✨Tây Ngụy Văn Đế

Tây Ngụy Văn Đế

Tây Ngụy Văn Đế (西魏文帝) (507–551), tên húy là Nguyên Bảo Cự (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là Nam Dương vương, đã theo em họ Hiếu Vũ Đế chạy trốn từ kinh thành Lạc Dương đến Trường An sau khi Hiếu Vũ Đế bất hòa với tướng Cao Hoan. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Hiếu Vũ Đế và tướng Vũ Văn Thái (là người ông ta đang phải dựa vào) cũng đã sớm trở nên xấu đi, và khoảng tết năm 535, Vũ Văn Thái đã hạ độc giết chết Hiếu Vũ Đế, đưa Nguyên Bảo Cự lên ngôi (tức Văn Đế). Đến năm 534, Cao Hoan lập Nguyên Thiện Kiến làm hoàng đế (tức Hiếu Tĩnh Đế), do đó lập ra triều Đông Ngụy, Văn Đế vì thế được coi là hoàng đế đầu tiên của Tây Ngụy, Bắc Ngụy chính thức bị phân chia. Mối quan hệ giữa Văn Đế và Vũ Văn Thái có vẻ là thân mật, song Văn Đế không có nhiều quyền lực trên thực tế.

Bối cảnh

Nguyên Bảo Cự sinh năm 507. Cha của ông là Kinh Triệu vương Nguyên Du (元愉), Du là con trai của Hiếu Văn Đế và là em trai của Tuyên Vũ Đế (lúc đó đang cai trị). (Một số tư liệu lịch sử cho thấy rằng Lý thị ban đầu mang họ Dương, và chỉ được gọi là Lý thị sau khi Nguyên Du muốn bà là một thành viên của một gia đình danh giá nên đã cho một gia đình quý tộc họ Lý nhận bà làm con nuôi.) Mẹ ông là một thê thiếp của Nguyên Du và mang họ Dương. Nguyên Bảo Cự có ba người anh em khác, có ít nhất một người trong số họ là Nguyên Bảo Nguyệt (元寶月), do Lý thị sinh ra.

Nguyên Du sủng ái Lý thị và có quan hệ nguội lạnh với Vu vương phi, một chị/em gái của Tuyên Vũ Thuận hoàng hậu. Do đó, Vu Hoàng hậu từng triệu Lý thị vào cung và đánh đập bà rất nghiêm trọng, và sau đó buộc bà phải trở thành một ni cô. Chỉ sau khi có sự can thiệp của cha Hoàng hậu là Vu Kính (于勁) thì Lý thị mới được trở về bên Nguyên Du. Trong khi đó, năm 508, Nguyên Du đã bị Tuyên Vũ trừng phạt vì phạm tội tham nhũng. Ông bị đánh 50 roi và bị giáng làm thứ sử Ký Châu (冀州, nay là trung bộ Hà Bắc). Trong giận dữ, Nguyên Du đã nổi loạn tại đô phủ của Ký Châu là Tín Đô (信都, nay thuộc Hành Thủy, Hà Bắc), vu cáo rằng Cao Triệu (高肇, cữu của Tuyên Vũ Đế) đã sát hại hoàng đế và tự xưng đế. Cuộc nổi loạn của Nguyên Du đã nhanh chóng bị thất bại dưới tay tướng Lý Bình (李平), và khi giải Nguyên Du đến Lạc Dương, Cao Triệu đã giết chết Nguyên Du. Lúc này, Lý thị đang mang thai, và bà được phép sinh con trước khi bị giết. Tuyên Vũ Đế đã không xử tử bất kỳ người con trai nào của Nguyên Du, song đặt họ cùng với Nguyên Bảo Cự dưới sự quản thúc tại Tông Chính tự (宗正寺). Giả sử Lý thị và Dương thị là một người, điều này cũng có nghĩa rằng Nguyên Bảo Cự đã lớn lên mà không có cha mẹ. Ông và các huynh đệ của mình vẫn ở tại Tông Chính tự và chỉ được thả sau khi Tuyên Vũ Đế băng hà vào năm 515. Dưới thời trị vì của con trai Tuyên Vũ Đế, tức Hiếu Minh Đế, Hồ Thái hậu đã truy thụy cho Nguyên Du là Lâm Thao vương, và Nguyên Bảo Cự cùng các huynh đệ của mình được tiến hành thời kỳ tang lễ cho phụ mẫu của họ. Nguyên Bảo Nguyệt được thừa kế tước hiệu của cha, còn Nguyên Bảo Cự lúc này không có bất kỳ tước hiệu nào, song ông được phong tướng. Mặc dù Hồ Thái hậu đã phục tước cho Nguyên Du, tuy nhiên Nguyên Bảo Cự đã không gây được ấn tượng với Thái hậu, lý do chủ yếu là bởi các người tình của bà, Nguyên Bảo Cự vì thế đã bí mật cùng với Hiếu Minh Đế âm mưu sát hại những người tình của Hồ Thái hậu. Khi kế hoạch bị bại lộ, ông đã bị tước bỏ chức vụ. Năm 525, ông kết hôn với Ất Phất thị, con gái một gia đình quý tộc không quá danh giá. (Ngụy thư mô tả Nguyên Bảo Cử khi còn trẻ là phù phiếm, nghiện rượu, và dâm loạn, song những mô tả này rất đáng nghi ngờ vì Ngụy thư được Ngụy Thâu viết, mà Ngụy Thâu lại là một quan của Đông Ngụy, tức kình địch của Tây Ngụy.) Năm 528, Hiếu Minh Đế đã phong cho ông tước hầu, và đến năm 530, Hiếu Trang Đế lập ông là Nam Dương vương.

Năm 532, sau một vài năm nội chiến, tướng Cao Hoan đã giành chiến thắng và lập một em họ của Nguyên Bảo Cự là Bình Dương vương Nguyên Tu lên ngôi hoàng đế (tức Hiếu Văn Đế). Hiếu Văn Đế không bằng lòng về việc Cao Hoan nắm quyền kiểm soát quân sự nên đã liên minh với các tướng Vũ Văn Thái và Hạ Bạt Thắng nhằm chống lại quyền kiểm soát của Cao Hoan. Nguyên Bảo Cự phụng sự cho Hiếu Vũ Đế với vai trò là một vị tướng. Năm 534, Hiếu Vũ Đế lập kế hoạch hành động chống lại Cao Hoan, song Cao Hoan đã biết được kế hoạch và đã cho quân tiến về Lạc Dương. Hiếu Vũ Đế quyết định chạy đến lãnh địa của Vũ Văn Thái, và Nguyên Bảo Cự cũng tháp tùng em họ, họ đến Trường An và cuối năm 534. Đi cùng với Hiếu Vũ Đế là Nguyên Minh Nguyệt (元明月, em gái của Bảo Cự), bà có quan hệ loạn luân với Hiếu Vũ Đế. Vũ Văn Thái không chịu đựng được mối quan hệ trái đạo lý của Hiếu Vũ Đế với Nguyên Minh Nguyệt cùng hai người họ hàng khác, và ông ta cuối cùng đã giết chết Nguyên Minh Nguyệt. Hiếu Vũ Đế trở nên giận dữ và mối quan hệ giữa ông ta và Vũ Văn Thái trở nên xấu đi. Khoảng tết năm 535, Vũ Văn Thái hạ độc giết chết Hiếu Vũ Đế.

Ban đầu, Vũ Văn Thái đã sẵn sàng để lập cháu trai của Hiếu Vũ Đế là Quảng Bình vương Nguyên Tán (元贊) làm hoàng đế mới. Tuy nhiên, theo đề nghị của Bộc Dương vương Nguyên Thuận (元順) rằng Nguyên Tán còn quá trẻ, Vũ Văn Thái đã đổi ý và chọn Nguyên Bảo Cự, khi ấy 27 tuổi, lên ngôi hoàng đế (tức Văn Đế). Do Cao Hoan trước đó đã tuyên bố lập Nguyên Thiện Kiến làm hoàng đế, lãnh thổ do Cao Hoan quản lý trở thành nước Đông Ngụy, còn lãnh thổ do Vũ Văn Thái quản lý trở thành Tây Ngụy.

Trị vì

Vũ Văn Thái trên danh nghĩa làm theo ý của Văn Đế trong hầu hết các vấn đề, song quyền lực thực tế nằm trong tay Vũ Văn Thái. Trong suốt những năm đầu trị vì, có những nghi ngờ về việc liệu Tây Ngụy có thể tồn tại được hay không, do Đông Ngụy khi đó là một nhà nước lớn mạnh hơn nhiều, và Cao Hoan đã nhiều lần tiến hành chinh phạt Tây Ngụy. Tuy nhiên, với tài năng của Vũ Văn Thái cùng các tướng khác, Tây Ngụy đã có thể chống chịu được các cuộc tấn công của Cao Hoan.

Năm 535, Văn Đế truy thụy cho cha là Văn Cảnh Hoàng đế, và truy thụy cho Dương thị là Hoàng hậu. Ông lập chính thất làm hoàng hậu (Ất Phất hoàng hậu) và lập con trai của bà là Nguyên Khâm làm thái tử. Cuộc hôn nhân của ông với Ất Phất Hoàng hậu được thuật lại là đã diễn ra hạnh phúc, bà là người có đức hạnh và xinh đẹp, và Văn Đế rất tôn trọng bà. Hoàng hậu sinh cho ông 12 người con, song chỉ có Nguyên Khâm và Vũ Đô vương Nguyên Mậu (元戊) là còn sống đến tuổi trưởng thành.

Năm 538, Tây Ngụy bị đe dọa bởi cuộc tấn công của Nhu Nhiên, Vũ Văn Thái ban đầu đã cố gắng để làm giảm bớt căng thẳng bằng cách gả con gái của một thành viên trong hoàng tộc cho Uất Cửu Lư Tháp Hàn (郁久閭塔寒), em trai Sắc Liên Đầu Binh Đậu Phạt khả hãn Uất Cửu Lư A Na Côi của Nhu Nhiên, song sau đó lại cho rằng điều này vẫn chưa đủ, Vũ Văn Thái đã yêu cầu Văn Đế ly dị Ất Phất Hoàng hậu và lấy con gái của Uất Cử Lư A Na Côi. Văn Đế đồng ý, ông ly hôn với Ất Phất Hoàng hậu và bà trở thành một ni cô. Văn Đế sau đó kết hôn với con gái của khả hãn Nhu Nhiên và lập bà làm hoàng hậu. Điều này đã đem đến hòa bình với Nhu Nhiên trong một thời gian.

Cũng trong năm 538, Tây Ngụy tạm thời kiểm soát cố đô Lạc Dương của Bắc Ngụy, khi Lạc Dương bị tấn công, Văn Đế (muốn đến thăm lăng mộ tổ tiên tại Lạc Dương) và Vũ Văn Thái đã dẫn quân củng cố phòng thủ của Lạc Dương, để quan Chu Huệ Đạt (周惠達) và Thái tử ở lại Trường An. Tuy nhiên, khi giao chiến, Văn Đế cuối cùng lại bị mắc kẹt tại Hằng Nông (恆農, nay thuộc Tam Môn Hiệp, Hà Nam). Trong lúc đó, Trường An bị quân nổi loạn chiếm (quân nổi loạn là những cựu binh Đông Ngụy bị Tây Ngụy bắt giữ được trước đó) nên Chu Huệ Đạt và Thái tử cũng phải chạy trốn. Vũ Văn Thái cuối cùng đã có thể ngưng chiến sau khi từ bỏ Lạc Dương, ông đã đè bẹp cuộc nổi loạn, cho phép Văn Đế và Thái tử trở lại Trường An.

Mặc dù Ất Phất Hoàng hậu đã bị phế truất và trở thành một ni cô, Uất Cửu Lư Hoàng hậu vẫn không hài lòng về sự hiện diện của bà ở trong kinh thành. Do dó, năm 540, Văn Đế đã lệnh cho Nguyên Mậu nhậm chức thứ sử Tần Châu (秦州, nay gần tương ứng với Thiên Thủy, Cam Túc), và buộc phế hậu đi cùng con trai đến Tần Châu. Tuy nhiên, do vẫn hi vọng một ngày nào đó sẽ đón bà vào cung, ông đã bí mật bảo bà hãy giữ lại tóc thay vì cạo đi như những ni cô khác. Tuy nhiên, vào lúc này, Nhu Nhiên đã tiến hành một cuộc tấn công lớn vào Tây Ngụy, và nhiều bá quan nghĩ rằng cuộc tấn công nhân danh Uất Cửu Lư Hoàng hậu. Văn Đế đã buộc phải lệnh cho Uất Cửu Lư Hoàng hậu tự vẫn. Ngay sau đó, Uất Cửu Lư Hoàng hậu đã qua đời trong lúc sinh.

Năm 548, Vũ Văn Thái và Nguyên Khâm đang đi kinh lý các châu khi Văn Đế lâm bệnh, và khi họ hay tin, Vũ Văn Thái đã nhanh chóng trở về Lạc Dương, song Văn Đế đã phục hồi khi họ trở về.

Năm 549, Văn Đế ban hành một chiếu chỉ (có thể là theo yêu cầu của Vũ Văn Thái), lệnh rằng các những họ của người Tiên Ti đã cải sang họ Hán dưới thời Hiếu Văn Đế trị vì sẽ phải trở lại họ Tiên Ti gốc.

Năm 550, con trai của Cao Hoan là Cao Dương đã buộc Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế phải nhường ngôi cho ông ta, chấm dứt triều đại Đông Ngụy và mở ra triều đại Bắc Tề. Văn Đế do đó trở thành người duy nhất tuyên bố là kế thừa ngai vàng Bắc Ngụy. Vũ Văn Thái tuyên bố Bắc Tề là một nhà nước nổi loạn và đã mở một chiến dịch tấn công lớn, song Cao Dương đã chỉ huy một đội quân lớn chống lại cuộc tấn công, và Tây Ngụy không những không đạt được gì mà còn để mất một số châu cho Bắc Tề.

Năm 551, Văn Đế qua đời và được tổ chức tang lễ theo nghi lễ dành cho hoàng đế cùng với Uất Cửu Lư Hoàng hậu, mặc dù cuối cùng Ất Phất Hoàng hậu được cải táng chôn cùng ông. (Không rõ bà đã được phục vị hoàng hậu hay chưa.) Nguyên Khâm lên kế vị (tức Phế Đế).

Thông tin cá nhân

Cha: Kinh Triệu vương Nguyên Du (元愉) Mẹ: Dương thị Phối ngẫu: Ất Phất hoàng hậu Uất Cửu Lư hoàng hậu Hậu duệ: Con trai: **Phế Đế Nguyên Khâm (元欽) Tấn vương Nguyên Cẩn (元謹) Vũ Đô vương Nguyên Mậu (元戊) Cung Đế Nguyên Khuếch (拓跋廓) Lương vương Nguyên Kiệm (元儉) Triệu vương Nguyên Ninh (元寧) Yên vương Nguyên Nho (元儒) Ngô vương Nguyên Công (元公) *Nghi Đô vương Nguyên Thức (元式) *Con gái: An Lạc công chúa, lấy Vương Bật (王弼) Nghĩa Dương công chúa, lấy Đậu Chiếu (竇照) Tấn An công chúa, lấy Vũ Văn Giác (宇文覺) Kim Minh công chúa, lấy Uất Trì Huýnh (尉遲迥) công chúa, lấy Vũ Văn Chấn (宇文震)

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
**Uất Cửu Lư hoàng hậu** (chữ Hán: 郁久閭皇后, 525–540), thụy hiệu **Điệu hoàng hậu** (悼皇后) là hoàng hậu thứ hai của Tây Ngụy Văn Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Hoàng hậu Phụ thân
**Tây Ngụy Phế Đế** (西魏廢帝) (525-554), tên húy là **Nguyên Khâm** (元欽), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thậm chí còn có ít quyền lực thực
**Tây Ngụy Cung Đế** (西魏恭帝) (537–557), tên húy là **Nguyên Khuếch** (元廓), sau đổi thành **Thác Bạt Khuếch** (拓拔廓), là hoàng đế cuối cùng của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Vương Mậu** (chữ Hán: 王懋, ? – ?), tự **Tiểu Hưng**, người quận Lạc Lãng, tướng lãnh nhà Tây Ngụy. Ông là em họ bên ngoại (biểu đệ) của quyền thần Vũ Văn Thái. ##
**Vương Minh** (chữ Hán: 王盟, ? – 545), tự **Tử Ngỗ**, người quận Lạc Lãng, tướng lãnh nhà Tây Ngụy. Ông là cậu của Vũ Văn Thái – quyền thần nhà Tây Ngụy. ## Thân
**Ngụy Văn Đế** (_chữ Hán_:魏文帝) có thể là: ## Danh sách *Ngụy Văn Đế Tào Phi, Hoàng đế nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc *Ngụy Văn Đế Thác Bạt Sa Mạc Hãn (truy tôn, con
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
**Tây Lương Tuyên Đế** (chữ Hán: 西梁宣帝, 519–562), tên húy là **Tiêu Sát** (), tên tự **Lý Tôn** (理孫), là hoàng đế khai quốc của chính quyền Tây Lương thời Nam-Bắc triều trong lịch sử
**Ngụy Văn hầu** (chữ Hán: 魏文侯; trị vì: 403 TCN - 387 TCN hoặc 403 TCN-396 TCN), tên thật là **Ngụy Tư** (魏斯), là vị quân chủ khai quốc của nước Ngụy - chư hầu
**Tùy Văn Đế** (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu **Tùy Cao Tổ**, tên Hán là **Dương Kiên** (楊堅), tên Tiên Ti là **Fuluruqen** (普六茹堅, Phổ Lục Như
**Văn Đế** (chữ Hán: 文帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử khu vực Á Đông. ## Danh sách ### Trung Quốc # Thương Ân Vũ Chu Văn Đế (truy
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Bắc Ngụy Hiến Văn Đế** (chữ Hán: 北魏獻文帝; 454–476), tên húy là **Thác Bạt Hoằng** (), là hoàng đế thứ sáu của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 471, ông trở
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**Bắc Ngụy Văn Thành Đế** (chữ Hán: 北魏文成帝; 440–465), tên húy là **Thác Bạt Tuấn** (), là hoàng đế thứ năm của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông đăng cơ sau
**Vũ Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 宇文皇后) (? - 554?) là hoàng hậu của Tây Ngụy Phế Đế (西魏廢帝) Nguyên Khâm (元欽) trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân bà là Thượng
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Minh Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 明元皇后; ? - 263), họ Quách, là Hoàng hậu thứ hai của Tào Ngụy Minh Đế Tào Duệ, và là Hoàng thái hậu dưới thời Tào Ngụy Phế Đế
**Ngụy Văn Thà** (1943-1974) là một sĩ quan Chỉ huy của Hải quân Việt Nam Cộng hòa thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tá Hải quân. Chức vụ cuối cùng của
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Uất Trì Huýnh** (tiếng Trung: 尉遲迥; ?- 580), tự **Bạc Cư La** (薄居羅), cháu gọi cậu của Vũ Văn Thái, là một tướng của các quốc gia do bộ lạc Tiên Ti lập ra là
**Vương Tư Chính** (chữ Hán: 王思政), không rõ năm sinh năm mất, người huyện Kì, Thái Nguyên , là tướng lĩnh nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời
**Trận Mang Sơn** (chữ Hán: 邙山之战, _Mang Sơn chi chiến_), gọi đầy đủ là **trận Hà Kiều, Mang Sơn** (河桥,邙山之战, _Hà Kiều, Mang Sơn chi chiến_), thường gọi là **trận Hà Kiều**, diễn ra vào
**Vũ Văn Hộ** (, 513–572), biểu tự **Tát Bảo** (薩保), được phong tước **Tấn Quốc công** (晉國公), là một tông thân, đại thần nhiếp chính của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Vấn đề Kinh châu thời Tam Quốc** phản ánh những hoạt động quân sự, ngoại giao của những nước và thế lực quân phiệt liên quan tới địa bàn Kinh Châu thời Tam Quốc trong
**Đông Ngụy** (tiếng Trung: 東魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của Nhà nước Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ Bắc Trung Quốc từ năm 534 tới năm
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Lý Viễn** (chữ Hán: 李远, 507 – 557), tên tự là **Vạn Tuế**, sinh quán tại trấn Cao Bình, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều. Ông rất
**Bắc Chu Minh Đế** (北周明帝) (534–560), tên húy là **Vũ Văn Dục** (宇文毓), biệt danh **Thống Vạn Đột** (統萬突), là một vị hoàng đế của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Triệu Quý** (, ? – 557), tự **Phù Quý**, người Nam An, Thiên Thủy , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu, một trong "Bát Trụ Quốc" nhà Tây Ngụy,
**Dương Khoan** (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn,
**Tấn Vũ Đế** (chữ Hán: 晉武帝; 236 – 16 tháng 5, 290), tên thật là **Tư Mã Viêm** (司馬炎), biểu tự **An Thế** (安世), là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tấn trong lịch
**Tây Lương Minh Đế** (西梁明帝, 542 – 585), tên húy **Tiêu Khuy** (), tên tự **Nhân Viễn** (仁遠), là một hoàng đế của chính quyền Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Cũng như phụ
thumb|Cháy rừng ở tỉnh [[Mae Hong Son (tỉnh)|Mae Hong Son, tháng 3 năm 2010]] Tăng trưởng kinh tế đầy kịch tính của **Thái Lan** đã gây ra nhiều **vấn đề môi trường**. Đất nước này
**Vương Tử Trực** (chữ Hán: 王子直, ? – ?), tự **Hiếu Chánh**, người huyện Đỗ Lăng, quận Kinh Triệu , quan viên, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy cuối thời Nam bắc triều.
**Dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên** là một loạt các dự án khai thác mỏ bô xít ở khu vực Tây Nguyên, Việt Nam, giai đoạn 2008-hiện nay. Giai đoạn 2009-2015, dự án
**Lương Giản Văn Đế** (梁簡文帝, 503–551), tên húy **Tiêu Cương** (蕭綱), tên tự **Thế Toản** (世纘), tiểu tự **Lục Thông** (六通), là một hoàng đế của triều đại Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Độc Cô Tín** (chữ Hán: 独孤信, 503 hoặc 504 – 557), là tướng lãnh, một trong 8 Trụ quốc đại tướng quân của nhà Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là cha vợ
**Bắc Chu Hiếu Mẫn Đế** (chữ Hán: 北周孝閔帝) (542-557, tại vị: 557) là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Chu. ## Thân thế Ông nguyên tên là **Vũ Văn Giác** (), tên tự
**Trận Hà Tây** (chữ Hán: 河西之戰, Hán Việt: _Hà Tây chi chiến_) là trận chiến diễn ra vào thời Chiến Quốc, từ năm 419 TCN đến 408 TCN giữa nước Ngụy và nước Tần trong
**Triệu Túc** (chữ Hán: 赵肃, ? - ?), tự Khánh Ung, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy cuối thời Nam bắc triều. ## Thân thế Túc tự nhận có tổ tịch ở Lạc
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Nguyên Hồ Ma** (chữ Hán: 元胡摩) (? - 616) là chính thất của Bắc Chu Hiếu Mẫn Đế Vũ Văn Giác, hoàng đế Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc. Tuy là vợ hoàng đế
**Trần Văn Đế** (chữ Hán: 陳文帝; 522 – 566), tên húy là **Trần Thiến** (), tên tự **Tử Hoa** (子華), là một hoàng đế của triều đại Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung
2 sản phẩm có cùng thành phần Propolfenol, và chứa hàm lượng lớn các thảo dược tốt cho hệ hô hấp. Công dụng về cơ bản khá đồng , nên có thể bổ trợ tốt