Tây Ngụy (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
Vũ Văn Thái nắm quyền
Sau khi Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu bị viên tướng Tiên Ti là Vũ Văn Thái giết, Nguyên Bảo Cự được lập làm Hoàng đế nhà Tây Ngụy trong khi Vũ Văn Thái trên thực tế mới là người cầm quyền. Nhà Tây Ngụy, mặc dù có lãnh thổ nhỏ hơn và dân số ít hơn của nhà Đông Ngụy nhưng vẫn có thể chống lại các cuộc tấn công từ đế quốc phía đông, bên cạnh đó do có các điều kiện kinh tế tốt hơn nên Tây Ngụy thậm chí còn có thể xâm chiếm toàn bộ phần phía tây của nhà Lương ở phía nam và chiếm đóng vùng lãnh thổ ngày nay thuộc Tứ Xuyên.
Tây Ngụy chiếm hữu đất đai tương đối rộng, đông là biên giới với Đông Ngụy, tây đến Lưu Sa, bắc đến Hà Sáo, nam đến Ba Thục, Vân Nam, Quý Châu và Lưu vực Hán Thủy. Tập đoàn thống trị Tây Ngụy chủ yếu là tập đoàn quân nhân Vũ Xuyên do Hạ Bạt Nhạc lãnh đạo và địa chủ Hán tộc ở Quan Lũng kết hợp thành, trong ấy có cả một bộ phận sĩ tộc Quan Trung. Tại Tây Ngụy, quyền lực do họ Hạ Bạt sau đó là họ Vũ Văn nắm giữ.
Năm 555, Tây Ngụy nhân cơ hội phương Nam loạn lạc chiếm đất Thục, giết Lương Nguyên Đế, cắt quận Giang Lăng cho Lương Đế Tiêu Sát (Hậu Lương, tồn tại đến năm 587) vừa hàng phục nhà Tây Ngụy.
Xây dựng và củng cố nhà nước Tây Ngụy
nhỏ|phải|
Tây Ngụy chiếm giữ vùng Quan Trung đất hẹp người ít chưa đến 10 triệu dân, sau khi chính quyền Tây Ngụy tồn tại được một năm thì vùng Quan Trung xảy ra nạn đói khủng khiếp, số người đói kém chưa từng thấy, chết đến bảy tám phần mười. Cao Hoan thừa cơ hội đó mở cuộc đại tấn công quy mô, suýt nữa đã tiêu diệt được Tây Ngụy. Do vậy Vũ Văn Thái đặc biệt chú ý đến sản xuất nông nghiệp.
Năm 541, Vũ Văn Thái đề nghị Văn Đế ban hành Chiếu thư 6 điều, nhằm giảm nạn tham nhũng và lãng phí, củng cố Nhà nước:
Chiếu thư sáu điều bao gồm:
Thanh tâm tư: quy định các quan chức phải có tâm trong sáng, không được ham muốn quá đáng. Lấy lễ giáo của Nho gia để giáo hóa bá tánh.
Đôn giáo hóa: Nhà nước tăng cường mở rộng giáo dục.
Trạc hiền lương: tìm kiếm những người có năng lực, không kể nguồn gốc xuất thân, không đóng khung trong phạm vi môn đệ.
Giảm dục tụng: thận trọng về tư pháp, cấm các hình phạt tra tấn, dùng các biện pháp để ép cung.
Quân phu dịch: bình quân trong gánh vác sưu dịch, mọi người đều phải thực hiện các nghĩa vụ về nộp thuế và lao dịch, giới quý tộc không được trốn tránh các nghĩa vụ này.
Tận địa lợi: khuyến khích sản xuất nông nghiệp, khai thác hết đất đai canh tác. Quy định quan lại các nơi khi làm vụ mùa xuân thì phải đi tuần tra, bắt buộc những tráng đinh có thể cầm nông cụ đều phải ra đồng canh tác, những người đi muộn về sớm sẽ bị xử phạt.
Vũ Văn Thái cho ban hành Chiếu thư 6 điều để thi hành các chính sách về kinh tế, phát triển nông nghiệp, đảm bảo ngân sách Nhà nước, củng cố chính quyền. Quan lại phải ghi nhớ các sắc lệnh trên. Vũ Văn Thái kiến lập chế độ dự toán số thu tô thuế và chế độ hộ tịch, để đảm bảo thu nhập cho chính phủ. Trước khi ban hành Chiếu thư, năm 539, tại Kỳ Châu (tây nam Phụng Tường, Thiểm Tây), số hộ khẩu một châu không quá 3000 hộ, sau mấy năm thực hiện chiếu thư, dân số đã tăng lên 4 vạn hộ.
Chế độ phủ binh
Thời kỳ đầu Tây Ngụy, lực lượng của Vũ Văn Thái chỉ có hơn 1 vạn quân, trong khi đó quân Đông Ngụy luôn có 30 vạn. Các tướng của Vũ Văn Thái đa phần lại là người Hán. Năm 542 Vũ Văn Thái xây dựng chế độ phủ binh, gồm có 6 trụ quốc, 12 đại tướng quân, 24 khai phủ, 48 nghi đồng (tức là xây dựng 24 đạo quân), tổng cộng 48 ngàn quân chủ lực. Người Hán được chiêu mộ xung quân. Người nào vào phủ binh được miễn sưu thuế, thoát ly hộ tịch thông thường, gia nhập hộ tịch độc lập của phủ binh. Trong 1 tháng thì có nửa tháng tập luyện, nửa tháng tuần tra. Tại Quan Trung, mối hộ tùy theo đẳng cấp, tính từ đẳng cấp thứ 6 trở lên là bậc trung và thượng sẽ chọn 1 người khoẻ mạnh có tài năng để làm phủ binh. Vũ Văn Thái ban cho các tướng lĩnh ruộng đất, nô tì, xây dựng nhà cửa, trở thành một tầng lớp quyền lực mới tại Quan Trung. Năm 543, số quân đã lên tới 10 vạn người. Chế độ phủ binh tồn tại hơn 200 năm, là chế độ quân sự quan trọng của Bắc Chu, Tùy, Đường.
Vũ Văn Thái khác với Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy là đã biến người Hán thành người Hồ để thực hiện Hồ Hán một nhà, cải họ người Hán sang họ Hồ, người Tiên Ty được dùng tên gọi họ như cũ. Tuy nhiên khi Dương Kiên (Tuỳ Văn Đế) lên ngôi lại cho đổi họ của người Hán trong quân đội. Chính nhờ lực lượng quân sự hùng mạnh này, Vũ Văn Thái đã củng cố được quyền lực của họ Vũ Văn, thành lập nhà Bắc Chu, tạo điều kiện cho Tùy Văn Đế sau này tiến hành cuộc tấn công xuống phía nam thống nhất đất nước.
Cải cách hình pháp
Năm 535, Tây Ngụy cho Tô Xước dựa trên luật Bắc Ngụy biên soạn những điều quan trọng những điều quan trọng nhất thành luật Đại thống thức. Tô Xước còn soạn thảo ra 24 điều luật mới là pháp quy chủ yếu của các quan viên phải tuân theo.
Cải cách quan chế
Năm 556, Vũ Văn Thái ban hành thiết chế chính quyền mới, chia làm 6 bộ, dựa trên thiết chế nhà Chu. Vũ Văn Thái cho đặt lại các chức Tam công (Thái sư, Thái phó, Thái bảo), Tam cô (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo), Lục khanh (Thiên quan Trủng tể, Địa quan Tư đồ, Xuân quan Tông bá, Hạ quan Tư mã, Thu quan Tư khấu, Đông quan Tư không), xóa bỏ các chức Thừa tướng, Thượng thư, Trung thư thời Hán Ngụy. Quan chế chia làm 4 cấp: Công, Khanh, Đại phu, Sĩ. Lễ nghi trong Triều đình, xe cộ, y phục đồ dùng đều được quy định theo chế độ trong Chu Lễ. Chế độ và lễ nghi Tây Chu được khôi phục. Tuy nhiên các chế độ do Vũ Văn Thái đưa ra dựa vào các sách Thượng thư và Chu Lễ để soạn thảo ra pháp luật ban hành năm 562 có nội dung rối rắm không thích hợp.
Năm 557, cháu Vũ Văn Thái là Vũ Văn Hộ phế truất Cung Đế Nguyên Khuếch và đưa con trai Vũ Văn Thái là Vũ Văn Giác lên ngôi, kết thúc triều đại Tây Ngụy và thành lập ra triều đại Bắc Chu.
Các hoàng đế
Bát trụ quốc
Sứ trì tiết ・ Tổng bách quỹ ・ Trụ quốc đại tướng quân ・ Đốc trung ngoại chư quân sự ・ Lục thượng thư sự ・ Đại hành đài ・ Khai quốc công quận An Định Vũ Văn Thái
Sứ trì tiết ・ Thái úy ・ Trụ quốc đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Thượng thư Tả bộc xạ ・ Lũng Hữu hành đài ・ Thiếu sư ・ Khai quốc công quận Lũng Tây Lý Hổ
Sứ trì tiết ・ Thái phó ・ Trụ quốc đại tướng quân ・ Đại tông bá ・ Đại tư đồ ・ Quảng Lăng vương Nguyên Hân
Sứ trì tiết ・ Thái bảo ・ Trụ quốc đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Đại tông bá ・ Khai quốc công Triệu quận Lý Bật
Sứ trì tiết ・ Trụ quốc đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Đại tư mã ・ Khai quốc công quận Hà Nội Độc Cô Tín
Sứ trì tiết ・ Trụ quốc đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Đại tư khấu ・ Khai quốc công quận Nam Dương Triệu Quý
Sứ trì tiết ・ Trụ quốc đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Đại tư không ・ Khai quốc công quận Thường Sơn Vu Cẩn
Sứ trì tiết ・ Trụ quốc đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Thiếu phó ・ Khai quốc công quận Bành Thành Hầu Mạc Trần Sùng
12 Đại tướng quân
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Thiếu bảo ・ Quảng Bình Vương Nguyên Tán
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Hoài An vương Nguyên Dục
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Tề vương Nguyên Khuếch
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Tần Thất Châu chư quân sự ・ Thứ sử Tần Châu ・ Khai quốc công quận Chương Vũ Vũ Văn Đạo
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Khai quốc công quận Bình Nguyên Hầu Mạc Trần Thuận
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Ung Thất Châu chư quân sự ・ Thứ sử Ung Châu ・ Khai quốc công quận Cao Dương Đạt Hề Vũ
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Dương Bình công Lý Viễn
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Khai quốc công quận Phạm Dương Đậu Lư Ninh
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Khai quốc công quận Hóa Chính Vũ Văn Quý
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Kinh Châu chư quân sự ・ Thứ sử Kinh Châu ・ Khai quốc công quận Bác Lăng Hạ Lan Tường
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Khai quốc công quận Trần Lưu Dương Trung
Sứ trì tiết ・ Đại tướng quân ・ Đại đô đốc ・ Kì châu chư quân sự ・ Thứ sử Kỳ Châu ・ Khai quốc công quận Vũ Uy Vương Hùng
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Tây Ngụy Phế Đế** (西魏廢帝) (525-554), tên húy là **Nguyên Khâm** (元欽), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thậm chí còn có ít quyền lực thực
**Vương Minh** (chữ Hán: 王盟, ? – 545), tự **Tử Ngỗ**, người quận Lạc Lãng, tướng lãnh nhà Tây Ngụy. Ông là cậu của Vũ Văn Thái – quyền thần nhà Tây Ngụy. ## Thân
**Vương Mậu** (chữ Hán: 王懋, ? – ?), tự **Tiểu Hưng**, người quận Lạc Lãng, tướng lãnh nhà Tây Ngụy. Ông là em họ bên ngoại (biểu đệ) của quyền thần Vũ Văn Thái. ##
**Tây Ngụy Cung Đế** (西魏恭帝) (537–557), tên húy là **Nguyên Khuếch** (元廓), sau đổi thành **Thác Bạt Khuếch** (拓拔廓), là hoàng đế cuối cùng của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Uất Cửu Lư hoàng hậu** (chữ Hán: 郁久閭皇后, 525–540), thụy hiệu **Điệu hoàng hậu** (悼皇后) là hoàng hậu thứ hai của Tây Ngụy Văn Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Hoàng hậu Phụ thân
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Đông Ngụy** (tiếng Trung: 東魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của Nhà nước Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ Bắc Trung Quốc từ năm 534 tới năm
**Sơn Tây** (, ; bính âm bưu chính: _Shansi_) là một tỉnh ở phía bắc của Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Tây là tỉnh đứng thứ mười tám về số dân, đứng thứ hai mươi
**Ngụy Văn hầu** (chữ Hán: 魏文侯; trị vì: 403 TCN - 387 TCN hoặc 403 TCN-396 TCN), tên thật là **Ngụy Tư** (魏斯), là vị quân chủ khai quốc của nước Ngụy - chư hầu
**Trận Hà Tây** (chữ Hán: 河西之戰, Hán Việt: _Hà Tây chi chiến_) là trận chiến diễn ra vào thời Chiến Quốc, từ năm 419 TCN đến 408 TCN giữa nước Ngụy và nước Tần trong
**Thiểm Tây** (, ) là một tỉnh của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Thiểm Tây là tỉnh đông thứ mười sáu về số dân, đứng thứ mười lăm về kinh tế Trung
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
**Lưu Phong** (, ? – 549), tự Phong Sinh, người quận Phổ Nhạc , tướng lĩnh nhà Đông Ngụy. ## Cuộc đời Ông có phong thái hùng tráng, tính cách quả quyết hơn người, giỏi
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后, không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân của Cao Hoàng hậu
Liên hệ: Zallo:O9O8 238 4O9BỘ THƯƠNG HIỆU KỀM NGHĨA, 4 dụng cụ:Thương hiệu: Kềm Nghĩa- Kềm cắt da- Bấm móng tay- Dũa móng / Sủi da- NhípCó hộp đựng bằng da cao cấp.Thông tin về
THÔNG TIN SẢN PHẨM Áo nỉ dài tay thu đông bé gái Jumping Meters NI3Thương hiệu: Jumping metersChất liệu : nỉ da nỉ dài tay Jumping Meters phù hợp mặc nhà cho bé vận động
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Ngụy** là một từ gốc Hán trong tiếng Việt có nhiều nghĩa tùy thuộc vào chữ Hán Nôm gốc, văn cảnh và từ ghép với nó. Nghĩa thường dùng là để chỉ sự vật, sự
nhỏ|phải|Ngụy quốc
([[triện thư, 220 TCN)]] **Ngụy** (Phồn thể: 魏國; Giản thể: 魏国) là một quốc gia chư hầu trong thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ của quốc gia này hiện
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Trận Hà Tây lần thứ hai** (chữ Hán: 河西之戰, Hán Việt: _Hà Tây chi chiến_) là trận chiến diễn ra vào thời Chiến Quốc, từ năm 366 TCN đến 330 TCN giữa nước Ngụy và
_Kẻ bạc gian_ (Le Tricheur), họa phẩm của [[Georges de La Tour, trưng bày tại bảo tàng Louvre, Paris]] **Ngụy biện con bạc**, hay **ngụy biện của tay cá cược**, **ngụy biện Monte Carlo** hoặc
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Vu Cẩn** (chữ Hán: 于谨, 493 – 568), tự **Tư Kính**, tên lúc nhỏ là **Cự Di**, dân tộc Tiên Ti, người Lạc Dương, Hà Nam (nay là Lạc Dương, Hà Nam), tướng lĩnh nhà
**Ngụy Diên** (chữ Hán: 魏延; 177-234), tên tự là **Văn Trường** (文長), là tướng quân nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa. Trong chiến dịch Bắc Phạt của Gia Cát Lượng
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Trận Ngọc Bích** (chữ Hán: 玉壁之战, _Ngọc Bích chi chiến_) là trận đánh diễn ra vào thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc, giữa hai nước Đông Ngụy và Tây Ngụy. Năm 546
**Tây Lương Tuyên Đế** (chữ Hán: 西梁宣帝, 519–562), tên húy là **Tiêu Sát** (), tên tự **Lý Tôn** (理孫), là hoàng đế khai quốc của chính quyền Tây Lương thời Nam-Bắc triều trong lịch sử
**Trận Mang Sơn** (chữ Hán: 邙山之战, _Mang Sơn chi chiến_), gọi đầy đủ là **trận Hà Kiều, Mang Sơn** (河桥,邙山之战, _Hà Kiều, Mang Sơn chi chiến_), thường gọi là **trận Hà Kiều**, diễn ra vào
**Trận Mang Sơn** (chữ Hán: 邙山之战, _Mang Sơn chi chiến_) là trận đánh lớn thứ tư giữa hai nước Đông-Tây Ngụy diễn ra vào năm 543 đời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Trận Đồng Quan** (chữ Hán: 潼关之战, _Đồng Quan chi chiến_), thường gọi là **trận Tiểu Quan** (小关之战, _Tiểu Quan chi chiến_) là trận đánh diễn ra vào tháng 1 năm 537, có tính quyết định
**Vương Tư Chính** (chữ Hán: 王思政), không rõ năm sinh năm mất, người huyện Kì, Thái Nguyên , là tướng lĩnh nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời
**Uất Trì Huýnh** (tiếng Trung: 尉遲迥; ?- 580), tự **Bạc Cư La** (薄居羅), cháu gọi cậu của Vũ Văn Thái, là một tướng của các quốc gia do bộ lạc Tiên Ti lập ra là
**Ngụy Trung Hiền** (chữ Hán: 魏忠賢; 1568 - 16 tháng 10 năm 1627) là một trong những đại hoạn quan nổi tiếng nhất và nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Tào Ngụy** (曹魏) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa, kinh đô ở Lạc Dương. Tào Ngụy do Tào Tháo xây dựng tiền đề nhưng con trai Tào
**Ngụy thư** (chữ Hán giản thể: 魏书; phồn thể: 魏書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Ngụy Thâu, người Bắc
**Trận Sa Uyển** (chữ Hán: 沙苑之战, _Sa Uyển chi chiến_) là trận đánh diễn ra vào tháng 10 năm 537, giữa hai nước Đông Ngụy và Tây Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Lý Viễn** (chữ Hán: 李远, 507 – 557), tên tự là **Vạn Tuế**, sinh quán tại trấn Cao Bình, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều. Ông rất
**Ngụy Báo** (chữ Hán: 魏豹; ? – 204 TCN) là vua chư hầu thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia khởi nghĩa chống sự cai trị của nhà Tần và phục
**Ngụy Trưng** (, 580 - 11 tháng 2 năm 643), biểu tự **Huyền Thành** (玄成), là một nhà chính trị và sử học thời đầu thời nhà Đường. Xuất thân ở Hà Bắc trong một
**Dương Trung** (, 507 – 568), tên lúc nhỏ là **Nô Nô**, tướng lĩnh nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu, được con trai là Tùy Văn đế Dương Kiên truy tôn làm Hoàng đế, miếu
**Triệu Quý** (, ? – 557), tự **Phù Quý**, người Nam An, Thiên Thủy , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu, một trong "Bát Trụ Quốc" nhà Tây Ngụy,
nhỏ|phải|Ngụy Tấn Nam-Bắc triều **Ngụy-Tấn-Nam-Bắc triều** (魏晋南北朝), gọi đầy đủ là **Tam Quốc-Lưỡng Tấn-Nam-Bắc triều** (三國兩晋南北朝), là một thời kỳ về cơ bản là phân liệt trong lịch sử Trung Quốc. Thời kỳ này bắt