mạn Đức vào năm 1930, đổi hướng sang phân tích Rahel Varnhagen và câu hỏi về sự đồng hóa. Anne Mendelssohn vô tình nhận được một bản sao thư từ của Varnhagen và hào hứng giới thiệu nó cho Arendt, ngoài ra còn tặng bộ sưu tập của bà cho Arendt. Một thời gian sau, chính công trình của Arendt về chủ nghĩa lãng mạn đã đưa bà đến nghiên cứu các salon Do Thái, và rốt cuộc tới salon của Varnhagen. Hannah thấy ở Rahel những phẩm chất phản ánh bản thân bà, đặc biệt là sự nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Rahel, giống như Hannah, tìm ra số phận của mình trong bản sắc Do Thái. Hannah Arendt sau này cho rằng sự chấp nhận phải chung sống với số phận của Rahel Varnhagen là một "sự bị ruồng bỏ có ý thức". Đó là đặc điểm cá nhân mà Arendt đã tìm thấy trong thâm tâm, nhưng phải mãi về sau bà mới chấp nhận điều đó.

Trở lại Berlin, Arendt ngày càng vương vấn với chính trị. Bà đọc các tác phẩm của Marx và Trotsky, đồng thời mở rộng quan hệ xã giao tại Deutsche Hochschule für Politik. Bất chấp khuynh hướng chính trị của mẹ và chồng, bà chưa từng coi mình là một người cánh tả, khăng khăng biện minh rằng đó chỉ là do cái tính Do Thái của bà. Mối quan tâm lớn dần đối với chính trị Do Thái cộng thêm những suy ngẫm trước đây về Varnhagen và sự đồng hóa đã được Arendt đúc kết thành bài báo đầu tiên luận về Do Thái giáo, Aufklärung und Judenfrage ("Sự khai sáng và câu hỏi Do Thái", 1932). Blumenfeld là người đã giới thiệu bà với "Vấn đề Do Thái", chủ đề được ông nghiền ngẫm suốt đời. Cùng khoảng thời gian đó, quan điểm của bà về chủ nghĩa lãng mạn Đức cũng đang có nhiều tiến triển. Bà viết một bài phê bình tác phẩm của Hans Weil (Nguồn gốc nguyên tắc giáo dục Đức, 1930), đề cập đến sự khai sinh của (giới tinh hoa giáo dục) thời Rahel Varnhagen. Đồng thời, bà cũng bị cuốn hút bởi mô tả của Max Weber về địa vị của người Do Thái như thể một quốc gia-dân tộc (dân tộc bị ruồng bỏ) trong cuốn Wirtschaft und Gesellschaft (1922), và mượn thuật ngữ paria conscient (kẻ bị ruồng bỏ có ý thức) của Bernard Lazare mà bà rất tâm đắc. Trong cả hai bài báo đó, bà đề cao và phát triển quan điểm của Johann Gottfried von Herder. Một mối quan tâm khác của bà vào thời điểm đó là địa vị của phụ nữ trong xã hội, vì đó mà vào năm 1932 bà đã viết bài đánh giá cuốn sách (Các vấn đề của phụ nữ đương đại: Bảng cân đối tâm lý) của Alice Rühle-Gerstel. Mặc dù bà không quá ủng hộ phong trào nữ quyền, nhưng cũng rất đồng cảm với quan điểm trong cuốn sách. Xét về địa vị phụ nữ bấy giờ, Arendt hoài nghi rằng phong trào thật sự có thể xoay chuyển tình thế chính trị hiện tại. Hơn nữa bà cũng chỉ trích phong trào này, vì nó là phong trào dành riêng cho phụ nữ thay vì cùng với nam giới tập hợp thành phong trào mạnh mẽ hơn, và vì nó còn quá trừu tượng thay vì phấn đấu cho các mục tiêu cụ thể. Ở đây rõ ràng bà đã chịu ảnh hưởng của Rosa Luxemburg. Giống Luxemburg, bà về sau cũng chỉ trích các phong trào Do Thái vì lý do tương tự. Vậy mới thấy Arendt là người luôn ưu tiên các vấn đề chính trị trước các vấn đề xã hội.

Đến năm 1932, đối mặt trước tình hình chính trị ngày càng trở xấu, Arendt vô cùng bất an trước những báo cáo cho hay Heidegger đã phát biểu tại các cuộc họp quốc xã. Bà viết thư yêu cầu Heidegger phủ nhận những lùm xùm chính trị xoay quanh ông. Heidegger đáp rằng ông sẽ không tìm cách phủ nhận những tin đồn đó (tất cả đều là sự thật), và đảm bảo với bà rằng tình cảm trước kia ông dành cho bà vẫn chưa hề nhạt phai. Là một người Do Thái sống dưới chế độ Quốc xã, Arendt vấp phải khó khăn khi đi kiếm sống và bị phân biệt đối xử. Bà tâm sự với Anne Mendelssohn rằng bà đang tính tản đi nơi khác. Jaspers thuyết phục Arendt phải tự coi mình là người Đức trước tiên; điều mà bà muốn cách ly khỏi, khẳng định bản thân chỉ là người Do Thái và rằng "" (Đối với tôi, nước Đức là tiếng mẹ đẻ, triết học và thơ ca), chứ không phải danh tính của bà. Quan điểm đó khiến Jaspers rất đỗi bối rối, đáp "Thật kỳ lạ với tôi rằng chỉ vì là một người Do Thái mà cô muốn khác người Đức".

Đến năm 1933, cuộc sống của dân Do Thái ở Đức trở nên bấp bênh hơn bao giờ hết. Adolf Hitler nhậm chức Reichskanzler (Thủ tướng) vào tháng Giêng, và vào ngay tháng sau Reichstag bị thiêu rụi. Quyền tự do dân sự ngay lập tức bị chèn ép. Đảng cầm quyền liên tục đả kích các tổ chức cánh tả, nhắm đặc biệt vào các thành viên của Kommunistische Partei Deutschlands (Đảng Cộng sản Đức: KPD). Stern vốn là người cộng sản, phải vội lánh sang Paris. Arendt không theo chồng mà bám trụ tại Đức, trở thành nhà hoạt động chính trị. Nhận thức rõ thời gian rất cấp bách, Arendt sử dụng căn hộ tại Opitzstraße 6, Berlin-Steglitz, nơi bà từng chung sống với Stern từ năm 1932, làm chặng nghỉ của tuyến hỏa xa ngầm dành cho những người đào tẩu. Hành động nhân nghĩa của bà vẫn được tôn vinh tại Đức cho đến ngày nay.

thumb|Bảng tưởng niệm tại Opitzstraße 6|alt=Plaque on the wall at Hannah's apartment building on Opitzstraße, commemorating her thumb|[[Thư viện Nhà nước Berlin|Thư viện Nhà nước Phổ|alt=Photo of exterior of Prussian State Library in 1938]] Arendt đã quyết lập trường chính trị, phê phán Đảng Quốc xã vào năm 1932 với bài viết "Adam-Müller-Renaissance?" đề cập đến hành vi chiếm đoạt cuộc đời của Adam Müller nhằm ủng hộ hệ tư tưởng cánh hữu. Pháp luật tẩy chay và chống Do Thái lần đầu được thông qua vào mùa xuân năm 1933. Đối mặt với chủ nghĩa bài Do Thái có hệ thống, Arendt hô hào mô-típ "Nếu một kẻ bị tấn công vì tư cách là người Do Thái, thì kẻ đó phải tự bảo vệ mình với tư cách là người Do Thái. Không phải với tư cách là người Đức, không phải với tư cách là công dân thế giới, không phải với tư cách là người duy trì Quyền con người." Đây là lời tuyên bố đanh thép của Arendt để tượng trưng cho khái niệm người Do Thái như thể giống dân bị ruồng bỏ, khái niệm mà sẽ bao trùm các tác phẩm Do Thái của bà trong tương lai. Bà dần được biết tới bởi công chúng với bài viết bàn về Rahel Varnhagen, có tiêu đề "" ("Gốc gác đồng hóa: Hồi kết cho kỷ niệm một trăm năm ngày mất của Rahel Varnhagen"), đăng trên tờ vào ngày 7 tháng 3 năm 1933 và chút sau nữa còn được đăng trên tờ . Trong đó, bà lập luận rằng thời đại đồng hóa bắt đầu từ thế hệ của Varnhagen đã kết thúc với chính sách bài trừ Do Thái của nhà nước. Bà mở đầu với lời tuyên bố:

Ngày nay tại nước Đức, dường như cái quá trình _đồng hóa_ Do Thái đành phải tuyên bố sự phá sản của nó. Tư tưởng bài Do Thái chung của xã hội và sự chính thức hóa cái tư tưởng ấy đã ảnh hưởng trước tiên đến những người Do Thái đã bị đồng hóa, những người mà chẳng còn có thể tự bảo vệ bản thân bằng cách rửa tội hoặc nhấn mạnh sự tách ly của họ khỏi Do Thái giáo phương Đông.

Arendt nóng lòng muốn được cho cả thế giới biết về những tai họa đã và đang ập đến với đồng bào Do Thái giữa những năm 1930–1933. Bà hoạt động sát hơn với phái phục quốc Do Thái, bao gồm những nhân vật như Kurt Blumenfeld, Martin Buber và Salman Schocken, đồng thời cũng bắt đầu tìm hiểu về chủ nghĩa bài Do Thái. Arendt có quyền truy cập Thư viện Nhà nước Phổ vì bà từng khảo cứu về Varnhagen tại đó. Tổ chức Zionistische Vereinigung für Deutschland (Liên đoàn phục quốc Do Thái của Đức) của Blumenfeld thuyết phục bà sử dụng quyền truy cập đó để thu thập bằng chứng liên quan đến chủ nghĩa chống Do Thái và tổng hợp thành một bài phát biểu dự kiến ​​trước Đại hội Phục quốc Do Thái ở Praha, bất hợp pháp lúc bấy giờ. Đáng tiếc thay, một thủ thư phát giác công việc này và tố cáo bà tội tuyên truyền chống nhà nước. Đơn vị Gestapo được lệnh bắt giữ cả hai mẹ con Arendt. Họ bị cầm tù tám ngày nhưng may mắn được một sĩ quan cảnh sát trẻ tuổi thông cảm thả ra để chờ ngày xét xử.

Lưu vong tại Pháp (1933–1941)

Paris (1933–1940)

thumb|upright=0.8|[[Rahel Varnhagen khoảng năm 1800|alt=Portrait of Rahel Varnhagen in 1800]] Ngay khi được thả, nhận ra hiểm nguy kề cận, Arendt và mẹ bà bèn trốn khỏi Đức theo con đường tị nạn đã được thiết lập sẵn, băng qua dãy núi Erzgebirge lúc ban đêm, để sang Tiệp Khắc và đến Praha, rồi đi tàu hỏa đến Geneva. Tại đó, bà quyết định cống hiến đời mình cho "đại nghiệp Do Thái". Nhờ một người bạn của mẹ, bà được giao công việc phân phát thị thực và các bài phát biểu tại Cơ quan Do Thái hướng về Palestine của Hội Quốc Liên.

Từ Geneva, gia đình Arendt hòa vào dòng người tị nạn tới được Paris vào mùa thu, nơi bà đoàn tụ với Stern. Arendt rời Đức mà không có giấy tờ tùy thân, còn mẹ bà cầm theo giấy thông hành nên quyết định trở về Königsberg để gặp chồng. Tại Paris, bà kết bạn với anh họ của Stern, nhà phê bình văn học kiêm triết gia Marxist Walter Benjamin (1892–1940), và nhà triết học người Pháp gốc Do Thái Raymond Aron (1905–1983).

Arendt hiện là một émigrée, tức là một người sống lưu vong, không quốc tịch, không giấy tờ, và quay lưng với nước Đức và nhân dân Đức của . Tình trạng pháp lý của bà cực kỳ bấp bênh, ngoài ra còn phải đương đầu với một ngôn ngữ và nền văn hóa quá xa lạ. Tất cả những trắc trở đó đã ảnh hưởng xấu đến tinh thần và thể chất của bà. Năm 1934, bà bắt đầu làm việc cho chương trình tiếp cận cộng đồng do nhóm phục quốc tài trợ là Agriculture et Artisanat, giảng dạy và chu cấp quần áo, tài liệu, thuốc men cho các thanh niên Do Thái đang tìm đường di cư đến Lãnh thổ Ủy trị Palestine của Anh để làm nông dân. Arendt được tuyển dụng làm thư ký, sau thăng chức giám đốc văn phòng. Để nâng cao kỹ năng và xoay sở kiếm sống cho gia đình, bà học tiếng Pháp, tiếng Do Thái và tiếng Yiddish. Khi tổ chức đóng cửa vào năm 1935, Arendt được tiếp xúc với nhà từ thiện nữ giàu có tên là Germaine Alice de Rothschild (tên khai sinh là Halphen, 1884–1975), vợ của Édouard Alphonse James de Rothschild, và trở thành trợ lý của bà ấy. Ở vị trí này, bà quản lý những đóng góp của nữ nam tước cho các tổ chức từ thiện danh cho người Do Thái thông qua Consistoire Paris. Gia đình Rothschild đã kiểm soát Consistoire trong vòng một thế kỷ nhưng họ bất đồng quan điểm với Arendt về mọi mặt, phản đối việc nhập cư và phủ nhận bất kỳ mối liên hệ nào với người Do Thái Đức.

Vào năm 1935, Arendt gia nhập Thanh niên Aliyah (Thanh niên nhập cư) và trở thành Tổng thư ký trong giai đoạn 1935–1939. Đây là một tổ chức tương tự như Agricultural et Artisanat, được thành lập ở Berlin vào cùng ngày Hitler lên nắm quyền. Nó có liên kết với tổ chức Hadassah, nổi tiếng vì đã cứu rất nhiều mạng người trước cuộc Holocaust sắp đến. Công việc Arendt tại Thanh niên Aliyah bao gồm tìm kiếm lương thực, quần áo, nhân viên xã hội và luật sư, nhưng trên hết vẫn là gây quỹ. Bà tới thăm Palestine thuộc Anh vào năm 1935 và gặp gỡ với người anh họ Ernst Fürst ở đó. Sự kiện Đức Quốc xã sáp nhập Áo và xâm lược Tiệp Khắc vào năm 1938 đã tạo ra một dòng người tị nạn đổ dồn về Paris; trong hoàn cảnh đó, bà đã tham gia vào nỗ lực cứu trợ những đứa trẻ tản cư bất hạnh. Năm 1938, Arendt hoàn thành tác phẩm tiểu sử về Rahel Varnhagen, nhưng phải tới tận năm 1957 mới được xuất bản. Vào tháng 4 năm 1939, sau vụ pogrom Kristallnacht vào tháng 11 năm 1938, Martha Beerwald (mẹ của Arendt) nhận ra rằng Arendt sẽ không thể nào hồi hương nên bà quyết định rời bỏ chồng tới Paris ở với con gái. Một người chị kế của Arendt đã qua đời còn người chị gái kế kia đã chuyển đến sống ở Anh, Martin Beerwald (cha dượng của Arendt) không đi cùng vợ mà ở lại quê nhà. Kể từ đó, Arendt không bao giờ trở về Königsberg.

Heinrich Blücher

Năm 1936, Arendt gặp gỡ nhà thơ/nhà triết học Marxist người Berlin Heinrich Blücher (1899–1970) tại Paris. Blücher là thành viên của Liên đoàn Spartakus và là một trong những nhân vật kiến lập Đảng KPD nhưng bị đình chỉ tư cách đảng viên vì chọn theo phe trong nội bộ đảng. Mặc dù Arendt tái ngộ Stern vào năm 1933, hôn nhân của họ giờ chỉ còn trên danh nghĩa sau khi ông rời bỏ bà tại Berlin. Bà đã làm tròn bổn phận của một người vợ, đổi theo họ chồng và dùng tên Hannah Stern. Song mối quan hệ giữa hai người đã chấm dứt khi, có lẽ bởi Stern nhận ra mối hiểm họa tốt hơn Arendt, ông quyết định di cư sang Mỹ cùng bố mẹ vào năm 1936. Năm 1937, Arendt bị tước quốc tịch Đức, đồng thời ly hôn Stern. Bà trở nên thân mật với Blücher và chuyển tới sống chung với ông. Sự nghiệp hoạt động chính trị lâu dài của Blücher đã góp phần thúc đẩy tư tưởng của Arendt thành hành động chính trị. Arendt và Blücher thành hôn vào ngày 16 tháng 2 năm 1940, ít lâu sau khi thủ tục ly hôn được hoàn tất.

Giam cầm và trốn thoát (1940–1941)

thumb|Bảng tưởng niệm tại [[Trại Gurs|alt=Memorial plaque at Camp Gurs to al who were detained there]] Vào ngày 5 tháng 5 năm 1940, theo kế hoạch phòng bị cuộc tiến công tiềm năng của Đức vào Pháp và các nước Vùng thấp, thống đốc quân sự của Paris đã chỉ đạo tất cả "kẻ thù ngoại quốc" trong độ tuổi 17-55 đến từ Đức (chủ yếu là dân Do Thái) phải báo cáo riêng để tập trung giam cầm. Những người phụ nữ được triệu tập tới Vélodrome d'Hiver vào ngày 15 tháng 5. Mẹ của Arendt, do đã già yếu trên 55 tuổi, được phép ở lại Paris. Arendt mô tả những người tị nạn là "giống người mới được tạo ra bởi lịch sử đương đại ... bị kẻ thù của họ đưa vào trại tập trung và bị bạn bè của họ đưa vào trại giam giữ". Những người đàn ông, bao gồm Blücher, bị chuyển đến Trại Vernet ở miền nam nước Pháp, gần biên giới với Tây Ban Nha. Arendt và những phụ nữ khác được gửi đến Trại Gurs, phía tây Gurs, một tuần sau đó. Trại này vốn được dựng lên để đón người tị nạn Tây Ban Nha. Ngày 22 tháng 6, Pháp đầu hàng và ký hiệp định Compiègne chia đôi đất nước. Gurs nằm trong khu vực do ngụy quyền Vichy kiểm soát. Arendt kể lại rằng "trong cơn hỗn loạn kèm theo, chúng tôi đã lấy được thành công các giấy tờ trả tự do và được phép rời trại". Bà cùng khoảng 200 trong số 7.000 phụ nữ bị giam giữ tại đó trốn thoát khoảng bốn tuần sau. Bà đi bộ và xin quá giang lên phía bắc đến Montauban, gần Toulouse, nơi bà biết là sẽ tìm thấy sự trợ giúp.

Montauban trở thành tâm điểm nương náu của những người trốn trại; bạn của Arendt, Lotta Sempell Klembort, là một trong những người may mắn đó. Trại của Blücher được sơ tán sau cuộc tiến công của quân Đức. Ông trốn thoát trên đường tuần hành, tìm đến Montauban và gặp lại vợ ở đó. Ít lâu sau, Anne Mendelssohn và mẹ của Arendt cũng tìm tới nơi. Việc xuất cảnh Pháp bấy giờ rất khó khăn nếu thiếu giấy tờ chính thức; người bạn của họ là Walter Benjamin đã tự kết liễu đời mình vì bị bắt khi mới đặt chân sang đất Tây Ban Nha. Một trong những tuyến bất hợp pháp khét tiếng nằm ngay ở ngoại ô Marseilles; nơi nhà báo người Mỹ tên là Varian Fry đang làm việc gây quỹ. Nhờ sự bao che của phó lãnh sự Mỹ Hiram Bingham, Fry đã có thể giả mạo giấy tờ và hối lộ quan chức nhằm đảm bảo thủ tục xuất cảnh và thị thực Mỹ cho hàng ngàn người đào tẩu.

Nhờ sự giúp đỡ của hai công dân Mỹ và người chồng cũ Günther Stern; Arendt, chồng và mẹ bà đã có được giấy phép cần thiết để lên chuyến tàu hỏa băng qua Tây Ban Nha và dừng bánh tại thủ đô Lisbon Bồ Đào Nha vào tháng 1 năm 1941. Họ thuê một căn hộ trên đường Rua da Sociedade Farmacêutica, 6b, rồi kiếm được vé đi New York trên tàu S/S Guiné II của Công ty Companhia Colonial de Navegação vào tháng 5. Vài tháng sau, Fry bị buộc thôi hoạt động, và biên giới rốt cuộc bị phong tỏa.

New York (1941–1975)

Chiến tranh thế giới lần II (1941–1945)

Họ cập bến thành phố New York vào ngày 22 tháng 5 năm 1941 và nhận được sự trợ giúp từ Tổ chức phục quốc Do Thái của Mỹ và cộng đồng người Đức nhập cư địa phương, bao gồm Paul Tillich và những người hàng xóm từ Königsberg. Họ thuê căn hộ tại 317 West 95th Street và mẹ bà tới đó vào tháng 6. Do cần học tiếng Anh gấp, họ quyết định cho Hannah Arendt dành hai tháng sống chung với một gia đình người Mỹ ở Winchester, Massachusetts nhờ chương trình Tự lực cho Người tị nạn (Self-Help for Refugees) từ tháng 7. Bà thấy trải nghiệm này khá khó khăn và đánh giá như sau về cuộc sống tại Hoa Kỳ: (Mâu thuẫn căn bản của đất nước này đó là tự do chính trị kèm với nô lệ xã hội).

Ngay khi quay về New York, Arendt tiếp tục viết lách và trở thành một nhà hoạt động trong cộng đồng Đức-Do Thái, xuất bản bài viết, "Từ vụ Dreyfus cho tới nước Pháp ngày nay" (dịch sang tiếng Anh từ bản thảo tiếng Đức của bà) vào tháng 7 năm 1942. Trong lúc hoàn thiện bài viết, bà cũng chạy vạy nhiều nơi để tìm việc làm. Vào tháng 11 năm 1941, tờ __ của cộng đồng Do Thái-Đức tại New York thuê bà vào làm. Từ năm 1941 đến năm 1945, bà là chủ biên góc chính trị của tờ báo này, chuyên bàn luận về chủ nghĩa bài Do Thái, người tị nạn và sự cần thiết nhằm xây dựng một quân đội của người Do Thái. Bà cũng đóng góp nhiều bài viết cho tờ tạp chí Mỹ-Do Thái Menorah Journal, và nhiều ấn phẩm émigré khác.

thumb|Arendt và Blücher chuyển tới sống tại [[370 Riverside Drive ở Thành phố New York]] Arendt kiếm được công việc toàn thời gian có lương đầu tiên vào năm 1944. Bà được nhận làm giám đốc nghiên cứu kiêm điều hành cho tổ chức Ủy ban Tái thiết Văn hóa Do Thái Châu Âu mới nổi, một dự án của Hội nghị Quan hệ Do Thái. Bà được chiêu mộ "bởi vì mối quan tâm rất lớn của bà đối với các hoạt động của Uỷ ban, kinh nghiệm trước đó của bà trong vai trò quản lý, và mối liên kết của bà với nước Đức". Tại đó bà tổng hợp danh sách các tài sản văn hóa Do Thái tại Đức và tại châu Âu bị Đức quốc xã đô hộ nhằm hậu thuẫn công cuộc tái thiết thời hậu chiến. Cùng với chồng, bà sống tại 370 Riverside Drive ở Thành phố New York và Kingston, New York, nơi mà Blücher dạy học tại Bard College lân cận trong nhiều năm.

Hậu chiến (1945–1975)

thumb|Hannah Arendt cùng với [[Heinrich Blücher, New York, năm 1950|alt=Photo of Hannah and Heinrich Blücher in New York in 1950]] Vào tháng 7 năm 1946, Arendt thôi việc tại Ủy ban Tái thiết Văn hóa Do Thái châu Âu để sang làm biên tập viên cho Schocken Books, công ty mà sau này sẽ xuất bản một số tác phẩm của bà. Năm 1948, bà tham gia vào chiến dịch của Judah Magnes nhằm tìm giải pháp cho cuộc xung đột Israel–Palestine. Bà phản đối việc thành lập một quốc gia Do Thái ở Palestine và vốn cũng phản đối việc thành lập một song quốc Ả Rập-Do Thái. Thay vào đó, bà ủng hộ việc chuyển đổi Palestine thành một liên bang đa sắc tộc. Chỉ đến năm 1948 trong nỗ lực ngăn chặn sự chia cắt lãnh thổ, bà mới ủng hộ giải pháp một quốc gia hai dân tộc. Bà quay trở lại Ủy ban vào tháng 8 năm 1949. Với tư cách là thư ký điều hành, bà quay về châu Âu, tới Đức, Anh và Pháp (tháng 12 năm 1949-tháng 3 năm 1950) để đàm phán với họ trả lại các tài liệu lưu trữ của các cơ quan Đức, một trải nghiệm mà bà cảm thấy cực kỳ mệt nhọc, song bà vẫn cố gắng cung cấp thường xuyên các báo cáo hiện trường. Vào tháng 1 năm 1952, bà trở thành thư ký của Hội đồng quản trị, mặc dù tổ chức lúc đó đang xuống dốc và bà đồng thời đang theo đuổi các hoạt động trí thức của riêng mình; bà sẽ giữ chức vụ này suốt phần đời còn lại. Đóng góp của Arendt trong công cuộc phục hồi văn hóa đã cung cấp thêm tài liệu cho nghiên cứu của bà về chủ nghĩa toàn trị.

Trong những năm 1950, Arendt chắp bút viết các tác phẩm The Origins of Totalitarianism (1951), The Human Condition (1958) và On Revolution (1963). Arendt gặp mặt và trao đổi với tác giả người Mỹ Mary McCarthy, người kém bà 6 tuổi, vào năm 1950. Họ nhanh chóng trở thành bạn tri kỉ. Cùng năm, Arendt nhập tịch Hoa Kỳ, và tái ngộ với tình nhân cũ Martin Heidegger, nảy sinh "mối tình nửa vời" với ông (theo cách nói của Adam Kirsch) kéo dài hai năm. Arendt công khai bênh vực Heidegger trước những lời trách móc vì sự ủng hộ của ông đối với Đảng Quốc xã. Bà cho rằng Heidegger khi đó chỉ là một người đàn ông ngây thơ bị lôi kéo bởi những thế lực ngoài tầm kiểm soát, hơn nữa chỉ ra rằng triết học của Heidegger không liên quan gì đến chủ nghĩa Quốc gia Xã hội. Năm 1961, bà tới Jerusalem để tường thuật phiên tòa xét xử Eichmann cho tờ The New Yorker. Bản tường thuật này, tuy vậy, lại gây ra nhiều tranh cãi trong dư luận Mỹ. Năm 1975, Arendt vinh dự nhận Giải Sonning của Đan Mạch vì những đóng góp lớn lao của bà cho văn minh châu Âu.

Vài năm sau tại Thành phố New York, bà phát biểu như sau về tính hợp lý của bạo lực như một hành động chính trị: "Nói chung, bạo lực luôn bùng phát từ sự bất lực. Nó là hy vọng của những kẻ không có quyền lợi để tìm cách thay thế nó và theo tôi hy vọng đó là vô ích. Bạo lực có thể phá vỡ quyền lực, nhưng không bao giờ thay thế được nó."

Giảng dạy

thumb|upright=0.8|Hannah Arendt thuyết giảng tại Đức, 1955 Arendt từng giảng dạy tại rất nhiều viện nghiên cứu đào tạo ở bậc đại học từ năm 1951 trở đi, nhưng vì muốn được độc lập trong công việc, bà liên tiếp từ chối các đề nghị thuê giảng theo hợp đồng. Bà đã thỉnh giảng tại nhiều nơi như Đại học Notre Dame, Đại học California, Berkeley, Đại học Princeton (nơi bà là người phụ nữ đầu tiên được phong chức danh giáo sư toàn phần vào năm 1959) và Đại học Northwestern. Bà cũng từng giảng dạy tại Đại học Chicago từ năm 1963 đến năm 1967, nơi bà gia nhập Ủy ban Tư tưởng Xã hội (Committee on Social Thought). Ngoài ra, bà cũng từng là nghiên cứu sinh của Đại học Yale và Trung tâm Nghiên cứu Cao cấp của Đại học Wesleyan (1961–62, 1962–63). Từ năm 1967, Arendt là giáo sư khoa Nghiên cứu Xã hội của the New School tại Manhattan, Thành phố New York.

Bà được bầu làm viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ vào năm 1962 và trở thành hội viên của Học viện Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ vào năm 1964. Năm 1974, Arendt có công lao chính trong việc thành lập chương trình Giáo dục Tự do Cấu trúc (SLE) tại Đại học Stanford. Bà cũng viết thỉnh thư cho chủ tịch Đại học Stanford, thuyết phục trường khởi động chương trình khoa học nhân văn tại gia của giáo sư lịch sử Mark Mancall. Tại thời điểm qua đời, bà giữ danh hiệu Giáo sư Triết học Chính trị tại The New School.

Các mối quan hệ

thumb|upright=0.8|Arendt đứng cạnh [[Mary McCarthy (tác giả)|Mary McCarthy]] Ngoài mối tình với Heidegger và hai cuộc hôn nhân, Arendt cũng có nhiều mối quan hệ thân mật khác. Kể từ khi qua đời, nhiều thư từ của Arendt với những người bạn đã được xuất bản, hé lộ thêm các thông tin về lối suy nghĩ của bà. Đối với bằng hữu, bà là người chung thủy và rộng lượng, gửi gắm nhiều lời tri ân với họ trong những tác phẩm. Bà miêu tả (tình bạn) như là "" (phương thức hoạt động của sự đang sống), và, đối với bản thân bà, tình bạn là thứ cực kỳ quan trọng trong đời và trong khái niệm chính trị. Hans Jonas nhận định rằng, Arendt "rất thật thà trong tình bạn", và theo chính lời Arendt, bà có một "" (tình yêu cho tình bạn).

Những bằng hữu mà Arendt làm quen thông qua triết học thường là đàn ông và là người gốc Âu, còn bạn bè bà gặp ở Mỹ thì lại đa dạng, văn vẻ, và chính trị hơn. Tuy rằng đã nhập tịch Mỹ vào năm 1950, bà vẫn quyến luyến với gốc rễ văn hóa Âu châu của mình, và cứ tiếp tục nói thứ tiếng Đức "" (tiếng mẹ đẻ). Bà thường quây mình và giao du với những người nhập cư nói tiếng Đức, đôi khi gọi đó là "Thị tộc" của mình. Đối với bà, (người thật) là "những pariah", không phải theo nét nghĩa 'những kẻ bơ vơ', mà ý chỉ 'những kẻ ngoài cuộc', 'chưa bị đồng hóa', với đức hạnh là "sự không tương phùng văn hóa ... cái sine qua non [điều kiện tiên quyết] cho thành tựu tri thức", một thứ xúc cảm mà bà chia sẻ với Jaspers.

Arendt lúc nào cũng có một (người bạn thân). Từ thời niên thiếu, bà đã tạo dựng được một tình bạn bền chặt với (bạn thân thuở nhỏ) của mình, Anne Mendelssohn Weil ("Ännchen"). Sau khi Arendt đặt chân sang Mỹ, Hilde Fränkel, thư ký và tình nhân của Paul Tillich, đã thay thế vị trí đó cho tới khi mất vào năm 1950. Sau cuộc chiến, Arendt đã có thể về Đức và nối lại tình bạn với Weil, người mà về sau cũng nhiều lần tới thăm New York, nhất là sau khi Blücher qua đời vào năm 1970. Hai người họ gặp nhau lần cuối ở Tegna, Thụy Sĩ vào năm 1975, ít lâu trước khi Arendt qua đời. Sau khi Fränkel mất, Mary McCarthy đã trở thành người bạn tâm tình thân cận của Arendt.

Bệnh tình và qua đời

thumb|Bia mộ của Hannah Arendt tại Nghĩa trang [[Trường Đại học Bard, Annandale-on-Hudson, New York]] Heinrich Blücher qua khỏi một cơn phình mạch não vào năm 1961, song sức khỏe của ông kiệt quệ cho tới năm 1963. Ngày 31 tháng 10 năm 1970, ông qua đời sau một cơn đau tim dữ dội. Arendt trước đó đã từng chia sẻ với Mary McCarthy rằng, "[Tôi] không thể tưởng tượng được cuộc sống nếu thiếu ông ấy". Bản thân Arendt là người nghiện hút thuốc lá, điều mà có thể thấy trong nhiều tấm ảnh chụp bà. Tháng 5 năm 1974, trong chuyến giảng thuyết tại Scotland, Arendt đã suýt mất mạng do một cơn đau tim. Tuy hồi phục qua khỏi, sức khỏe của bà bị giảm sút nghiêm trọng, nhưng bà vẫn cố chấp hút thuốc. Chiều tối ngày 4 tháng 12 năm 1975, ít lâu sau sinh nhật tuổi thứ 69 của mình, bà đột quỵ do đau tim tại căn hộ riêng trong lúc tiếp đãi bạn bè. Tro cốt của bà được chôn cất cạnh ngươi chồng Blücher tại Đại học Bard, Annandale-on-Hudson, New York vào tháng 5 năm 1976.

Sau khi Arendt mất, trang đề tựa của tập cuối The Life of the Mind ("Judging") được tìm thấy bên cạnh chiếc máy đánh chữ của bà, trong đó mới chỉ kịp viết vài dòng nhan đề và hai đoạn trích. Di cảo này đã được sao chép lại (xem ảnh).

Đóng góp học thuật

Arendt viết các tác phẩm về lịch sử trí thức trong vai trò là một nhà lý luận chính trị, vận dụng các sự kiện và thực tiễn hành động để phân tích sâu sắc các phong trào toàn trị thời bấy giờ và các mối nguy hại cho sự tự do của con người được biểu trưng bởi sự trừu tượng hóa khoa học và đạo đức áp đặt của giai cấp tư sản. Về mặt trí thức, bà là nhà tư tưởng độc lập, một kẻ đơn độc chứ không phải một "kẻ tham gia," cách li bản thân khỏi các trường phái tư tưởng và hệ tư tưởng. Ngoài các tác phẩm lớn, bà cũng đã cho ra đời nhiều tập tuyển văn như Between Past and Future (1961), Men in Dark Times (1968) và Crises of the Republic (1972). Bà cũng đã có nhiều đóng góp lớn cho một số nhà xuất bản như The New York Review of Books, Commonweal, DissentThe New Yorker. Công trình vang danh nhất của bà có lẽ là bản tường thuật về phiên tòa xét xử Adolf Eichmann, vì các tranh cãi gay gắt xung quanh nó.

Lý luận chính trị và hệ thống triết học

Arendt chưa bao giờ sắp xếp hệ thống triết học chính trị của mình một cách khắt khe và các trước tác của bà cũng không thể được phân loại một cách rạch ròi, song dòng tư tưởng có nhiều điểm tương đồng nhất với suy nghĩ của Arendt chính là chủ nghĩa cộng hòa dân sự, bắt nguồn từ Aristotle cho tới Tocqueville. Khái niệm chính trị của bà xoay quanh quyền công dân chủ động, theo đó nhấn mạnh sự tham gia dân sự và cân nhắc tập thể. Bà tin rằng dù cho hoàn cảnh có tồi tệ thế nào đi chăng nữa, chính quyền không bao giờ có thể dập tắt được sự tự do của cá nhân, tuy rằng bà vẫn cho rằng các xã hội hiện đại rất hay thoái lui khỏi tự do dân chủ do căn bệnh cố hữu về sự buông thả cho chế độ quan liêu điều hành. Di sản chính trị của bà chính là các lập luận chắc chắn bảo vệ tự do trong một thế giới chẳng mấy tự do. Bà không tự trói buộc mình trong một hệ thống triết lý đơn thuần nào, mà khám phá phong phú các đề tài như chủ nghĩa toàn trị, cách mạng, bản chất của tự do, và khả năng tư duy biện luận.

Mặc dù được biết đến rộng rãi nhất vì các tác phẩm bàn về "thời kỳ đen tối", bản chất của chủ nghĩa toàn trị và cái ác, bà đã chiếu vào những điều đó một tia hy vọng và thể hiện một lòng tin vững chắc vào nhân loại:

Rằng ngay cả trong những thời khắc đen tối nhất, chúng ta vẫn có quyền kỳ vọng một ánh hào quang nào đó dù c
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hannah Arendt** (; tên khai sinh: **Johanna Arendt**; 14 tháng 10 năm 1906 – 4 tháng 12 năm 1975) là một nhà triết học và sử học người Mỹ gốc Đức. Bà được đánh giá là
**Giải Hannah Arendt về tư tưởng chính trị**là một giải được phát cho các cá nhân đại diện cho truyền thống của nhà lý thuyết chính trị Hannah Arendt, đặc biệt mà có liên quan
**Viện Hannah-Arendt nghiên cứu về chủ nghĩa toàn trị** (HAIT) là một hội tư nhân có đăng ký, hoạt động trong khuôn khổ trường đại học Kỹ thuật Dresden. Viện chuyên nghiên cứu về khoa
**_The Origins of Totalitarianism_** (, , "Elements and Origins of Totalitarian Rule"; 1951), được viết bởi Hannah Arendt, mô tả và phân tích chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa Stalin, những phong trào toàn
**_Eichmann ở Jerusalem: Một phóng sự về Sự Tầm Thường của Cái Ác_** (tiếng Anh: _Eichmann in Jerusalem: A Report on the Banality of Evil_) là cuốn sách xuất bản năm 1963 của nhà lý
thumb|Lãnh tụ Xô Viết [[Joseph Stalin và ngoại trưởng Đức Joachim von Ribbentrop tại điện Kremli vào tháng 8 năm 1939, dịp ký kết hiệp ước Xô-Đức]] Một số các tác giả đã so sánh
**Bùi Văn Nam Sơn** (sinh năm 1947) là một triết gia, tác giả và dịch giả người Việt Nam. Ông đã dịch và hiệu đính một số tác phẩm triết học và khoa học xã
**_Bloodlands: Europe Between Hitler and Stalin_** () là một cuốn sách viết bởi sử gia Yale Timothy D. Snyder, ấn bản lần đầu tiên bởi Basic Books vào ngày 28 tháng 10 năm 2010. Cuốn
**Hans Joachim Morgenthau** (17 tháng 2 năm 1904 – 19 tháng 7 năm 1980) là một trong những nhân vật hàng đầu trong thế kỷ 20 về nghiên cứu chính trị quốc tế. Ông có
**Otto Adolf Eichmann** (;19 tháng 3 năm 1906 – 1 tháng 6 năm 1962) là một SS-_Obersturmbannführer_ (trung tá SS) của Đức Quốc xã và một trong những tổ chức gia chủ chốt của Holocaust.
**_Homo faber_** (tiếng La tinh để chỉ "người sáng tạo" liên quan tới _homo sapiens_ nghĩa là "người thông thái") là một khái niệm triết học được Hannah Arendt (1906-1975) và Max Scheler (1874-1928) khớp
Ngày **14 tháng 10** là ngày thứ 287 (288 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 78 ngày trong năm. ## Sự kiện *982 – Da Luật Long Tự đăng cơ hoàng đế triều Liêu
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 1 tháng 1 – Pierre Graber trở thành tổng thống liên bang Thụy Sĩ . * 1 tháng 1 – Vụ Watergate: John N. Mitchell, H. R.
thumb | 220x124px | right | [[Adolf Hitler - lãnh đạo chế độ độc tài toàn trị của Đức Quốc Xã 1933 - 1945]] **Chế độ độc tài** (; cách dịch khác là **chuyên chính**),
nhỏ|phải| Mesmerhaus ở [[Meßkirch, nơi Heidegger lớn lên]] **Martin Heidegger** (26 tháng 9 năm 1889 – 26 tháng 5 năm 1976, phát âm[ˈmaɐ̯tiːn ˈhaɪ̯dɛgɐ]) là một triết gia Đức. Ông chịu ảnh hưởng của nhà
**Chủ nghĩa toàn trị** () là một chế độ chính trị trong đó nhà nước áp đặt **chế độ chuyên chế** (_authoritarian regime_) và ý thức hệ của chính quyền lên tất cả mọi hoạt
thumb|right|[[Benito Mussolini (trái) và Adolf Hitler (phải), hai thủ lĩnh phát xít.]] **Chủ nghĩa phát xít** là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào chính trị cực hữu đặc trưng bởi sức mạnh
**Chủ nghĩa sô vanh** (tiếng Anh: _chauvinism_) là một chủ nghĩa dân tộc cực đoan cho rằng nhóm hoặc dân tộc của mình là thượng đẳng và chính nghĩa còn những dân tộc hay nhóm
**Varian Mackey Fry** (15.10.1907 – 13.9.1967) là một nhà báo Hoa Kỳ và là người điều khiển một mạng lưới giải cứu những người Do Thái và những người chống Đức Quốc xã dưới thời
**Käte Hamburger** (21.9.1896 tại Hamburg – 8.4.1992 tại Stuttgart) là nhà Đức học, nhà nghiên cứu văn học và triết gia người Đức. Bà từng làm giáo sư ở Đại học Stuttgart. ## Cuộc đời
nhỏ|Nhà thờ thánh Phao lô, [[Frankfurt]] **Giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức** () là một giải thưởng hòa bình quốc tế của "Hiệp hội kinh doanh sách Đức" (_Börsenverein des Deutschen Buchhandels_)
**Đại học Freiburg** (tiếng Đức: _Albert-Ludwigs-Universität Freiburg_, thông dụng là **Uni Freiburg** hoặc chỉ là **Freiburg**), là một trường đại học nghiên cứu công cộng nằm ở Freiburg im Breisgau, Baden-Württemberg, Đức. Trường đại học
**Edith Stein** tức **Thánh Têrêsa Benedicta Thánh Giá**, cũng thường gọi là **thánh Edith Stein** (12.10.1891 – 9.8.1942), là một triết gia và nữ tu sĩ Công giáo người Đức, được Giáo hội Công giáo
**Judith Pamela Butler** (sinh năm 1956) là một nhà triết học và lý thuyết giới của Mỹ, người làm việc đã ảnh hưởng đến triết học chính trị, đạo đức và các lĩnh vực của
**Quyền hành**, **quyền hạn** hay **thẩm quyền** là quyền thực thi quyền lực, có thể được chính quyền hóa do một nhà nước và được thực thi bằng cách phán xét, bổ nhiệm các nhân
nhỏ|phải|Một giáo sĩ Do Thái **Triết học Do Thái** (_Jewish philosophy_) hay **Triết lý Do Thái** (tiếng Do Thái: פילוסופיה יהודית) bao gồm toàn bộ triết lý, triết học được người Do Thái thực hành
thumb|[[Pinocchio, biểu tượng của nói dối.]] Một lời **nói dối** (hay **nói xạo**, **nói láo**, **nói dóc**) là một phát ngôn sai trái có mục đích dùng cho việc lừa gạt đối phương. Nói dối
**Daniel Marc Cohn-Bendit** (; ; sinh ngày 4 tháng 4 năm 1945) là một chính trị gia Đức-Pháp. Ông là lãnh tụ sinh viên trong sự kiện Bất ổn tại Pháp tháng 5 năm 1968
**Julia Kristeva** (sinh ngày 24 tháng 6 năm 1941) là nhà phân tâm học, phê bình văn học, triết học, nữ quyền và là một tiểu thuyết gia nổi tiếng sinh ra tại Sliven, Bun-ga-ri.
**Lý luận hành động** (hay **học thuyết hành động**) là một lĩnh vực trong triết học có liên quan đến các học thuyết về các quan hệ nhân quả có ý chí của chuyển động
**Ngày Âu Châu tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Quốc xã**, còn được biết tới như **Ngày dải băng Đen** tại một vài quốc gia, mà được cử hành
liên kết=//upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/4c/Kahvihuone.jpg/220px-Kahvihuone.jpg|nhỏ| Thảo luận về [[quán cà phê]] **Không gian công** hay **không gian công cộng** (tiếng Anh: _public sphere_) là một khu vực của đời sống xã hội. Ở đó, mọi người có thể
Đây là **danh sách bao gồm các triết gia từ vùng tiếng Đức đồng văn**, các cá nhân có những công trình triết học được xuất bản bằng tiếng Đức. Nhiều cá nhân được phân