✨Dương Khoan (Bắc triều)

Dương Khoan (Bắc triều)

Dương Khoan (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn, lần lượt phục vụ cho các thế lực đối lập lẫn nhau, nhưng đều được tất cả các bên tin cậy, hậu đãi và trọng dụng, là trường hợp hiếm có trong lịch sử Trung Quốc.

Khởi nghiệp

Khoan là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông, là con trai thứ tư của Hoài Sóc trấn tướng, Lâm Trinh Cung bá Dương Quân. Khoan từ nhỏ có chí lớn, mỗi khi cùng bọn trẻ con vui chơi, luôn chọn thứ cao lớn mà ngồi lên, người trông thấy đều lấy làm lạ. Lớn lên, Khoan rất giỏi làm văn, càng ưa võ nghệ.

Đến tuổi đội mũ (nhược quán), Khoan được trừ chức Phụng triều thỉnh; theo cha ra trấn thủ Hằng Châu, xin được góp sức, nên được đổi thụ chức tướng quân, làm Cao Khuyết thú chủ. Bấy giờ người Nhu Nhiên phát sanh nội loạn, khả hãn A Na Côi chạy sang Bắc Ngụy, Hiếu Minh đế sai sứ tiếp nạp ông ta, giáng chiếu cho Dương Quân soái binh hộ tống. Khoan tham gia hộ tống, nhờ công được bái làm Hành đài lang trung. Vào lúc nghĩa quân Lục trấn vây đánh trấn thành, Quân mất, dân trong thành đề cử Khoan lãnh đạo. Ít lâu sau thành vỡ, Khoan chạy sang Nhu Nhiên ở phía bắc, đến khi khởi nghĩa bị trấn áp mới quay về triều.

Quảng Dương vương Nguyên Uyên cùng Khoan rất thân thiết, Uyên phạm pháp nên bị kết tội, ông cũng chịu liên lụy. Bấy giờ Trường Lạc vương Nguyên Tử Du làm Thị trung, là bạn cũ của Khoan, bèn giấu ông ở nhà, gặp dịp đại xá thì được miễn tội. Sau đó Khoan được trừ chức Tông chánh thừa.

Phụng sự Hiếu Trang đế

Bắc Hải vương Nguyên Hạo trẻ tuổi hăng hái, bấy giờ làm Đại hành đài, nhận lệnh đánh dẹp khởi nghĩa Cát Vinh, muốn tâu xin lấy Khoan làm Tả hữu thừa, cùng ông bàn bạc. Khoan từ chối, lấy cớ chịu hậu ơn của Nguyên Tử Du mà chưa báo đáp, về nghĩa không thể thấy lợi thì làm. Hạo chưa đồng ý, em rể của Hạo là Lý Thần Quỹ khuyên can, Hạo mới thôi. Đến khi Nguyên Tử Du được Nhĩ Chu Vinh đưa lên ngôi, tức là Hiếu Trang đế, lấy Khoan lĩnh chức Hà Nam doãn, Hành Lạc Dương lệnh.

Khoan làm đô đốc, theo Thái tể, Thượng Đảng vương Nguyên Thiên Mục đánh dẹp khởi nghĩa Hình Cảo, sau đó được làm Thông trực tán kỵ thường thị. Chưa kịp khải hoàn, bọn Khoan nghe tin Nguyên Hạo tiến vào Lạc Dương, Hiếu Trang đế chạy ra Hà Nội. Nguyên Thiên Mục sợ hãi, không biết làm sao, tập hợp chư tướng hỏi kế. Khoan đánh giá thấp lực lượng của Nguyên Hạo, khuyến khích Thiên Mục chiếm lấy Thành Cao, hội họp quân đội các nơi để cần vương. Thiên Mục lấy làm phải, bèn đưa quân đến Thành Cao, lệnh cho Khoan với Nhĩ Chu Năng làm hậu đội; nhưng Thiên Mục lại nghe theo mọi người, cho rằng không thể giữ được, bèn lùi lại Thạch Tế. Khoan đi đêm bị lạc đường, rơi lại phía sau. Chư tướng gièm rằng Khoan với Nguyên Hạo từng đi lại, hẳn là chạy theo hắn ta mất rồi. Thiên Mục không tin, vừa phản bác xong thì hậu đội báo tin Khoan đến nơi, Thiên Mục rất hài lòng, tự ra khỏi trướng để đón tiếp ông. Thiên Mục lập tức cấp cho Khoan 10 con bò, 5 cỗ xe, 15 xe bông lụa, 50 con dê. Khoan theo Thiên Mục yết kiến Hiếu Trang đế ở Thái Hành, được làm Tán kỵ thường thị, An đông tướng quân; vẫn làm Đô đốc, theo quân đội giành lại Hà Nội, tiến vây thành Bắc Trung.

Bấy giờ tướng nhà Lương là Trần Khánh Chi giúp Nguyên Hạo giữ cửa bắc, Thiên Mục dừng ngựa bên ngoài vòng vây, sai Khoan đến dưới thành thuyết phục ông ta. Khoan trước tiên tự xưng tên họ, sau đó cùng nói chuyện, trình bày lợi hại, khuyên Khánh Chi sớm hàng. Khánh Chi không đáp; hồi lâu, ông ta nói: “Anh trai của ngài ở đây, rất muốn gặp ngài.” Khoan đáp rằng: “Anh của kẻ hèn chịu khuất phục, đi theo nghịch Đảng, xét đạo lý của bề tôi, sao còn khó nhọc gặp gỡ!? Lúc trước xưng rõ tên họ, há chẳng biết anh trai ở bên ấy. Trực nhờ tín không bị ngờ, trung là mỹ đức vậy. Anh em của kẻ hèn, may không cần nói đến. Nhưng đang bàn về thỏa thuận, tự nhiên mong được nhiều tốt lành.” Thiên Mục nghe được, nói với tả hữu rằng: “Dương Khoan là đại dị nhân, sao đến mức không tiếc tình anh em như thế?” Từ ấy lại càng kính trọng ông.

Hiếu Trang đế giành lại Lạc Dương, Khoan được bái làm Trung quân tướng quân, Thái phủ khanh, Hoa Châu đại trung chánh, phong Trừng Thành huyện bá, thực ấp 300 hộ.

Hiếu Trang đế giết Nhĩ Chu Vinh, Nguyên Thiên Mục và đồng đảng; em họ của Vinh là Nhĩ Chu Thế Long đem bộ khúc đốt cửa thành, chạy ra Hà Kiều, rồi quay về uy hiếp kinh sư. Hiếu Trang đế thăng chức cho Khoan làm Trấn bắc tướng quân, Sứ trì tiết, Đại đô đốc, để ông tùy nghi kháng cự. Thế Long nói với Khoan rằng: “Há quên thâm tình tri ngộ của thái tể sao?” Khoan đáp rằng: “Thái tể yêu mến theo lễ, là giao tình của bề tôi với nhau vậy. Việc của hôm nay, phụng sự quân chủ là tiết tháo thông thường.” Thế Long bỏ chạy lên phía bắc, Khoan đuổi theo đến Hà Nội. Ít lâu sau, Nhĩ Chu Triệu chiếm Lạc Dương, cầm tù Hiếu Trang đế. Khoan thấy việc quay về Lạc Dương là nguy hiểm, bèn từ Thành Cao chạy sang nhà Lương. Đến Kiến Khang, Khoan nghe tin Triệu đã giết Hiếu Trang đế, bèn làm lễ cử ai. Lương Vũ đế cảm động, đãi Khoan rất hậu, ít lâu sau dùng lễ tiễn ông về Ngụy. Đến Hạ Bi, Khoan được Nhĩ Chu Trọng Viễn tâu xin cho khôi phục chức tước, giữ lại làm Đại hành đài Lại bộ thượng thư.

Phụng sự Hiếu Vũ đế

Đầu thời Hiếu Vũ đế, Khoan được đổi thụ chức Tán kỵ thường thị, Phiếu kị tướng quân, Cấp sự hoàng môn thị lang, Giám nội điển thư sự. Bấy giờ lính thú Hạ Châu nổi loạn, chiếm cứ Duyện Châu;triều đình giáng chiếu lấy Khoan làm Thị trung, chỉ huy các cánh quân đánh dẹp. Trung úy Kỳ Tuấn có hiềm khích với Khoan, vu cáo ông, khiến ông bị hặc; Hiếu Vũ đế biết Khoan vô tội, nhưng không thể không giao vụ án cho Đình úy; rồi Khoan được thả ra. Sau đó Khoan được trừ chức Hoàng môn thị lang, kiêm Vũ vệ tướng quân.

Hiếu Vũ đế muốn chống lại quyền thần Cao Hoan, bèn chiêu mộ dũng sĩ, tăng cường túc vệ; lấy Khoan làm Hợp nội đại đô đốc, chuyên nắm cấm binh. Sau đó Khoan theo Hiếu Vũ đế chạy vào Quan Trung, được kiêm Lại bộ thượng thư; xét công tòng giá, được tiến tước Hoa Sơn quận công, thực ấp 1200 hộ.

Thời Tây Ngụy

Năm Đại Thống đầu tiên (535) thời Tây Ngụy Văn đế, Khoan được thăng làm Xa kỵ đại tướng quân, Thái tử thái phó, Nghi đồng tam tư. Năm thứ 3 (537), Khoan đi sứ Nhu Nhiên, đón Úc Cửu Lư hoàng hậu. Sau khi trở về, Khoan được bái làm Thị trung, Đô đốc Kính Châu chư quân sự, Kính Châu thứ sử. Năm thứ 5 (539), Khoan được trừ chức Phiếu kỵ đại tương quân, Khai phủ nghi đồng tam tư, Đô đốc Đông Ung Châu chư quân sự, Đông Ung Châu thứ sử, châu này cũng là quê nhà của ông. Năm thứ 10 (544), Khoan được chuyển làm Hà Châu thứ sử. Năm thứ 16 (550), Khoan được kiêm Đại thừa tướng phủ Tư mã.

Triều đình Tây Ngụy muốn chiếm lấy quận Hán Xuyên, nhưng Nghi Phong hầu Tiêu Tuần nhà Lương cố thủ quận trị Nam Trịnh. Năm thứ 17 (551), Khoan theo Đại tướng quân Đạt Hề Vũ tiến đánh, Vũ Lăng vương Tiêu Kỷ nhà Lương sai tướng Dương Kiền Vận soái binh hơn vạn người đi cứu Tuần; Vũ lệnh cho Khoan chỉ huy bọn Khai phủ Vương Kiệt, Hạ Lan Nguyện Đức đón đánh. Quân Tây Ngụy đến Bạch Mã, giao chiến với Dương Kiền Vận, phá được, bắt và chém vài ngàn người. Sau khi trở về, Khoan được trừ chức Nam Bân Châu thứ sử.

Đầu thời Tây Ngụy Phế đế, Khoan được vào triều làm Thượng thư tả bộc xạ, Tương tác đại giám, sau đó bị kết tội (chưa rõ) nên chịu miễn quan. Năm thứ 2 thời Cung đế (555), Khoan được trừ chức Đình úy khanh.

Thời Bắc Chu

Đầu thời Bắc Chu Minh đế, Khoan được bái làm Đại tướng quân, tăng ấp 1200 hộ. Khoan theo Hạ Lan Tường trấn áp người Thổ Dục Hồn, phá địch, được riêng phong Nghi Dương huyện công, thực ấp 1000 hộ. Khoan được trừ chức Tiểu trủng tể, chuyển làm Ngự chánh trung đại phu. Năm Vũ Thành thứ 2 (560), Khoan nhận chiếu cùng Lân Chỉ học sĩ tham định kinh tịch.

Năm Bảo Định đầu tiên (561) thời Vũ đế, Khoan được trừ chức tổng quản Lương, Hưng đẳng 19 châu chư quân sự, Lương Châu thứ sử. Năm ấy, Khoan mất ở châu, được tặng Hoa, Thiểm, Ngu, Thượng, Lộ 5 châu thứ sử, thụy là Nguyên.

Đánh giá

Bắc sử cho biết Khoan tính thông minh, có tài năng; đứng đầu vài châu thì được tiếng thanh liêm; giữ chức trong triều thì được khen xứng chức. Nhưng Khoan với Liễu Khánh không hợp, tìm cách bới móc lỗi lầm của ông ta, nên bị người đương thời chê bai.

Chu thư đánh giá Khoan chịu hậu ân của Hiếu Trang đế, tuy không thể giúp đỡ trong lúc nguy nan, nhưng cũng không thay lòng.

Ngụy thư đánh giá Khoan (và anh trai Dương Kiệm) là khinh bạc vô hạnh (ý nói hai anh em nhiều lần đổi chủ), bị người đời khinh bỉ. (Ngụy thư là bộ sử do Ngụy Thâu của nhà Bắc Tề – địch quốc của Bắc Chu – biên soạn)

Hậu duệ

  • Dương Văn Ân, tự Ôn Tài, là con trai trưởng.
  • Dương Kỷ, tự Ôn Phạm, là con trai thứ nhưng lại là con trai đích, nên được kế tự.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Dương Khoan** (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn,
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
**Nạn đói tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên**, **Nạn đói tại Bắc Triều Tiên** (tiếng Triều Tiên: 조선기근) hay còn được gọi là **Hành quân gian khổ**, **Hành quân khổ nạn** (고난의
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Ấn Độ** và **Triều Tiên** có quan hệ ngoại giao và thương mại ngày càng phát triển. Ấn Độ duy trì một đại sứ quán ở Bình Nhưỡng và Triều Tiên có một đại sứ
nhỏ|Bến tàu số 2. Nampo, Bắc Triều Tiên. Một số quốc gia và các cơ quan quốc tế đã áp đặt các lệnh trừng phạt đối với Triều Tiên. Hiện tại, nhiều lệnh trừng phạt
**Đường sắt Bắc - Nam** hay **đường sắt Thống Nhất** là tuyến đường sắt bắt đầu từ thủ đô Hà Nội và kết thúc tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đường sắt Bắc - Nam
**Đào thoát khỏi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** là hiện tượng những người mang quốc tịch CHDCND Triều Tiên vượt biên khỏi quốc gia này để sang một quốc gia khác, thường
**Dương Quân** (chữ Hán: 杨钧, ? - 524), người Hoa Âm, Hoằng Nông , quan viên nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Quân là thành viên của sĩ tộc họ Dương ở quận Hoằng Nông.
**Quan hệ Trung Quốc- Triều Tiên** (, ) là quan hệ song phương giữa CHND Trung Hoa (PRC) và CHDCND Triều Tiên (DPRK). Trung Quốc và Triều Tiên trước đây có quan hệ ngoại giao
thumb|Người dân Triều Tiên viếng tượng [[Kim Nhật Thành (trái) và Kim Jong-il ở Đài tưởng niệm Mansu Hill Grand, Bình Nhưỡng.]] nhỏ|phải|Khải Hoàn môn Bình Nhưỡng **Văn hóa Bắc Triều Tiên** chỉ về nền
nhỏ|[[Donald Trump (phải) và Kim Jong-un gặp nhau tại Khách sạn Capella.]] **Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ-CHDCND Triều Tiên** là một cuộc họp giữa hai nhà lãnh đạo của hai nước là Hoa Kỳ
thumb|Du khách chụp ảnh với người dân Triều Tiên **Du lịch ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** được tổ chức bởi một trong số các cơ quan du lịch quốc doanh, bao
**Phan Nhạc/Lạc** (chữ Hán: 潘乐, ? – 555), tự Tương Quý, sinh quán ở huyện Thạch Môn, quận Quảng Ninh , tướng lãnh nhà Đông Ngụy, Bắc Tề. ## Thân thế Theo chính sử, Nhạc
**Hội nghị thượng đỉnh Triều Tiên–Hoa Kỳ tại Hà Nội 2019** (tên chính thức: **DPRK–USA Hanoi Summit Vietnam** theo tiếng Anh, hoặc **Hội nghị thượng đỉnh CHDCND Triều Tiên–Hoa Kỳ tại Hà Nội, Việt Nam**,
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Chu** (tiếng Trung: 北周) là một triều đại tiếp theo nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, có chủ quyền đối với miền Bắc Trung Quốc từ năm 557 tới năm
thumb|upright=1.4|Bán đảo Triều Tiên lúc đầu được chia theo vĩ tuyến 38, sau đó được chia theo đường phân chia ranh giới (DMZ). thumb|upright=1.4|Thông tin của DMZ Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Thế Chiến
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Tề** (tiếng Trung: 北齊; _Běiqí_) là một trong năm triều đại thuộc Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Triều đại này cai quản khu vực miền bắc Trung Quốc từ
**Khu phi quân sự Triều Tiên** (tiếng Anh: _Korean Demilitarized Zone_; tiếng Triều Tiên: 조선반도 비무장지대 (theo cách gọi của phía Triều Tiên) hay 한반도비무장지대 (theo cách gọi của phía Hàn Quốc), Hanja: 朝鮮半島非武裝地帶 _Triều
**Kinh tế Việt Nam thời Nam Bắc triều** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế trong thời Nam Bắc triều (1527-1592) trên lãnh thổ nước Đại Việt đương thời. Thời
**Dương Trung** (, 507 – 568), tên lúc nhỏ là **Nô Nô**, tướng lĩnh nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu, được con trai là Tùy Văn đế Dương Kiên truy tôn làm Hoàng đế, miếu
**Quốc kỳ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** () hay còn gọi là **Ramhongsaek Konghwagukgi** (; Hán- việt: _Lam hồng sắc Cộng hòa quốc kỳ_; Nhân cộng kỳ; nghĩa là "cờ màu xanh
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Bắc Ireland** (, ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ở đông bắc của đảo Ireland, giáp với Cộng hòa Ireland ở phía nam và phía tây.
**Biển Bắc** (hay **Bắc Hải**), trước Thế chiến I ở Mỹ còn gọi là Đại dương Đức (_German Ocean_), là một vùng biển ở đông bắc Đại Tây Dương. Biển Bắc giáp Na Uy và
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Bắc thuộc lần thứ ba** trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905 hoặc năm 939. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm
**Đông Triều** là một thành phố cũ nằm ở phía tây tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. ## Địa lý thumb|Ngã 4 Đông Triều|264x264px Thành phố Đông Triều nằm ở phía tây của tỉnh Quảng Ninh,
**Mùa bão Đại Tây Dương 2005** là mùa bão Đại Tây Dương hoạt động mạnh nhất trong lịch sử, cho đến khi kỷ lục này bị phá vỡ 15 năm sau vào năm 2020. Mùa
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
Vấn đề **nhân quyền tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** rất khó để đánh giá toàn diện vì nó bị xem là vấn đề bí mật và nhạy cảm ở quốc gia
**Vi Thúc Dụ** (chữ Hán: 韦叔裕, 509 – 580), tên tự là **Hiếu Khoan** (孝宽), người huyện Đỗ Lăng, quận Kinh Triệu , là tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Triệu Vân** (chữ Hán: 趙雲, bính âm: Zhào Yún; (169- 229), tự Tử Long,là danh tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là công thần
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Lý Cảnh** (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh **Từ Cảnh Thông** (徐景通), còn gọi là **Từ Cảnh** (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là **Bá
right|thumb|Diễu hành nhạc truyền thống ở Seoul. **Nhạc truyền thống Triều Tiên** bao gồm nhạc dân tộc, thanh nhạc, tôn giáo và phong cách âm nhạc nghi lễ của người Triều Tiên. Nhạc Triều Tiên,
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
**Dương Đại Nhãn** (chữ Hán: 杨大眼; ? - ?), là người dân tộc Đê (chữ Hán: 氐), danh tướng nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế ###
**Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư** hay còn gọi là **thời Minh thuộc** trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi đế quốc Minh đánh bại nhà Hồ-Đại Ngu và chấm
**Đường Vũ Tông** (chữ Hán: 唐武宗; 2 tháng 7 năm 814 - 22 tháng 4 năm 846 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 841 đến khi
**Bắc Chu Tĩnh Đế** (北周靜帝) (573–581), nguyên danh **Vũ Văn Diễn** (宇文衍), sau cải thành **Vũ Văn Xiển** (宇文闡), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
nhỏ|phải|Vị trí vùng Bắc Trung Bộ trên bản đồ Việt Nam **Bắc Trung Bộ** là phần phía bắc của Trung Bộ Việt Nam từ Thanh Hóa tới phía bắc Đèo Hải Vân. Vùng Bắc Trung
Miền Bắc Việt Nam **Miền Bắc Việt Nam** là một khái niệm để chỉ vùng địa lý ở phía bắc nước Việt Nam. Tuy nhiên, tùy theo từng thời điểm lịch sử và thói quen