✨Eichmann ở Jerusalem

Eichmann ở Jerusalem

Eichmann ở Jerusalem: Một phóng sự về Sự Tầm Thường của Cái Ác (tiếng Anh: Eichmann in Jerusalem: A Report on the Banality of Evil) là cuốn sách xuất bản năm 1963 của nhà lý luận chính trị Hannah Arendt. Vốn là một người Do Thái chạy trốn khỏi Đức trong thời kỳ Adolf Hitler lên nắm quyền, Arendt đã viết phóng sự về phiên tòa xét xử Adolf Eichmann, một trong những người tổ chức chính của cuộc diệt chủng người Do thái Holocaust, cho tờ The New Yorker.

Chủ đề

Phụ đề nổi tiếng của Arendt giới thiệu khái niệm "sự tầm thường của cái ác". Một phần cụm từ ám chỉ cách cư xử của Eichmann tại phiên tòa. Người đàn ông không tỏ ra cảm thấy tội lỗi vì hành động của mình, cũng không tỏ thái độ thù hằn những người đang xét xử ông ta (người Do thái). Ông ta tuyên bố không chịu trách nhiệm vì đơn giản ông ta chỉ "làm công việc của mình" ("ông ta đã thực thi 'nhiệm vụ' của mình ...; ông ta không chỉ tuân thủ 'mệnh lệnh', ông ta còn tuân thủ 'pháp luật'", trang 135).

Eichmann

Căn cứ trên lời khai trước tòa của Eichmann và các bằng chứng lịch sử sẵn có, Arendt đã đưa ra một số quan sát về Eichmann:

  • Eichmann tự tuyên bố trước tòa rằng ông ta luôn nỗ lực tuân theo Mệnh lệnh nhất quyết (Categorical Imperative) của Immanuel Kant (như đã thảo luận trực tiếp ở tr.135–137). Arendt cho rằng Eichmann về cơ bản đã hiểu sai bài học từ Kant: Eichmann đã không nhận ra "nguyên tắc vàng" (the golden rule) và nguyên tắc có đi có lại tiềm ẩn trong mệnh lệnh nhất quyết, mà chỉ hiểu khái niệm về hành động của một người phải phù hợp với luật chung. Eichmann đã nỗ lực để tuân theo tinh thần của luật, theo cách mà nhà lập pháp sẽ đồng ý. Trong công thức của Kant về mệnh lệnh nhất quyết, nhà lập pháp là bản thân đạo đức, và tất cả mọi người đều là nhà lập pháp; trong công thức của Eichmann, nhà lập pháp là Hitler. Eichmann tuyên bố điều này đã thay đổi khi ông ta được giao nhiệm vụ thực hiện Giải pháp cuối cùng, tại thời điểm đó Arendt tuyên bố "ông ta đã không còn sống theo các nguyên tắc Kant, rằng ông ta đã biết điều đó, và ông ta đã tự an ủi mình với những suy nghĩ rằng ông ta không còn 'làm chủ những việc làm của mình,' rằng ông ta không thể 'thay đổi bất cứ điều gì' "(tr. 136).
  • Việc Eichmann không có khả năng tư duy tự mình được minh chứng qua việc ông ta sử dụng một cách nhất quán "các cụm từ viết sẵn và những câu sáo rỗng mình tự nghĩ ra (khi ông ta thực sự thành công trong việc đặt được một câu của chính mình, ông ta nhắc đi nhắc lại đến khi nó trở thành sáo rỗng)". Thông qua sự phụ thuộc vào "tiếng nói chính thức"("officialese" - Amtssprache) và cách nói uyển ngữ Sprachregelung (cách nói theo quy định chung của Quốc xã), vốn vẫn giúp cho việc thực thi các chính sách của Hitler trở nên “dễ dàng theo một cách nào đó” (“somehow palatable”), ông ta cho thấy thế giới quan phi thực tế và cả sự thiếu hụt trong năng lực ngôn ngữ của mình.
  • Trong khi Eichmann có thể có khuynh hướng bài Do Thái, Arendt lập luận rằng “không có ví dụ nào cho thấy ông ta có sự căm thù điên cuồng đối với người Do Thái, cuồng tín bài Do Thái hay truyền bá tinh thần bài Do thái dưới bất kỳ hình thức nào. Cá nhân ông ta chưa bao giờ có bất cứ điều gì chống lại người Do Thái”(tr. 26).
  • Eichmann là "kẻ tham gia" trong suốt cuộc đời mình. Ông ta đã liên tục tham gia vào các tổ chức để định hình bản thân và gặp khó khăn trong việc tư duy cho chính mình khi không làm như vậy. Khi còn trẻ, ông ta thuộc về YMCA, WandervogelJungfrontkämpferverband. Năm 1933, ông ta thất bại trong nỗ lực gia nhập Schlaraffia (một tổ chức của nam giới tương tự như Hội Tam Điểm). Lúc này, một người bạn của gia đình (và là tội phạm chiến tranh trong tương lai) Ernst Kaltenbrunner đã khuyến khích ông gia nhập SS. Thời gian cuối Thế chiến thứ hai, Eichmann thậm chí còn cảm thấy chán nản vì "ông ta nhận ra rằng từ giờ ông ta sẽ phải sống mà không còn là thành viên của một thứ gì đó khác" (pp. 32–3). Arendt chỉ ra rằng những hành động của ông ta không có động cơ từ sự ác độc, mà là từ sự tận tụy mù quáng cho chế độ và do nhu cầu được thuộc về, nhu cầu trở thành một kẻ tham gia. Theo ngôn từ của Eichmann:
    Tôi cảm thấy mình sẽ phải sống một cuộc sống cá nhân không có ai chỉ đạo và khó khăn, tôi sẽ không còn nhận được chỉ thị từ bất kỳ ai, không còn mệnh lệnh nào được ban hành cho tôi nữa, không có pháp luật nào nữa ở đó để tôi tham khảo — tóm lại, trước mắt là cuộc sống mà tôi chưa bao giờ biết tới.
    *Bất chấp những tuyên bố của mình, trên thực tế, Eichmann không phải là người thông minh lắm. Như Arendt đã trình bày chi tiết trong chương thứ hai của cuốn sách, ông ta không thể hoàn thành chương trình trung học hoặc đào tạo nghề, và chỉ tìm được công việc quan trọng đầu tiên (nhân viên bán hàng lưu động cho Công ty Dầu chân không) nhờ vào mối quan hệ của gia đình. Arendt lưu ý rằng, trong cả sự nghiệp SS của mình và phiên tòa ở Jerusalem, Eichmann đã cố gắng che đậy việc thiếu trình độ học vấn và kỹ năng của mình, và thậm chí còn "đỏ mặt" khi những sự thật này được đưa ra ánh sáng.
  • Arendt xác nhận Eichman và những người đứng đầu Einsatzgruppen là một phần của "tầng lớp trí thức ưu tú." Tuy nhiên, không giống như các nhà lãnh đạo Einsatzgruppen khác, Eichmann “thiếu trí tưởng tượng” và “không có khả năng tư duy”. Quan điểm của bà là Eichmann thực sự không phải là một kẻ cuồng tín hay rối loạn nhân cách (sociopath), thay vào đó, ông ta là một người cực kỳ bình thường và trần tục, kẻ dựa dẫm vào những lời bào chữa sáo rỗng hơn là những suy nghĩ tự mình, kẻ được thúc đẩy bởi mong muốn thăng tiến trong sự nghiệp hơn là ý thức hệ, và tin tưởng vào sự thành công mà ông ta coi là tiêu chuẩn hàng đầu của một "xã hội tốt". Sự tầm thường, theo nghĩa này, hoàn toàn không có nghĩa hành động của Eichmann là bình thường, hay rằng có một Eichmann tiềm tàng trong tất cả chúng ta, nhưng rằng hành động của ông ta được thúc đẩy bởi một kiểu thỏa mãn hoàn toàn không có gì riêng biệt. Nhiều chuyên gia thời gian giữa thế kỷ 20 tỏ ra thích thú với khái niệm này.

Đón nhận

Eichmann ở Jerusalem gây ra nhiều tranh cãi tại thời điểm xuất bản và những năm tiếp theo. Trong một thời gian dài, Arendt bị cáo buộc là đã "đổ lỗi cho nạn nhân" trong cuốn sách. Bà trả lời những cáo buộc đến sớm nhất trong phần tái bút:

Tranh luận bắt đầu qua việc kêu gọi sự chú ý đến hành vi của người Do Thái trong những năm thực thi Giải pháp cuối cùng, và nó đã dẫn đến câu hỏi, mà đầu tiên được nêu ra bởi công tố viên Israel, về việc liệu rằng người Do thái có thể hoặc có lẽ đã phải tự bảo vệ mình hay không. Tôi đã bác bỏ câu hỏi đó, nó ngu xuẩn và ác độc, nó cho thấy sự thiếu hiểu biết chết người về các điều kiện cụ thể ở thời điểm đó. Hiện tại, câu hỏi đó đã được thảo luận nát bấy, và những kết luận tuyệt vời nhất đã được rút ra. Cấu trúc lịch sử - xã hội học nổi tiếng về "trạng thái tinh thần ở trại tập trung" (ghetto mentality) ... đã nhiều lần được đưa ra để giải thích về hành vi không chỉ giới hạn ở người Do Thái và do đó không thể giải thích bằng các yếu tố Do Thái cụ thể … Đây là kết luận bất ngờ mà một số nhà phê bình đã chọn để vẽ ra từ “hình ảnh” của một cuốn sách, được tạo ra bởi một số nhóm lợi ích, trong đó tôi bị cho là đã tuyên bố rằng người Do Thái đã tự tiêu diệt chính mình.
Stanley Milgram cho rằng "Arendt đã trở thành đối tượng của sự khinh ghét gay gắt, thậm chí là vu khống" vì bà đã nhấn mạnh sự "tầm thường" và "bình thường" của Eichmann, đồng thời lại chấp nhận lời khẳng định của Eichmann rằng ông ta không có ý định hay động cơ ác quỷ để thực hiện những điều kinh hoàng như vậy; ông ta cũng không hề mảy may nghĩ đến sự vô luân và xấu xa trong hành động của mình, hoặc thực sự, ông ta là một "quái vật" tàn bạo theo đúng mô tả của công tố viên. (ch. 1).

Jacob Robinson xuất bản cuốn Và cái đã bị làm cong nên được nắn thẳng lại (And the Crooked Shall be Made Straight), tác phẩm trọn vẹn đầu tiên phản bác cuốn sách của Arendt . với Arendt, mặc dù không có chỗ nào trong tác phẩm của mình Arendt phủ nhận rằng Eichmann là một người bài Do Thái, và bà ấy cũng không tuyên bố rằng Eichmann "chỉ đơn giản là" tuân theo mệnh lệnh, mà hơn thế, ông ta đã nội tâm hóa những tuyên bố sáo rỗng của chế độ Quốc xã. Bản thân cuốn sách của Cesarani cũng bị chỉ trích. Trong một bài đánh giá xuất hiện trên The New York Times Book Review, Barry Gewen lập luận rằng sự thù địch của Cesarani xuất phát từ việc cuốn sách của ông đứng "trong bóng râm của một trong những cuốn sách vĩ đại của nửa thế kỷ trước", và đề nghị của Cesarani rằng việc cả Arendt và Eichmann có nhiều điểm chung về xuất thân khiến bà ấy dễ dàng coi thường quá trình tố tụng, "tiết lộ rằng nhà văn đã không kiểm soát tài liệu cũng như bản thân mình."

Eichmann ở Jerusalem, theo Hugh Trevor-Roper, mang nợ tác phẩm Sự hủy diệt người Do Thái châu Âu (The Destruction of the European Jews) Raul Hilberg, đến mức mà chính Hilberg đã nói về sự đạo văn. Nhưng chính những điểm mà Arendt mượn từ Hilberg, thì lại được chính Hilberg mượn từ HG Adler .

Arendt cũng nhận được chỉ trích dưới dạng là phản hồi cho chuỗi các bài báo của bà, những phản hồi này cũng được đăng trên New Yorker. Một ví dụ là, chỉ vài tuần sau khi các bài báo của bà được xuất bản, một bài báo có tựa đề "Người đàn ông có lương tâm vô định" đã được đăng. **** Bài báo được viết bởi nhân chứng cho bên bào chữa, Michael A. Musmanno. Ông lập luận rằng Arendt đã trở thành con mồi cho những định kiến của riêng bà, và điều này khiến tác phẩm của bà trở thành phi lịch sử. Ông cũng trực tiếp chỉ trích bà vì đã bỏ qua các sự kiện được đưa ra tại phiên tòa khi nói rằng "sai khác giữa những gì cô Arendt nói và những gì là sự thật xảy ra với tần suất đáng lo ngại trong cuốn sách của cô đến mức khó có thể chấp nhận đó là một tác phẩm mang giá trị lịch sử".

Trong những năm gần đây, Arendt nhận thêm chỉ trích từ các tác giả Bettina Stangneth và Deborah Lipstadt. Trong tác phẩm của mình Eichmann trước Jerusalem (Eichmann Before Jerusalem), Stangneth lập luận rằng trên thực tế Eichmann là một kẻ bài Do thái âm thầm. Bà sử dụng Tài liệu Sassen (Sassen Papers) và lời kể của Eichmann khi ở Argentina để chứng minh rằng ông ta tự hào về địa vị của mình như một tên Quốc xã quyền lực và về những vụ giết người mà địa vị ấy đã cho phép ông ta thực hiện. Trong khi thừa nhận Tài liệu Sassen chưa được tiết lộ khi Arendt còn sống, bà lập luận rằng bằng chứng tại tòa đã chứng minh Eichmann là kẻ giết người bài Do thái và Arendt chỉ đơn giản là đã phớt lờ điều này. Trong tác phẩm của mình, Phiên tòa Eichmann (The Eichmann Trial), Deborah Lipstadt cho rằng, thay vì đánh giá Eichmann một cách khách quan, Arendt đã quá phân tâm bởi quan điểm của riêng bà về chủ nghĩa toàn trị. Khi đánh giá cuốn sách này của Ingrao năm 2013, nhà báo Jan Mieszkowski của Los Angeles Review of Books ca ngợi Arendt vì đã "nhận thức rõ rằng có vị trí cho người biết tư duy ở trong Đệ tam Đế chế." '''

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Eichmann ở Jerusalem: Một phóng sự về Sự Tầm Thường của Cái Ác_** (tiếng Anh: _Eichmann in Jerusalem: A Report on the Banality of Evil_) là cuốn sách xuất bản năm 1963 của nhà lý
**Otto Adolf Eichmann** (;19 tháng 3 năm 1906 – 1 tháng 6 năm 1962) là một SS-_Obersturmbannführer_ (trung tá SS) của Đức Quốc xã và một trong những tổ chức gia chủ chốt của Holocaust.
**Trại hủy diệt Chelmno** (tiếng Đức: _Vernichtungslager Kulmhof_) được xây dựng trong thế chiến II, là một trại hủy diệt của Đức Quốc xã nằm 50 km (31 dặm) về phía bắc của thành phố Łódź,
**Hannah Arendt** (; tên khai sinh: **Johanna Arendt**; 14 tháng 10 năm 1906 – 4 tháng 12 năm 1975) là một nhà triết học và sử học người Mỹ gốc Đức. Bà được đánh giá là
**Mossad** (tiếng Hebrew: ; tiếng Ả Rập: _,_ ), tên đầy đủ là **Cục Tình báo và Đặc nhiệm** (tiếng Hebrew: , _HaMossad leModiʿin uleTafkidim Meyuḥadim_) là cơ quan tình báo của Israel, một trong
Nạn diệt chủng **Holocaust** (từ tiếng Hy Lạp: **': _hólos_, "toàn bộ" và _kaustós_, "thiêu đốt"), còn được biết đến với tên gọi **Shoah_' (tiếng Hebrew: , _HaShoah'', "thảm họa lớn"), là một cuộc diệt
**Josef Mengele** (; 16 tháng 3 năm 19117 tháng 2 năm 1979), còn được biết đến với biệt danh **Thiên thần Chết** (), là một sĩ quan _Schutzstaffel_ (SS) và bác sĩ quân y người
**Israel** ( , ), tên gọi chính thức là **Nhà nước Israel** ( ; ), là một quốc gia tại Trung Đông, nằm trên bờ đông nam của Địa Trung Hải và bờ bắc của
**Raoul Wallenberg** (4.8.1912 – 17.7.1947) là doanh nhân, nhà ngoại giao và người theo chủ nghĩa nhân đạo người Thụy Điển. Ông rất nổi tiếng về những nỗ lực thành công để cứu hàng ngàn