✨Nguyễn Văn Thành (nhà Nguyễn)

Nguyễn Văn Thành (nhà Nguyễn)

nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội HuếNguyễn Văn Thành (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về sau là võ tướng, văn thần thời Nguyễn. Với những chiến công, những lời tấu chiến lược, ông đã góp công lớn khi đưa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi và trở thành vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn – vua Gia Long.

Cuộc đời và sự nghiệp

Thân thế

Nguyễn Văn Thành sinh ngày 13 tháng 11 âm lịch năm Mậu Dần (1758). Tiên tổ người xứ Thuận Hóa, phủ Triệu Phong, huyện Quảng Điền, tổng Phú Ốc, xã Bác Vọng. Tằng tổ là Nguyễn Văn Toán dời vào Gia Định. Tổ là Nguyễn Văn Tính lại dời đến ở Bình Hòa. Cha là Nguyễn Văn Hiền lại dời vào Gia Định.

Sử sách ghi: "Nguyễn Văn Thành trạng mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ nghệ".

Võ nghiệp

Năm Quý Tị 1773, ông cùng cha ra tận đất Phú Yên ngày nay để theo Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, chống Tây Sơn.

Năm Ất Mùi 1775, tháng 7 âm lịch, Phú Yên bị đánh úp, cai đội Nguyễn Văn Hiền tử trận.

Năm Mậu Tuất 1778, ông theo Nguyễn Văn Hoàng đóng đồn ở Phan Rí. Khi Nguyễn Văn Hoàng mất, Nguyễn Ánh cho triệu ông về.

Năm Bính Ngọ 1786, ông cùng Lê Văn Quân giúp quân Xiêm đánh tan quân Miến Điện ở Sài Nặc (trên đất Xiêm, trong chiến tranh Xiêm Miến lần 7), vua Xiêm thán phục trở về đem vàng, lụa đến tạ, lại ngỏ ý một lần nữa giúp quân cho Nguyễn Ánh thu phục Gia Định. Nguyễn Ánh triệu chư tướng hội bàn, ông tâu rằng: "Vua Thiếu Khang chỉ một lữ còn dựng được cơ đồ nhà Hạ. Ta nuôi sức mạnh mà thừa chỗ sơ hở thì việc có thể làm được, lính Xiêm tàn ngược, không nên nhờ họ giúp, nếu nhờ binh lực họ mà thành công lại có sự lo sau, không bằng cứ yên tĩnh để chờ cơ hội là hơn". Vua cho là phải, nên việc ấy không nhắc đến nữa.

Năm Đinh Mùi 1787, vào mùa thu, Đại Nam Liệt Truyện ghi: "...trận đánh ở Mỹ Tho, quân ta thất lợi. Hoặc có người bảo Thành về ẩn quê nhà, để đợi thời cơ. Thành nói rằng: 'Nghĩa cả vua tôi sống chết vẫn theo đi, sự thành bại nhờ trời, ta đoán trước sao được, và nhân bị quở mà đi, nhân thua mà trốn là phản phúc, tiền nhân ta không làm thế.'".

Năm 1788: Lấy Cai đội Nguyễn Văn Thành làm Khâm sai tổng nhung cai cơ hiệu úy tiền chi dinh Trung quân. Thành, người xã Bác Vọng, huyện Triệu Phong, là người trì trọng nhiều mưu lược, khi nhỏ thường theo cha là Cai đội Nguyễn Văn Hiền đi đánh giặc, năm ất mùi, Hiền chết trận. Duệ Tông vời Thành trao cho chức Cai đội. Từ khi Sài Gòn thất thủ, Thành lẩn ở trong dân gian. Mùa thu năm Giáp thìn xa giá vua từ Xiêm về, lại theo đi đánh dẹp, đến đây mới trao cho chức ấy.

Năm 1790, quân Nguyễn tiến đánh Bình Thuận, Nguyễn Văn Thành phản đối không được, lại phải làm trung gian hòa giải giữa Lê Văn Quân và Võ Tánh. Thành sau lại cãi lệnh Quân không chịu đánh Diên Khánh. Khi Quân bị thua, chỉ mình Thành quay lại cứu, còn Võ Tánh vẫn về theo lệnh trước. Hai ông hợp quân đánh thắng một trận lớn, nhưng sau đó nảy sinh hiềm khích. Cũng sách trên chép: ...Thành hay uống rượu, lúc gần ra trận, cầm hồ rót rượu, rót cho Duyệt một chén và nói rằng: "Uống rượu để thêm sức mạnh". Ông Duyệt nói: "Ai tánh hay sợ mới uống rượu để cho thêm sức mạnh, còn như tôi thời trước mắt không coi (đó là) trận dữ, cần chi phải uống rượu". Thành có ý thẹn, từ đó giận Duyệt.

Năm Tân Dậu 1801, ông lãnh ấn Khâm Sai Chưởng Tiền Quân, Bình Tây Đại tướng Quân, Điều bát chư đạo bộ binh, tước Quận Công.

Ông là người "biết chữ, hiểu nghĩa sách, biết đại thể, ở trong chư tướng, vua rất trọng Thành, không cứ việc lớn việc nhỏ đều hỏi để quyết đoán. Mỗi khi ông đến chầu vua cho ngồi thong dong hỏi han, ông cũng đem hết sức hiểu biết tiềm tàng, tình hình ngoài biên, sự đau khổ của dân, kế hoạch nhà nước, mưu kế việc binh, biết điều gì là nói hết, cũng nhiều bổ ích".

Vua Gia Long từng triệu Nguyễn Đức Xuyên đến hành tại. Dụ rằng: “_Nguyễn Văn Thành mưu việc cẩn thận kín đáo, có thể đương được một mặt. Nhưng hay kiêu ngạo, phần nhiều làm mất lòng tỳ tướng, nên lưu khanh ở đây để uốn nắn chỗ sai mà giúp việc nước_”.

Trong một truyền dụ của triều đình còn ghi: "quân ta giao tranh, đánh ba trận thắng ba trận, ta lấy được tuy chưa bắt được hết nhưng cũng là toàn thắng. Đó thực là do đại tướng giỏi cầm quân và các quân vui theo mệnh lệnh."

Năm Quý Dậu 1813, sau khi xác định được rõ vị trí chiến lược quan trọng của Đà Nẵng từ trước nên triều đình nhà Nguyễn đã cho đo đạc cửa biển của địa danh này, kết hợp với việc vẽ bản đồ và bố trí thủy quân. ông được vua cử đi lập pháo đài Điện Hải và đài An Hải nằm hai bên tả hữu sông Hàn, ở miền giáp giới với biển, để kiểm soát thuyền bè ra vào và trấn giữ Đà Nẵng.

Về sau, triều đình cho rằng các pháo đài này có thành trì, trấn giữ hùng mạnh ở bờ biển khác hẳn những pháo đài khác nên đặc cách cho gọi là thành.

Tổng trấn Bắc thành

Năm Nhâm Tuất 1802, vua Gia Long nghĩ Bắc Hà mới bình định, dân vật đổi mới, cố đô Thăng Long lại là trung tâm của Bắc thành với nghìn năm văn hiến đồng thời cũng là nơi đã từng chứng kiến bao cuộc thăng trầm của lịch sử dân tộc, nên được trọng thần để trấn thủ bèn phong cho ông làm Tổng trấn Bắc thành, còn vua trở về kinh đô Phú Xuân (tức Huế ngày nay). Ban cho sắc ấn trong ngoài mười một trấn đều thuộc về ông kiêm quản. Các việc truất nhắc quan lại, xử quyết việc án, đều được tiện nghi làm việc, sau mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị.

nhỏ|Hình dấu ấn triện công văn (前軍之印), in trong tập Công văn cựu chỉ, do Tiền quân Nguyễn Văn Thành đóng vào thời điểm năm [[Gia Long thứ nhất (1802), với kích cỡ 9,3x9,3 (cm) màu đỏ.]]

Vào tháng Chạp năm 1802, tại Thuận Hóa, ông đứng chủ tế ở lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh với lực lượng Tây Sơn. Ông đã soạn bài Văn tế tướng sĩ trận vong, lúc tế ông đọc bài văn này, lấy cái cảm tình của một ông võ tướng mà giãi bày công trạng anh hùng của kẻ đã qua, thổ lộ tấm lòng thương tiếc của người còn lại, lời văn thống thiết, giọng văn hùng hồn, đây thật là một áng văn chương tuyệt bút của nền văn học Việt Nam.

Do một sự giao hoà tự nhiên của đất trời mà sách còn chép rằng: "khi Tiền quân Nguyễn Văn Thành đọc bài văn tế trên, chung quanh đài lễ mây mù khói nổi, vang vọng tiếng gươm đao chát chúa và tiếng ngựa hí cuồng. Trên không trung, từng luồng gió rít ngang, nghe mơ hồ tiếng than vãn nhớ thương lẫn tiếng chân người rầm rập đi qua. Khi bài văn tế kết thúc, trời quang, mây mù tan hết, cảnh vật chung quanh trở nên tĩnh lặng như cũ. Phải chăng đây là oan hồn của bao nhiêu binh lính và lương dân đã bỏ mình trong chiến trận, hiển linh để nghe bài văn tế giải oan cho họ?"

Biết nỗi thống khổ của người dân sau nội chiến, ông đề xuất:

  • Giảm thuế điền, thuế thân.

  • Thi hành phép phân chia ruộng.

Ngoài ra, ông còn khuyến dân chúng kiểm tra nghiêm ngặt, gia cố đê điều vì nước sông Nhĩ Hà chảy mạnh.

Là một võ tướng, Nguyễn Văn Thành lại là người rất coi trọng việc giáo dục học hành thi cử, năm Quý Hợi 1803, ông cho khắc in Thánh Dụ Quảng Huấn. Giáp Tý 1804, ông tâu:"Hiện nay thánh thượng lưu ý đào tạo nhân tài, chia đặt đốc học, rèn đúc học trò, để cống hiến cho đất nước. Đó thực là cơ hội lớn để sửa đổi phong tục tác thành nhân tài. Nhưng sự dạy dỗ mới bắt đầu thì văn khoa cử nên có kiểu mẫu để làm khuôn phép cho học trò. Vậy xin chuẩn định học quy, khiến cho người dạy lấy đó mà dạy học trò và học trò lấy đó làm chuyên nghiệp để cho giảng dạy khảo khóa lấy đó mà theo". Vua liền chuẩn lời tâu.

Cũng trong năm Giáp Tý 1804, ông đã nỗ lực thống nhất các đồ cân, đo, lường ở các trấn Bắc Thành đồng thời cho đúc thước đạc điển được dùng từ Quảng Bình trở vào Nam và thước Kinh được dùng từ Nghệ An trở ra Bắc.

Tháng 8, Lê Chất theo hầu Gia Long ra tuần thú Bắc Thành. Khi đến Thanh Hoa thì nghe tin Quảng Yên có giặc biển. Bắc Thành Tổng trấn Nguyễn Văn Thành đem việc tâu lên, Vương sai Chất cùng Nguyễn Văn Trương đi trước đánh giặc, Chất nói với Trương rằng địa phương có giặc là phận sự của quan địa phương, mà nay Nguyễn Văn Thành đem giặc đưa cho ta, tướng quân sao không nói rõ (với Vương thượng), Trương nói rằng tạm đợi việc xong, nói cũng chưa muộn gì. Khi Trương đến Quảng Yên, thì giặc đã trốn trước, bèn cùng uống rượu với Thành, đem lời Chất nói ra, vì thế Thành đem lòng giận Chất. Nhân việc ban giao với phương Bắc đã ổn định, Nguyễn vương ban yến cho quần thần, triệu Chất đến hỏi việc năm trước, và đứng ra hòa giải cho ba người.

Soạn thảo luật Gia Long

Năm Canh Ngọ 1810, ông được triệu về kinh, lãnh ấn Trung quân, rồi được giao cử chức Tổng tài cùng với Vũ Trinh và Trần Hựu soạn bộ Hoàng Việt Luật Lệ (thường được gọi là luật Gia Long). Việc soạn Hoàng Việt Luật Lệ bắt đầu từ tháng 2 năm 1811 và đến tháng 8 năm 1812 thì hoàn tất. Bộ luật có hai phần, chia làm hai mươi hai quyển, có tất cả ba trăm chín mươi tám điều, ban hành năm 1812, đến năm 1815 được khắc in. Hoàng Việt Luật Lệ là bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất thời bấy giờ.

Trước khi ban hành, Nguyễn Văn Thành có dâng sớ tâu lên vua Gia Long, trong sớ ông trình bày về việc: "...đặt lại quy tắc khoan hồng và thưởng phạt. Khi xem đến luật triều Thanh, đức Thánh thượng nhận thấy đó là bộ luật gồm đủ các sắc luật của các triều đại trước, nên ban sắc chỉ dạy các quan đem ra bàn bạc, xem xét cùng hạ thần ngỏ hầu chọn lấy những gì khả dĩ soạn thành bộ luật riêng để dùng trong nước... Sách đã dạy: Trừng phạt để về sau không còn phải trừng phạt nữa, đặt ra tội hình để về sau không còn phải dùng đến tội hình nữa. Điều đó há chẳng phải là điều mà Đức Thánh thượng hằng mong muốn hay sao?"

Hoàng Việt Luật Lệ xếp theo sáu loại: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công luật. Cũng giống như luật Hồng Đức, đây là một bộ luật phối hợp, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội thuộc nhiều lãnh vực khác nhau: từ luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân gia đình đến cả luật hành chính, luật tài chính, luật quân đội và luật tư pháp quốc tế. Hoàng Việt Luật Lệ là luật thực định của một triều đại tồn tại hơn một thế kỉ và nó góp phần ổn định trật tự xã hội, củng cố các phong tục, tập quán cổ truyền tốt đẹp của dân tộc cùng với nhiều định chế rất tiến bộ.

Nghiên cứu Hoàng Việt Luật Lệ và tham khảo từ các sách khác, chúng ta mới thấy được phần đóng góp và sáng tạo của các tác giả bộ luật này, và cũng từ đó thấy được tinh thần nhân đạo của nó.

Điều dễ thấy nhất trong bộ luật là các cực hình trong luật nhà Thanh như: Tru di tam tộc, Lăng trì, Yêm,… đều hoàn toàn bị loại bỏ.

Ngoài ra, tính nhân đạo của bộ luật còn thấy rõ qua từng phiên tòa mở trong năm ( trừ các tội Mưu phản, Đại phản nghịch, Đạo tặc...).Theo luật, các phiên xử thường tổ chức vào đầu mùa thu chứ không mở vào đầu mùa hè vì theo luật, mùa hè thời tiết nóng, sẽ ảnh hưởng xấu đến việc buộc tội của các phán quan. Nếu phiên tòa xử trong mùa thu năm nay mà chưa có phán quyết cuối cùng thì phải đợi đến mùa thu năm tới mới quyết án chung thẩm. Trường hợp tội nhân bị án tử hình ( giam chờ đợi để chống án hoặc xin ân xá hay chờ thỉnh ý vua )thì cũng phải đợi đến mùa thu khi có phiên tòa mới xử chung thẩm. Việc mở phiên tòa vào mùa thu là điểm đáng chú ý của bộ luật này mà đến nay chưa có bộ luật nào ngay cả luật các nước khác có được, điểm đặc thù về tính nhân đạo của Hoàng Việt Luật Lệ.

Năm 1811, xảy ra vụ án Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát: ''Nguyễn Văn Thành nói dầu rằng Trần Thường, Gia Cát vẫn là có tội, nhưng lấy công chuẩn lỗi thì còn có bát nghị; bọn Lê Quang Định, Nguyễn Đức Huyên, Nguyễn Hữu Thận đều chủ trương theo lời nghị ấy; bọn Trịnh Hoài Đức, Trần Văn Trạc lại theo lời nghị của Như Đăng. Bàn mãi không quyết định được. Khi tâu lên, vua nói: “Bá Phẩm nói phải”. Vua theo lời Phẩm mà phạt Văn Thành.

Được triệu tập giữ chức Tổng tài biên soạn Quốc Triều Thực Lục, Nguyễn Văn Thành dâng phong thư kín viết ra bốn điều mà điều thứ ba:"xin kén thêm nho thần để sung Sử cục" vua chấp nhận và cho thực hiện (San định Quốc Sử).

Khi công việc đi dần vào ổn định thì sự kiện 1817 xảy ra và đến hơn 4 năm sau việc biên soạn công trình này mới được tiếp tục dưới thời vua Minh Mạng.

Xung đột trong việc chọn Thái tử

Năm 1812, _Vua đi thăm sơn lăng. Hoàng tư cùng các đại thần đều theo hầu. Đến khi đào huyệt, thấy có đất ngũ sắc, lòng vua mừng lấy làm điềm tốt. Bầy tôi đều khen mừng, duy Nguyễn Văn Thành không hưởng ứng. Vua hỏi vì sao? Thành vội thưa rằng: “Đất ấy chưa đủ làm tốt. Mộ mẹ thần cũng có đất ngũ sắc, mà sắc coi còn tươi nhuần, có thể tốt hơn đất này”. Vua lặng yên. Bầy tôi đều bất bình. Rồi Văn Thành lại nói: “Gần đây xứ Châu Ê có một kiểu đất rất tốt”. Bọn đại thần Phạm Văn Nhơn đều nói: “Đã biết đấy có đất tốt, sao không tâu cho vua nghe?”. Văn Thành nói: “Đất ấy tuy tốt nhưng không thể táng được, táng đấy hẳn bị sét đánh”. Vua nghe không đẹp lòng. Hoàng tư [Minh Mạng] quay bảo rằng: “Tây Sơn là bọn tiếm ngụy, tất gặp vạ sét đánh, còn nay là đời thánh minh, được trời giúp đỡ. Đứng trước mặt vua, khanh sao vội nói những câu như thế?”. Văn Thành tự biết mình nói sai rồi, xấu hổ sợ hãi, lùi đi nơi khác. _Văn Thuyên là người thế nào mà muốn được tể tướng trong núi?”. Tham tri Hình bộ là Vũ Trinh giải theo nghĩa cưỡng ép. Vua nín lặng. Duyệt sau đó vì các mối hiềm khích mà thúc ép xét xử cha con Thành. Tham tri bộ Lại Trần Văn Tuần bảo rằng: Trung quân (Nguyễn Văn Thành) với Tả quân (Lê Văn Duyệt) là người đồng công cộng thể, Trung quân ngày nay như thế thì ông ngày sau thế nào? Duyệt nghe lời nói ấy cũng hơi buồn, thôi không tức giận Thành nữa.

Mọi việc kêu oan của ông đều không được Gia Long minh xét. Vị quan, một đời tận tụy, hiểu rằng: Án đã xong rồi, vua bắt bề tôi chết, bề tôi không chết không phải là trung, di biểu để lại còn ghi: "Sớm rèn tối luyện dệt thành cái tội rất độc ác cho cha con thần, không biết kêu oan vào đâu, chỉ chết mà thôi". Ông bị bức tử, buộc phải uống thuốc độc trong ngục vào năm Đinh Sửu (1817), hưởng thọ sáu mươi tuổi, con trai ông là Nguyễn Văn Thuyên thì bị xử án chém.

Trong Hoàng Triều Sử Ký có thơ cảm khái: :Trải mấy gian nan miếng sống thừa :Lòng như vàng đá tóc như tơ :Sương nam lạnh lẽo nồng hơi rượu :Gió bắc lung lay đứng ngọn cờ :Thương lấy tôi già trăm trận đánh :Làm chi con trẻ một câu thơ :Bây giờ trông thấy chim cao đó
:Nhớ đến cung hay luống ngẩn ngơ

Nhận định và phục hồi công trạng

Nguyễn Văn Thành là bậc nho tướng, giỏi việc quân, biết dùng người hiền tài, mang phong thái của một bậc chiêu hiền đãi sĩ, việc tài chánh, giao thiệp với ngoại bang, biên soạn hình luật, không gì không làm được, giỏi văn chương, giao hảo với Ngô Nhân Tịnh, có thơ tặng đáp với Lê Quang Định, nhưng sau 1817 thơ văn phần nhiều không thấy hành thế, nay chỉ còn vài tác phẩm trong đó nổi tiếng nhất là bài "Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong" viết bằng chữ Nôm.

"Với những chiến công oanh liệt giúp vua Gia Long khai công và bài văn tế Trận Vong Tướng Sĩ, thêm bộ luật Gia Long, Nguyễn Văn Thành đã ghi tên mình vào lịch sử Việt Nam từ cuối thế kỉ 18 sang đầu thế kỉ 19, là một văn gia, là một nhà kiêm cả chính trị, pháp luật".

Sách Đại Nam Liệt Truyên còn ghi: :"...Thành có văn võ tài lược, lâm trận dụng binh mưu lược rồi mới đánh cho nên ít khi thua, lúc đầu trung hưng, công ấy tốt lắm. Đến khi Bắc hà đã định, một mình đương công việc Tổng trấn không động đến lời nói nét mặt mà trộm giặc đều yên, bày mưu chốn miếu đường, bày tâu sự nghị đều được thi hành, có thể gọi là người có mưu giỏi trị nước."

Năm Tự Đức thứ nhất, Mậu Thân 1848, Đông các đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn đệ tấu xin gia ân cứu xét lại vụ án của nguyên Tổng trấn Bắc thành. Đến năm Mậu Thìn 1868, sau khi nguyên niên được 21 năm, vua Tự Đức đã truy xét công trạng, lại chiếu giải oan cho liệt dự miếu Trung hưng công thần, truy phục Chưởng Trung Quân đại tướng quân quận công cho Nguyễn Văn Thành. Sau đây là bản dịch nghĩa Sắc gia ân do dịch giả Lê Xuân Hoàng phụng dịch:

:Nhân lúc vận trời đang hưng vượng Hoàng Đế phán rằng: :Ta nghĩ công thần là khí tốt của nước nhà, là người có quyền lớn, những việc làm kỳ lạ đều bày ra tốt đẹp, có công và có tội cũng có khi xảy ra. Các quan nhà Châu đều đặt ra tám nghị (điều) còn bên sách Tả truyện thì có mười điều là để khen chê những người có công hay có tội. :Trước đây Vọng Các Công Thần là ông Quận Công Thành, NGUYỄN VĂN THÀNH là một người công thần cũ, là con của ông NGUYỄN VĂN HIỀN, là một nhà trung nghĩa đời đời đều có công, đã từng đánh giặc nhiều phen, đánh trăm trận lên đến Đại tướng, chức đến Thượng công. :Sử sách còn để rõ ràng. Về triều đại Gia Long, nhân vì người con có tội, mà để lụy cho cha, có dâng biểu lên thì nhà Vua cũng cảm động. Đến triều đại Minh Mạng, Thiệu Trị cũng đem ra xét và đã thi ân tha tội. Trẫm ngưỡng truy vì ta đây thấy chỗ đời trước cũng thương tiếc đến công trạng. Sắc cho đình thần phải hai ba lần xét lại cho rõ ràng, rồi cho lại chức tước đúng như nguyên hàm mà thờ tự. :Như thế là đã thi ân nhiều cho ông NGUYỄN VĂN THÀNH được phục chức Vọng Các Công Thần, tước Quận Công, được thờ vào miếu Trung Hưng Công Thần và cho cáo mạng để an ủi linh hồn. :Than ôi! Công lao nặng như đá, không lẽ vì một chút đứa con mà phải bị mất hết, cho nên phải truy lục lại để tỏ rõ là ơn của nhà Vua vậy. :Như vậy là đã đối xử một cách rất hậu đối với tướng tài, nhà Vua không quên ơn của người có công, mặc dầu đã qua đời lâu nhưng vẫn như còn sống vậy. :Ngày 17 tháng 4 năm Tự Đức thứ 21.

Lăng mộ

Lăng mộ Trung Quân Nguyễn Văn Thành hiện an vị ở xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. Lăng mộ có diện tích năm mươi mét vuông, bao gồm bốn cột trụ biểu, bia tiền và bia hậu. Trên bức bia tiền còn ghi rõ chức tước của Trung Quân khi đã trở về cố đô Huế vào năm 1810 cho đến khi mất: "Việt Cố Khâm sai Chưởng Trung quân Bình Tây Đại tướng quân Thành Quận công chi mộ" (越故欽差掌中軍平西大将军誠郡公之墓). Trên Bức bia hậu ghi tóm tắt tiểu sử công trạng cùng tên tuổi gia quyến của Trung Quân. Đặc biệt trên bia còn khắc cảnh Xuân Hạ Thu Đông và các hoa văn tượng trưng cho uy quyền và đức độ của ngài khi xưa.

Đền thờ

Tại phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, trên cuộc đất cao trong khu rừng sao, ngôi đền thờ Trung quân Nguyễn Văn Thành được xây dựng từ năm 1820. Toàn bộ khung sườn đền đều làm bằng gỗ sao đốn từ những cây sao già tại khu rừng ấy. Trải qua hơn 200 năm thăng trầm của lịch sử, đền vẫn còn đó dáng uy nghiêm và trầm mặc. Hằng năm vào ngày rằm tháng Mười Một âm lịch là ngày giỗ của Trung quân.

Hình:Cong dinh 2024.jpg|Cổng đình Tân An Hình:Den Tan An Cong Chinh.jpg|Đền thờ Trung quân Nguyễn Văn Thành tại phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương Hình:Den_Tan_An_buc_chan.jpg|Bức bình phong trước cồng đền Hình:Den_Tan_An_Cong_xua.jpg|Cồng xưa in dấu vết của thời gian Hình:Den_Tan_An_02.jpg|Vòng thành trong bảo vệ đền Hình:Den_Tan_An_16.jpg|Cảnh rừng cây sao chung quanh đền Hình:bia-di-tich-den-nguyen-van-thanh.jpg|Đình Tân An, được công nhận là di tích văn hóa, lịch sử cấp Quốc gia (2014)

Ngày giỗ

Theo như lệ thường hàng năm, vào ngày 15 tháng 11 âm lịch năm Bính Tuất, tức là vào thứ tư, ngày mùng ba tháng giêng dương lịch năm 2007 đã diễn ra buổi lễ cúng đình thần, Đức Trung quân Nguyễn Văn Thành, tại xã Tân An. Từ tờ mờ sớm đã diễn ra lễ rước sắc phong thần từ ngôi nhà cổ vào đền Tân An. Trong bầu không khí trang nghiêm và long trọng của buổi lễ cúng thần, các đội tế lễ trong trang phục truyền thống, áo dài khăn đóng, đã ra làm lễ tế. Các khách thập phương lũ lượt từ các nơi gần xa cũng đã có mặt đông đủ tại đình cổ Tân An để thấp hương và cầu an.

Tập tin:Ruocsacthan.JPG|Rước sắc thần Tập tin:DinhTanAn khachthapphuong.jpg|Khách thập phương đến thấp hương và cầu an Tập tin:Ramthang11dinhtanan5.jpg|Chuẩn bị lúc sáng mai Tập tin:Ramthang11dinhtanan1.jpg|Thỉnh SắcMột số nét chính của thành mới: * Trong Hoàng Thành, lấy cửa Đoan Môn Điện Kính Thiên làm chuẩn, phía trước dựng cột cờ gọi là kỳ đài cao một trăm thước ta, lấy đó làm hiệu lệnh trong quân. * Ngoài thành mở bảy cửa, trên có lầu đều có trụ đồng, dẫn sông Tô Lịch làm hào thành, trên hào lấy gạch nung làm cầu * Kiềng thành khuất khúc như hoa bát giác hồi hương, nền thành rộng bảy trượng, mặt thành hai trượng trong có năm bậc phía trên là tường nhỏ thấp, có lỗ châu mai. * Gỗ, đá bào trơn như mài, các doanh, vệ ngang dọc như bàn cờ, đặt ngôi chợ lớn ở cửa chính đông (chợ Đồng Xuân ngày nay), phân chia quán xá, đường đi thật vuông, thẳng. Ngoài cùng đắp đất, trồng tre làm lũy, tùy chỗ mà đặt của ô, trên có lầu gác súng.

Bài minh trên bia đá thành Thăng Long có viết:

:Kiểu đất bụng rồng, hình thể nhất đây. :Tản Viên là cột, sông Nhị là đai. :Trải đời dấy nghiệp, chọn nơi rộng rãi. :Văn vật biến thiên, non sông chẳng đổi.

Nguồn gốc Khuê Văn Các

Năm 1805, Quận công Thành cho xây dựng Khuê Văn Các ở Học đường phủ Hoài Đức bên ngoài giếng Vuông trước cửa Văn Miếu. Trần Bá Lãm ở Vân Canh có dâng bài phú.

Sau đây là một vài hình ảnh của Khuê Văn Các tại Văn Miếu – Hà Nội. Về nguồn gốc Khuê Văn Các trong bức ảnh thứ nhất đã ghi rõ như sau: :Tháng 6, năm Ất Mùi niên hiệu Gia Long thứ 4 (1805) Quận công Nguyễn Văn Thành dựng Khuê Văn Các bên cạnh giếng vuông, trước sân Văn Miếu. :Trần Bá Lãm có thơ ca ngợi: :Mấy lớp cung tường sừng sững cổ kim :Bốn mùa hoa cỏ sum xuê tươi tốt :Thánh triều gây dựng quy mô lớn :Lâu dài mãi với núi Nùng cao, sông Nhị sâu ::Trích: Quốc sử di biên

Hình:Lichsu_KhueVanCac.jpg|Lịch sử Khuê Văn Các Hình:Khue van cac 1930.jpg|Khuê Văn Các đầu thế kỷ 20 Hình: Khue Van Cac 2024.jpg|Khuê Văn Các ngày nay

Khuê Văn Các có kiến trúc dạng cổ lầu, gồm bốn trụ gạch vuông có hoa văn, tầng gác bên trên là những kết cấu bằng gỗ, bốn góc có hàng lan can, mái ngói được nâng bởi những giá gỗ đơn giản, vững chắc mà thanh thoát, mái mỗi bề xếp thành hai lớp tạo cho gác là một đài tháp tám mái, bốn mặt gác đều có cửa sổ hình tròn với kích thước hài hòa, cân xứng, tỏa ra những tia sáng sao khuê chiếu lên bề mặt địa cầu mà giếng vuông Thiên Quang là biểu tượng, hai bên phải, trái của gác Khuê Văn là hai cổng nhỏ Súc Văn và Bí Văn (văn hàm súc và văn sáng đẹp).

Các câu đối trước, sau và các chữ trong phần chính cũng như toàn bộ hình tượng của kiến trúc mang ý nghĩa và vẻ đẹp của sao Khuê, ngôi sao chủ của văn học theo quan niệm xưa.

Giai thoại

Sau khi vua Gia Long cho thu hồi ấn và gươm lệnh, Trung Quân Thành về nhà buồn bực đem rượu ra uống. Một mình nâng chén, nghĩ đến sự đời càng thêm ngán ngẩm: nào lúc bôn tẩu thì mình đã cùng bao người khác đem tâm lực ra mà gây dựng nên một dải quan hà, nào lúc bị mắc vạ oan thì ngoảnh lại chỉ còn một mình. Rượu ngà ngà say, lòng gây gây buồn, Nguyễn Văn Thành bèn lấy giấy mực viết luôn hai câu tuyệt bút: :Chung dải quan hà bao kẻ đứng? :Chạnh niềm sương tuyết một mình đi...

Đường phố

Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1985 có tới hai con đường mang tên Nguyễn Văn Thành. Đường Nguyễn Văn Thành (thường hay gọi là bến Nguyễn Văn Thành, do nằm dọc theo rạch Hàng Bàng) của Đô thành Sài Gòn cũ hiện nay là đường Phan Văn Khỏe (trước đó cũng gọi là bến Phan Văn Khỏe, nhưng hiện nay không còn gọi là bến nữa do rạch Hàng Bàng đã bị lấp gần hết) ở quận 5 và quận 6, còn đường Nguyễn Văn Thành của tỉnh Gia Định cũ nay là đường Huỳnh Đình Hai ở quận Bình Thạnh. Ở Bình Dương có đường Nguyễn Văn Thành.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Văn Thành** (Sinh ngày 30 tháng 11 năm 1950 – Mất ngày 17 tháng 7 năm 2023) là một nhà ngoại giao Việt Nam. Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Ukraina
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
**Nguyễn Văn Trương** (; 1740 - 1810), là một trong Ngũ hổ tướng Gia Định, và là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
Thống chế Điều bát **Nguyễn Văn Tồn** (Chữ Hán: 阮文存, 1763–1820) là một danh tướng và nhà khai hoang đầu thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công lớn trong
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
**Nguyễn Văn Nhơn** () hay **Nguyễn Văn Nhân**, tục gọi là **Quan lớn Sen** (1753-1822), là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) trong lịch sử Việt Nam.
**Nguyễn Xuân Ôn** (1825 – 1889), hiệu **Ngọc Đường**, **Hiến Đình**, **Lương Giang** nhân dân thường gọi ông là **Nghè Ôn**; là quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở
**Võ Văn Ngân** (1902-1938) là một nhà cách mạng Việt Nam, lãnh đạo cao cấp của phong trào cộng sản Việt Nam thời kỳ đầu. ## Tiểu sử Võ Văn Ngân sinh năm 1902 trong
**Nguyễn Đăng Giai** (阮登楷 hay 阮登階, ? - 1854) tự **Toản Phu**; là danh thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông là người làng Phù Chánh, huyện
**Lê Văn Phong** (1769 - 1824) là tướng của chúa Nguyễn - Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh năm Kỷ Sửu (1769) tại làng Long Hưng, huyện Kiến Hưng,
**Tập đoàn giáo dục Nguyễn Hoàng** có tên đầy đủ là **Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Nguyễn Hoàng** (tên tiếng Anh: **Nguyen Hoang Group** - **NHG**), hoạt động trong lĩnh vực đầu
Bàn thờ Nguyễn Huỳnh Đức tại khu đền mộ ở Tân An. **Nguyễn Huỳnh Đức** (chữ Hán: 阮黃德; 1748 - 1819) là danh tướng và là công thần khai quốc của nhà Nguyễn. Ông là
**_Văn tế tướng sĩ trận vong_** là một bài văn tế do Tiền quân Nguyễn Văn Thành đọc để tế các tướng sĩ của vua Gia Long đã bỏ mình trong cuộc chiến với quân
**Nguyễn Văn Thành** (sinh năm 1957) là một chính khách, tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông hiện là Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương
**Trần Văn Năng** (陳文能, 1763 - 1835), là tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp **Trần Văn Năng** là người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa. Năm Đinh Dậu (1777), ông
**Đào Văn Hổ**: một tướng lĩnh cao cấp của phong trào Tây Sơn ## Hành trạng Đào Văn Hổ tham gia phong trào Tây Sơn từ sớm, dưới trướng của Tây Sơn vương Nguyễn Văn
**Nguyễn Hùng Vĩ** (sinh ngày 15 tháng 01 năm 1956) là một nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam. ## Lịch sử Ông Nguyễn Hùng Vĩ sinh ngày 15 tháng 11 năm 1956
**Nguyễn Đức Xuyên** (阮德川) (1759 – 1824) là một võ quan đại thần dưới triều Nguyễn. Ông tham gia cuộc chiến của chúa Nguyễn Ánh chống lại triều Tây Sơn rồi làm quan dưới thời
**Cục Khí tượng Thủy văn** là cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý nhà nước
**Nguyễn Trực** (chữ Hán: 阮直, 1417 - 1474), hiệu là **Hu Liêu**, tự là **Nguyễn** **Công Dĩnh**, quê làng Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội). Ông đỗ đầu trong
**Lý Văn Phức** (chữ Hán: 李文馥, 1785–1849), tự là **Lân Chi**, hiệu **Khắc Trai** và **Tô Xuyên**; là một danh thần triều Nguyễn và là một nhà thơ Việt Nam. ## Tiểu sử **Lý Văn
**Hồ Văn Tự** là tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn. ## Hành trạng Hồ Văn Tự là một tướng lĩnh cao cấp của phong trào Tây Sơn. Không rõ ông tham gia phong trào
**Đặng Lê Nguyên Vũ** (sinh ngày 10 tháng 2 năm 1971) là một doanh nhân Việt Nam. Ông là người sáng lập, chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Trung Nguyên, Việt Nam. Ông
**Nguyễn Văn Thiệu** (? – ?) là tướng lĩnh nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Nguyễn Văn Thiệu không rõ thân thế, quê quán. Chỉ biết ông
**Nguyễn Văn Bổng** (1 tháng 1 năm 1921 - 6 tháng 9 năm 2001) là một nhà văn người Việt Nam. Ngoài tên thật, ông còn viết với bút danh Trần Hiếu Minh. Ông đã
**Từ Văn Tú** là một tướng lĩnh quan trọng của phong trào Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Từ Văn Tú là một nhân vật đóng vai trò quan trọng trong
**Phạm Văn Điềm** một tướng lĩnh kiệt xuất, trung thành của phong trào Tây Sơn ## Tiểu sử Phạm Văn Điềm được giữ chức Tham đốc, An Phủ sứ phủ Phú Yên thời Cảnh Thịnh.
**Nguyễn Văn Thái** (sinh năm 1982) là một nhà bảo tồn, nhà môi trường học người Việt Nam. Sinh tại xã Văn Phương, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Anh hiện là giám đốc Trung
**Bà Huyện Thanh Quan** (chữ Nôm: 婆縣青關, chữ Hán: 青關縣夫人 _Thanh Quan huyện phu nhân_; 1805 - 1848), tên thật là **Nguyễn Thị Hinh** (阮氏馨); là một nữ thi sĩ trong thời cận đại của
**Lê Văn Quân** (黎文勻, ? - 1791) còn có tên là **Lê Văn Câu** hay **Lê Văn Duân** (chữ Hán: 黎文勾), là một danh tướng, Đại đô đốc của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch
**Nguyễn Văn Hòa** (阮文和) là một vị tướng của phong trào Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Nguyễn Văn Hòa tham gia phong trào Tây Sơn, khi Tây Sơn đánh ra
**Nguyễn Văn Phúc** hay **Nguyễn Phúc** (1903 -1946) là một nhà cách mạng Việt Nam. ## Thân thế Ông người làng Trung Nghĩa, nay thuộc xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Tên
**Nguyễn Văn Nghi** (1515-1584), người làng Ngọc Bôi, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, là một danh nho tiêu biểu thời Lê Trung Hưng. ## Sự nghiệp Xuất thân trong gia đình khoa
**** là một trường trung học phổ thông công lập tại quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Trường được thành lập năm 1957 với tên nguyên thủy là **Trường Trung học Trương Tấn
**Phêrô Maria Nguyễn Năng** (tên đầy đủ là **Phêrô Maria Nguyễn Văn Năng;** Ông nguyên là giám mục chính tòa của Giáo phận Vinh. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Vâng lời Thầy con
**Nguyễn Ngọc Trường Sơn** (sinh 23 tháng 2 năm 1990) sinh ra và lớn lên ở thành phố Rạch Giá, Kiên Giang. ## Sự nghiệp nhỏ|phải|Nguyễn Ngọc Trường Sơn tại Giải cờ vua thanh niên
**Nguyễn Xuân** (chữ Hán: 阮春; 13/4/ Giáp Ngọ – 14/12 năm Minh Mạng 16 1835) là một tướng lĩnh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Xuân là người ở huyện
**Nguyễn Danh Phương** (阮名芳, 1690-1751), hay còn gọi **Quận Hẻo**, là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ 18. ## Xuất thân Nguyễn Danh Phương là người
**Nguyễn Văn Hiếu** là luật sư và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Úc, New Zealand, Ý, Tây Ban Nha và Hy Lạp. ##
**Nguyễn Chí Dũng** là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó tổng cục trưởng Tổng cục An ninh 2, Bộ Công an Việt Nam (2010-2014); Giám đốc Công
**Nguyễn Thị Ngọc Du** (chữ Hán: 阮氏玉琇; 1762 – 1820), phong hiệu **Phúc Lộc Công chúa** (福祿公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Bửu Thạch** (Hán Nôm: **阮福寶石**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông là cháu nội của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (阮福洪依), con của Kiến Thụy quận
**Tự Lực văn đoàn** (chữ Hán: , tiếng Pháp: ) là tổ chức văn học mang tính hội đoàn, một nhóm nhà văn đã tạo nên một trường phái văn học, một phong trào cách
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập