Đông Ngụy (tiếng Trung: 東魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của Nhà nước Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ Bắc Trung Quốc từ năm 534 tới năm 550.
Năm 534, Cao Hoan (高歡), viên tướng chuyên quyền ở nửa đông của khu vực từng là lãnh thổ Bắc Ngụy sau sự tan rã của triều đại Bắc Ngụy đã dựng Nguyên Thiện Kiến, một hậu duệ Bắc Ngụy làm Hoàng đế của Đông Ngụy. Nguyên Thiện Kiến chỉ là ông vua bù nhìn do quyền lực thật sự nằm trong tay Cao Hoan. Một vài chiến dịch quân sự đã nổ ra để chống lại Nhà nước Tây Ngụy với mục đích tái thống nhất vùng lãnh thổ đã từng có thời thuộc Bắc Ngụy, nhưng đã không thành công, và năm 547, Cao Hoan chết. Các con trai ông là Cao Trừng (高澄) và Cao Dương (高洋) có đủ khả năng để theo đuổi các chính sách của ông trong việc kiểm soát Hoàng đế, và vào năm 550, Cao Dương đã phế truất Nguyên Thiện Kiến để lập ra triều đại của chính mình, sử gọi là nhà Bắc Tề.
Xây dựng kinh đô Nghiệp Thành
Năm 543, nhà Đông Ngụy cho đắp thêm Trường thành tại Sơn Tây dài 150 dặm. Nhà Đông Ngụy cho xây dựng mở mang Nghiệp Thành (trước đó được xây dựng quy mô bởi Tào Tháo thời Tam Quốc). Phần Nam Nghiệp Thành có diện tích 12 km2, từ đông sang tây 6 dặm, từ bắc xuống nam 8 dặm. Nhiều cung điện nguy nga như điện Thái Cơ, cung Triều Dương, vườn Hiến Đô được xây cất. Cao Hoan không chỉ cho xây dựng các cung điện mà còn cho chế tạo các con rối có thể chơi nhạc cụ. Về sau Cao Dương (Văn Tuyên Đế nhà Bắc Tề) huy động 30 vạn thợ thuyền xây 3 cung điện cao tới 27 thước.
Tuy nhiên sự huy hoàng của kinh đô này kéo dài không lâu, nó bị thiêu hủy năm 580 bởi những người chống đối lại sự tiếm quyền của Dương Kiên. Toàn bộ thành phố bị thiêu cháy và Nghiệp Thành biến mất không phục hồi được nữa.
Lãnh thổ
Đông Ngụy chiếm hữu đất đai tương đối rộng, bắc đến sa mạc, nam đến Giang Hoài, đông đến biển, tây đến Hoàng Hà và suốt vùng Lạc Dương, lân cận Tây Ngụy. Nhà Đông Ngụy có lãnh thổ lớn hơn và lực lượng quân đội đông hơn Tây Ngụy, với lợi thế đó, Cao Hoan cho tiến hành các cuộc tấn công vào Tây Ngụy song Tây Ngụy vẫn trụ vững.
Chính quyền họ Cao
Sau khi Hiếu Vũ Đế chạy sang Trường An thì tại Lạc Dương, Cao Hoan lập người con Thanh Hà Văn Tuyên Vương là Thanh Hà Vương Nguyên Thiện Kiến (524 – 552) làm vua, hiệu là Ngụy Hiếu Tĩnh Đế (534 – 552), vị vua duy nhất của triều Đông Ngụy, và dời đô sang Nghiệp Thành (Hàm Đan, Hà Bắc) vào năm 537 nhằm tránh xa biên giới Tây Ngụy.
Năm 537, quân Đông Ngụy chia làm 3 mũi tấn công Tây Ngụy nhưng thất bại, Tây Ngụy chiếm được vùng tây Hà Nam và đông nam Sơn Tây. Đông Ngụy cũng nhiều lần tấn công Tây Ngụy nhưng không thành công.
Năm 536, Cao Hoan đã đưa con mình Cao Trừng mới 14 tuổi lên làm Tể tướng, tham gia gánh vác việc triều chính.
Cao Hoan áp dụng một số biện pháp để khôi phục lại nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá. Thời kỳ đầu Đông Ngụy, đất đai bị kiêm tính hết sức nghiêm trọng. Cao Hoan ra lệnh chia lại ruộng đất cho một số lưu dân có đất canh tác, ra sức khai hoang, phát triển nông nghiệp, xây các kho lương thực để dự phòng chiến tranh và thiên tai tại các vùng. Nền kinh tế dần được khôi phục. Cao Hoan triệt tiêu cơ cấu của 30 châu, 153 quận, 589 huyện, cơ cấu tinh giản bộ máy.
Năm 541, nhà Đông Ngụy ban hành luật lệ, do được chỉnh lý tại điện Lân Chỉ nên gọi là Lân Chỉ cách.
Năm 547, Cao Hoan chết, các con Cao Hoan là Bột Hải Vương Cao Trừng (người đã tham gia triều chính từ năm 536) và Thái Nguyên Công Cao Dương (535 – 560) lên nắm quyền, củng cố lực lượng, đánh bại các bộ lạc du mục Moxi, Khiết Đan và Nhu Nhiên và kiểm soát vùng sông Hoài. Không giống như cha mình, Cao Dương đã cho áp dụng chế độ quân điền để củng cố nền kinh tế. Mùa xuân năm 549, Cao Trừng buộc Hiếu Tĩnh Đế phong cho mình tước Tề Vương và chức Tướng quốc. Mùa thu năm đó, Cao Trừng chuẩn bị phế truất ngôi vua thì bị đầu bếp Lan Kinh ám sát. Thái Nguyên Công Cao Dương từ Nghiệp Thành đã đem quân về ổn định tình hình, đem quân vào cung, đưa Hiếu Tĩnh Đế về Tấn Dương. Cao Dương ra lệnh giết 721 tôn thất Bắc Ngụy.
Mùa xuân năm 550, Cao Dương buộc Hiếu Tĩnh Đế phong mình làm Tề Vương, gia phong Cửu tích. Mùa hè năm 550, Cao Dương đưa Hiếu Tĩnh Đế trở lại Nghiệp Thành và sau đó đã phế truất Hiếu Tĩnh Đế để lên làm vua, hiệu là Văn Tuyên Đế, lập nên Bắc Tề vào năm 550. Hiếu Tĩnh Đế bị giáng làm Trung Sơn Vương, hai năm sau thì bị Văn Tuyên Đế cho người đánh thuốc độc giết chết và cho mai táng theo nghi lễ hoàng gia. Ít lâu sau, Văn Tuyên Đế lại cho quật mộ Hiếu Tĩnh Đế và thả quan tài xuống sông Chương. Nhà Đông Ngụy diệt vong.
Nghệ thuật, Phật giáo
Nghệ thuật Phật giáo của Đông Ngụy là sự kết hợp các ảnh hưởng của Phật giáo-Hy Lạp từ Gandhara và Trung Á (các kiểu thể hiện các nhân vật đang bay với vành hoa trên đầu, kiểu khắc xếp nếp của người Hy Lạp) với các ảnh hưởng nghệ thuật Trung Hoa.
Hoàng đế
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đông Ngụy** (tiếng Trung: 東魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của Nhà nước Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ Bắc Trung Quốc từ năm 534 tới năm
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
**Lưu Phong** (, ? – 549), tự Phong Sinh, người quận Phổ Nhạc , tướng lĩnh nhà Đông Ngụy. ## Cuộc đời Ông có phong thái hùng tráng, tính cách quả quyết hơn người, giỏi
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后) là hoàng hậu của Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế Nguyên Thiện Kiến, hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc
**Loạn Hầu Cảnh** (chữ Hán: 侯景之乱, Hầu Cảnh chi loạn) là cuộc nổi dậy của tướng lĩnh nhà Đông Ngụy là Hầu Cảnh chống lại quyền thần Cao Trừng diễn ra từ tháng 2 năm
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
thumb|upright=1.3|[[Chọn lọc tự nhiên đã thúc đẩy _Lagopus muta_ thay đổi từ ngụy trang tuyết vào mùa đông sang màu sắc gây nhiễu để phù hợp với đồng hoang vào mùa hè.]] thumb|upright|[[Nhân giống chọn
**Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏孝武帝; 510 – 3 tháng 2, 535), tên húy là **Nguyên Tu** (元脩 hay 元修), tên tự **Hiếu Tắc** (孝則), vào một số thời điểm được gọi là
**Vương Minh** (chữ Hán: 王盟, ? – 545), tự **Tử Ngỗ**, người quận Lạc Lãng, tướng lãnh nhà Tây Ngụy. Ông là cậu của Vũ Văn Thái – quyền thần nhà Tây Ngụy. ## Thân
**Tây Ngụy Phế Đế** (西魏廢帝) (525-554), tên húy là **Nguyên Khâm** (元欽), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thậm chí còn có ít quyền lực thực
**Vương Mậu** (chữ Hán: 王懋, ? – ?), tự **Tiểu Hưng**, người quận Lạc Lãng, tướng lãnh nhà Tây Ngụy. Ông là em họ bên ngoại (biểu đệ) của quyền thần Vũ Văn Thái. ##
Quảng Lăng Huệ vương **Nguyên Vũ** (chữ Hán: 元羽, 470 – 19/06/501 ), tự Thúc Phiên, hoàng tử nhà Bắc Ngụy. ## Khởi nghiệp Vũ là con trai thứ tư của Bắc Ngụy Hiến Văn
**Sơn Vĩ** (chữ Hán: 山伟, ? – ?), tự Trọng Tài, người dân tộc Tiên Ti, tịch quán ở Lạc Dương, Hà Nam, nguyên quán ở quận Đại (nay thuộc Sơn Tây), quan viên cuối
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, 432 – 502), tên tự là **Trọng Tông**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , quan viên nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Cao hoàng hậu** (chữ Hán: 高皇后, không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Hiếu Vũ Đế Nguyên Tu trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân của Cao Hoàng hậu
**Ngụy Thu** (chữ Hán: 魏収; bính âm: Wei Shou) (506 – 572), tự **Bá Khởi**, thụy là **Văn Trinh**, con trai của Thái học Bác sĩ Ngụy Tử Kiến, người Hạ Khúc Dương Cự Lộc
**Đông Nam Á** (tiếng Anh: **Southeast Asia**, viết tắt: **SEA**) là tiểu vùng địa lý phía đông nam của châu Á, bao gồm các khu vực phía nam của Trung Quốc, phía đông nam của
**Sơn Đông** () là một tỉnh ven biển phía đông Trung Quốc. Năm 2018, Sơn Đông là tỉnh đông thứ hai về số dân, đứng thứ ba về kinh tế Trung Quốc với 100,4 triệu
**Tây Ngụy Cung Đế** (西魏恭帝) (537–557), tên húy là **Nguyên Khuếch** (元廓), sau đổi thành **Thác Bạt Khuếch** (拓拔廓), là hoàng đế cuối cùng của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Phí Mục** (chữ Hán: 費穆, 477 – 529), tự Lãng Hưng, người quận Đại , tướng lãnh cuối đời nhà Bắc Ngụy. Ông có công tham gia trấn áp các lực lượng nổi dậy cuối
nhỏ|Hành động bị cấm ờ nhiều quốc gia - vừa lái xe vừa xem điện thoại nhỏ|thiết bị gác điện thoại để rảnh tay khi lái xe Sử dụng điện thoại di động trong khi
thumb|right|Máy bay tiêm kích [[F-15E Strike Eagles của Không quân Mỹ]] thumb|Động cơ phản lực không khí của một chiếc máy bay chở khách đang cất cánh, có thể thấy rõ luồng khí phụt phía
**Trí thông minh ở động vật** hay **trí khôn của động vật** phản ánh những hành vi của động vật được thực hiện một cách có ý thức, khôn khéo và lanh lợi. Theo tạp
**Ngụy** là một từ gốc Hán trong tiếng Việt có nhiều nghĩa tùy thuộc vào chữ Hán Nôm gốc, văn cảnh và từ ghép với nó. Nghĩa thường dùng là để chỉ sự vật, sự
_Kẻ bạc gian_ (Le Tricheur), họa phẩm của [[Georges de La Tour, trưng bày tại bảo tàng Louvre, Paris]] **Ngụy biện con bạc**, hay **ngụy biện của tay cá cược**, **ngụy biện Monte Carlo** hoặc
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Cao Ngao Tào** (chữ Hán: 高敖曹; 491-538), vốn tên húy là **Cao Ngang** (chữ Hán: 高昂), tên tự là **Ngao Tào**, nhưng thường được gọi bằng tên chữ, dân tộc Hán, người huyện Tu, Bột
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Ngụy Bác quân tiết độ sứ** hay **Thiên Hùng quân tiết độ sứ** (763 - 915), là một phiên trấn tồn tại dưới thời trung và hậu kì nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc,
nhỏ|phải|Ngụy quốc
([[triện thư, 220 TCN)]] **Ngụy** (Phồn thể: 魏國; Giản thể: 魏国) là một quốc gia chư hầu trong thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ của quốc gia này hiện
**Tào Ngụy** (曹魏) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa, kinh đô ở Lạc Dương. Tào Ngụy do Tào Tháo xây dựng tiền đề nhưng con trai Tào
**Ngụy thư** (chữ Hán giản thể: 魏书; phồn thể: 魏書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Ngụy Thâu, người Bắc
**Ngụy An Ly vương** (chữ Hán: 魏安釐王; trị vì: 277 TCN - 243 TCN), tên thật là **Ngụy Ngữ** (魏圉), là vị vua thứ sáu của nước Ngụy - chư hầu nhà Chu thời Chiến
**Trận Đồng Quan** (chữ Hán: 潼关之战, _Đồng Quan chi chiến_), thường gọi là **trận Tiểu Quan** (小关之战, _Tiểu Quan chi chiến_) là trận đánh diễn ra vào tháng 1 năm 537, có tính quyết định
**Trận Mang Sơn** (chữ Hán: 邙山之战, _Mang Sơn chi chiến_), gọi đầy đủ là **trận Hà Kiều, Mang Sơn** (河桥,邙山之战, _Hà Kiều, Mang Sơn chi chiến_), thường gọi là **trận Hà Kiều**, diễn ra vào
**Trận Mang Sơn** (chữ Hán: 邙山之战, _Mang Sơn chi chiến_) là trận đánh lớn thứ tư giữa hai nước Đông-Tây Ngụy diễn ra vào năm 543 đời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Ngụy Văn hầu** (chữ Hán: 魏文侯; trị vì: 403 TCN - 387 TCN hoặc 403 TCN-396 TCN), tên thật là **Ngụy Tư** (魏斯), là vị quân chủ khai quốc của nước Ngụy - chư hầu
nhỏ|phải|[[Hổ là loài vật ăn thịt người nhiều nhất trong họ nhà mèo.]] **Động vật ăn thịt người** dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một
nhỏ|phải|Thịt thú rừng bày bán ở chợ nhỏ|phải|Bày bán công khai [[cự đà tại chợ Jatinegara]] **Buôn bán động vật hoang dã trái phép** hay **buôn lậu động vật hoang dã** hoặc còn gọi là
Thuật ngữ **chất thải nguy hại** lần đầu tiên xuất hiện vào thập niên 70. Sau một thời gian nghiên cứu và phát triển, tùy thuộc vào sự phát triển khoa học kỹ thuật và
nhỏ|phải|[[Hổ, động vật được biết đến là đã tấn công người rùng rợn trong lịch sử]] **Động vật tấn công** hay đôi khi còn được gọi là **thú dữ tấn công** chỉ về các vụ
**Trận Ngọc Bích** (chữ Hán: 玉壁之战, _Ngọc Bích chi chiến_) là trận đánh diễn ra vào thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc, giữa hai nước Đông Ngụy và Tây Ngụy. Năm 546
nhỏ|phải|Một con [[bò tót đực với sắc lông đen tuyền bóng lưỡng và cơ thể vạm vỡ. Màu sắc và thể vóc của nó cho thấy sự cường tráng, sung mãn của cá thể này,