✨Mùa bão Đại Tây Dương 2005
Mùa bão Đại Tây Dương 2005 là mùa bão Đại Tây Dương hoạt động mạnh nhất trong lịch sử, cho đến khi kỷ lục này bị phá vỡ 15 năm sau vào năm 2020. Mùa bão này đã phá vỡ nhiều kỷ lục vào thời điểm đó, với 28 cơn bão nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới được ghi nhận. Trung tâm Bão Quốc gia Hoa Kỳ đã đặt tên cho 27 cơn bão, làm cạn kiệt danh sách được chỉ định trước hàng năm và dẫn đến việc sử dụng sáu tên chữ cái Hy Lạp, đồng thời xác định thêm một cơn bão không tên trong quá trình phân tích lại sau mùa. Có tổng cộng 15 cơn bão đạt được cấp độ "hurricane" (bão cuồng phong), với sức gió duy trì tối đa ít nhất 64 kt (119 km/h); trong số đó, có 7 cơn bão trở thành "major hurricane" (bão cuồng phong lớn), là cấp 3 hoặc cao hơn trên thang Saffir – Simpson. Số lượng "hurricane" và "major hurricane" trong mùa 2005 đạt mức kỉ lục. Bốn cơn bão của mùa này trở thành bão cấp 5, cấp cao nhất trong thang đo.
Tác động của mùa bão là rất rộng và nghiêm trọng. Các cơn bão của trong mùa bão gây ra 3.468 người chết và thiệt hại kinh tế khoảng 171,7 tỷ USD. Đó là mùa gây ra thiệt hại cao nhất được ghi nhận vào thời điểm đó, cho đến khi kỷ lục của nó bị vượt qua 12 năm sau đó . Nó cũng tạo ra chỉ số năng lượng xoáy thuận tích lũy (ACE) cao thứ hai trong lưu vực Đại Tây Dương, chỉ thấp hơn mùa bão 1933. Mùa bão chính thức bắt đầu vào ngày 1 tháng 6 năm 2005, và cơn bão đầu tiên Arlene, phát triển vào ngày 8 tháng 6. Bão Dennis vào tháng 7 đã gây thiệt hại nặng nề cho Cuba. Bão Stan vào tháng 10 là một phần của hình thế thời tiết rộng lớn hơn đã giết chết 1.668 người và gây thiệt hại 3,96 tỷ đô la cho miền Đông Mexico và Trung Mỹ, với Guatemala bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Cơn bão cuối cùng là Zeta, hình thành vào cuối tháng 12 và tan vào ngày 6 tháng 1 năm 2006.
Bốn cơn bão cấp 5 đã phát triển trong mùa là: Emily, Katrina, Rita và Wilma. Vào tháng 7, cơn bão Emily đạt cường độ cao nhất ở vùng biển Caribe, trở thành cơn bão cấp 5 đầu tiên trong mùa, sau đó suy yếu và tấn công Mexico hai lần. Vào tháng 8, Katrina đạt cực đại ở vịnh Mexico sau đó suy yếu và nó tấn công các bang Louisiana và Mississippi của Hoa Kỳ. Những tác động tàn khốc nhất trong mùa đã được ghi nhận ở Bờ Vịnh của Hoa Kỳ, nơi triều cường của bão Katrina làm tê liệt New Orleans, Louisiana trong nhiều tuần và tàn phá đường bờ biển Mississippi. Katrina trở thành cơn bão lớn nhất của Hoa Kỳ, gây thiệt hại 125 tỷ đô la và khiến ít nhất 1392 người chết. Rita theo sau vào tháng 9, đạt cường độ cao nhất ở vịnh Mexico trước khi suy yếu và tấn công gần biên giới Texas và Louisiana. Cơn bão mạnh nhất trong mùa là Wilma, đã trở thành cơn bão Đại Tây Dương có áp suất trung tâm tối thiểu thấp nhất. Wilma kéo dài 10 ngày trong tháng 10, di chuyển qua Cozumel, bán đảo Yucatán và Florida, gây thiệt hại 19 tỷ USD và 48 người chết.
Lưu ý là do Nam Đại Tây Dương (vùng phía Nam xích đạo của Đại Tây Dương) có rất ít xoáy thuận nhiệt đới, phạm vi của bài này là khu vực Bắc Đại Tây Dương (khu vực Đại Tây Dương, phía Bắc xích đạo). Trong bài viết này, thang bão được sử dụng là thang bão Saffir–Simpson, ngoài ra đối với số liệu gió quan trắc, gió mạnh trung bình đo từ 2 phút trở lên và gió giật sẽ được đối chiếu với thang sức gió Beaufort. Những cái tên không bị loại khỏi danh sách này đã được sử dụng lại trong mùa 2011. Những cái tên Franklin, Lee, Maria, Nate, Ophelia, Philippe, Rita, Stan, Tammy, Vince và Wilma từ danh sách thông thường được sử dụng lần đầu tiên (và những cái tên Rita, Stan và Wilma chỉ được sử dụng 1 lần) vào thời điểm năm nay, cũng như danh sách phụ trợ các tên chữ cái Hy Lạp của Alpha , Beta , Gamma , Delta , Epsilon và Zeta . Mùa bão năm 2005 là mùa bão Đại Tây Dương đầu tiên có tên bão bắt đầu bằng 'V' và 'W'. Ngoài ra, khi danh sách 21 tên bão được Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) phê duyệt trước cho mùa bão đã hết, năm 2005 trở thành năm 2005 đầu tiên phải sử dụng tên dự phòng.
Khai tử tên bão
Sau khi mùa bão kết thúc, Ủy ban Bão của WMO đã loại bỏ 5 cái tên: Dennis, Katrina, Rita, Stan và Wilma và thay thế chúng bằng Don, Katia, Rina, Sean và Whitney và những cái tên này không bao giờ được sử dụng lần nữa.
Đã có cuộc thảo luận đáng kể về việc sử dụng bảng chữ cái Hy Lạp. Ủy ban đồng ý rằng việc sử dụng bảng chữ cái Hy Lạp có "tác động quan trọng về chính trị, kinh tế và xã hội trên toàn cầu, điều này có thể đã không xảy ra nếu sử dụng danh sách tên thứ cấp khác hoặc sử dụng tên theo vòng tròn",
Diễn biến mùa bão
DateFormat = dd/mm/yyyy Period = from:01/06/2005 till:31/01/2006 TimeAxis = orientation:horizontal ScaleMinor = grid:black unit:month increment:1 start:01/06/2005
Colors = id:canvas value:gray(0.88) id:GP value:red id:TD value:rgb(0.38,0.73,1) legend:TropicalDepression=_<39mph(0–62km/h)(TD) id:TS value:rgb(0,0.98,0.96) legend:TropicalStorm=_39–73mph(63–117km/h)(TS) id:C1 value:rgb(1,1,0.80) legend:Category1=_74–95mph(118–153km/h)(C1) id:C2 value:rgb(1,0.91,0.46) legend:Category2=_96–110mph(154–177km/h)(C2) id:C3 value:rgb(1,0.76,0.25) legend:Category3=_111–130mph(178–209km/h)(C3) id:C4 value:rgb(1,0.56,0.13) legend:Category4=_131–155mph(210–249km/h)(C4) id:C5 value:rgb(1,0.38,0.38) legend:Category5=_≥156mph(≥250km/h)(C5)
Backgroundcolors = canvas:canvas
BarData = barset:Hurricane bar:Month
PlotData=
barset:Hurricane width:10 align:left fontsize:S shift:(4,-4) anchor:till
from:08/06/2005 till:13/06/2005 color:TS text:"Arlene (TS)"
from:28/06/2005 till:30/06/2005 color:TS text:"Bret (TS)"
from:03/07/2005 till:07/07/2005 color:C1 text:"Cindy (C1)"
from:04/07/2005 till:13/07/2005 color:C4 text:"Dennis (C4)"
from:10/07/2005 till:21/07/2005 color:C5 text:"Emily (C5)"
from:21/07/2005 till:29/07/2005 color:TS text:"Franklin (TS)"
from:23/07/2005 till:25/07/2005 color:TS text:"Gert (TS)"
from:02/08/2005 till:08/08/2005 color:TS text:"Harvey (TS)"
from:04/08/2005 till:18/08/2005 color:C2 text:"Irene (C2)"
from:13/08/2005 till:14/08/2005 color:TD text:"Ten (TD)"
from:22/08/2005 till:23/08/2005 color:TS text:"Jose (TS)"
barset:break
from:23/08/2005 till:31/08/2005 color:C5 text:"Katrina (C5)"
from:28/08/2005 till:29/08/2005 color:TD
barset:break
barset:skip
from:31/08/2005 till:02/09/2005 color:TS text:"Lee (TS)"
from:01/09/2005 till:10/09/2005 color:C3 text:"Maria (C3)"
from:05/09/2005 till:10/09/2005 color:C1 text:"Nate (C1)"
from:06/09/2005 till:17/09/2005 color:C1 text:"Ophelia (C1)"
from:17/09/2005 till:23/09/2005 color:C1 text:"Philippe (C1)"
from:17/09/2005 till:26/09/2005 color:C5 text:"Rita (C5)"
from:30/09/2005 till:02/10/2005 color:TD text:"Nineteen (TD)"
from:01/10/2005 till:05/10/2005 color:C1 text:"Stan (C1)"
from:04/10/2005 till:05/10/2005 color:TS text:"Unnamed (SS)"
from:05/10/2005 till:06/10/2005 color:TS text:"Tammy (TS)"
barset:break
from:08/10/2005 till:10/10/2005 color:TD text:"Twenty-two (SD)"
from:08/10/2005 till:11/10/2005 color:C1 text:"Vince (C1)"
from:15/10/2005 till:25/10/2005 color:C5 text:"Wilma (C5)"
from:22/10/2005 till:24/10/2005 color:TS text:"Alpha (TS)"
from:26/10/2005 till:31/10/2005 color:C3 text:"Beta (C3)"
from:14/11/2005 till:16/11/2005 color:TS text:
barset:break
barset:skip
barset:skip
barset:skip
barset:skip
barset:skip
from:18/11/2005 till:22/11/2005 color:TS text:"Gamma (TS)"
from:22/11/2005 till:28/11/2005 color:TS text:"Delta (TS)"
from:29/11/2005 till:08/12/2005 color:C1 text:"Epsilon (C1)"
from:30/12/2005 till:06/01/2006 color:TS text:"Zeta (TS)"
barset:skip
bar:Month width:5 align:center fontsize:S shift:(0,-20) anchor:middle color:canvas from:01/06/2005 till:01/07/2005 text:June from:01/07/2005 till:01/08/2005 text:July from:01/08/2005 till:01/09/2005 text:August from:01/09/2005 till:01/10/2005 text:September from:01/10/2005 till:01/11/2005 text:October from:01/11/2005 till:01/12/2005 text:November from:01/12/2005 till:31/12/2005 text:December from:01/01/2006 till:31/01/2006 text:January 2006
TextData = pos:(570,30) text:"(From the" pos:(617,30) text:"Saffir–Simpson hurricane wind scale)"
Tháng sáu và Tháng bảy
Vào ngày 8 tháng 6, Bão Arlene hình thành ở phía Tây Caribe, đi qua Cuba trước khi đổ bộ vào Florida Panhandle vào ngày 11 tháng 6. Arlene chỉ gây ra thiệt hại vừa phải. Một người bơi lội đã bị cuốn vào vùng nước xoáy do bão gây ra và chết đuối ở bãi biển Miami, Florida.
Bão Bret cường độ yếu hình thành ở Vịnh Campeche vào ngày 28 tháng 6 và đổ bộ vào Veracruz vào sáng hôm sau. Cơn bão đã làm hư hại hàng trăm ngôi nhà và gây lũ lụt khiến 2 người thiệt mạng.
Bão Cindy hình thành ở Vịnh Mexico vào ngày 4 tháng 7. Ban đầu được cho là một cơn bão nhiệt đới, Cindy đổ bộ vào Louisiana vào ngày 5 tháng 7. Trên vùng biển ven bờ và vùng ven biển đã có gió mạnh (từ 2 phút quan trắc trở lên) phổ biến cấp 7-9, một số địa điểm có gió cấp 10-12, gió giật mạnh có nơi cấp 13-14 (quy ra thang BF), đây là 1 phần nguyên nhân dẫn đến việc đánh giá lại cường độ bão. nhỏ|Bão Dennis đổ bộ vào Hoa Kì Vào ngày 5 tháng 7, bão Dennis hình thành ở phía đông Caribe; nó đi qua Grenada trước khi mạnh lên thành bão cấp 4, trở thành bão mạnh nhất tháng 7 ở khu vực đóvvào thời điểm nó đang hoạt động với sức gió duy trì mạnh nhất đạt 240 km/h và áp suất thấp nhất 930 hPa. Dennis quét qua Cuba , sau đó đổ bộ lần cuối vào Florida Panhandle. Bão Dennis đã gây ra lũ lụt và lở đất trên diện rộng ở Haiti, khiến ít nhất 56 người thiệt mạng và gây thiệt hại 50 triệu USD. Một người chết ở Jamaica và thiệt hại ước tính khoảng 31,7 triệu USD. Tại Cuba, bão Dennis gây ra gió mạnh cấp 17 (theo thang BF) cơn bão gây mưa cao kỉ lục trên đảo kể từ bão Flora năm 1963. Trên khắp Cuba, Dennis đã làm chết 16 người và gây ra thiệt hại 1,4 tỷ USD, ảnh hưởng đến nông nghiệp, khu du lịch, cơ sở hạ tầng và nhà ở. Dennis di chuyển đến bờ biển Florida gần nơi cơn bão Ivan đổ bộ 10 tháng trước đó. Thiệt hại do bão Dennis ở Hoa Kỳ lên tới 2,545 tỷ USD và có 15 người chết ở nước này. trái|nhỏ|Bão Emily khi đổ bộ vào Mexico lần đầu tiên. Ngay sau đó, bão Emily hình thành trên Đại Tây Dương vào ngày 11 tháng 7. Nó đi vào biển Caribe và nhanh chóng mạnh lên thành bão cấp 4, phá kỷ lục của Dennis về sức mạnh của bão trong tháng 7, áp suất trung tâm cơn bão khi đạt cực đại là 929 hPa. Emily sau đó nhanh chóng đạt đến cường độ cấp 5-cơn bão cấp 5 sớm nhất từng được ghi nhận ở Đại Tây Dương. Emily đổ bộ vào bán đảo Yucatán với sức gió tương đương bão cấp 4. Sau đó bão đổ bộ vào Tamaulipas với sức mạnh bão cấp 3. Emily đã khiến 14 người tử vong. Thiệt hại ước tính khoảng 400 triệu USD (2005 USD).
Bão Franklin hình thành ngoài khơi Bahamas vào ngày 18 tháng 7. Cơn bão di chuyển theo hướng đông bắc và trở thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương của Canada, bão không gây ra ảnh hưởng đáng kể đến đất liền.
Bão nhiệt đới yếu có tên Gert hình thành vào ngày 23 tháng 7. Gert đổ bộ vào Veracruz gần nơi Emily đã đổ bộ vài ngày trước đó. Khoảng 1.000 người đã được sơ tán vì lo ngại lũ lụt, nhưng không có thiệt hại hay trường hợp tử vong nào được báo cáo.
Tháng tám
Giống như tháng 7, hoạt động của bão và áp thấp nhiệt đới trong tháng 8 bắt đầu khá sớm: Bão nhiệt đới Harvey hình thành ở phía tây nam Bermuda vào ngày 3 tháng 8. Harvey gây mưa trên Bermuda khi nó di chuyển về phía đông bắc; bão trở thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới vào ngày 8 tháng 8 trên vùng biển Đại Tây Dương.
Áp thấp nhiệt đới là tiền thân bão Irene hình thành ở phía tây Quần đảo Cape Verde vào ngày 4 tháng 8. Hình thế này di chuyển về phía tây và phía bắc và đạt cường độ bão cuồng phong vào ngày 15 tháng 8. Irene chuyển hướng về phía đông bắc và nhanh chóng mạnh lên thành bão cấp trước khi suy yếu và bị xoáy thuận ngoại nhiệt đới lớn hơn hấp thụ vào ngày 18 tháng 8. Một bé trai gần Long Beach, New York tử vong do dòng chảy xa bờ.
Áp thấp nhiệt đới thứ 10 hình thành ở phía đông Tiểu Antilles vào ngày 13 tháng 8. Áp thấp tan vào ngày hôm sau. Tàn dư của nó sớm được sáp nhập với một hệ thống khác và trở thành bão cơn bão Katrina. nhỏ|Vòng lặp hình ảnh radar bão Katrina đổ bộ vào 29 tháng 8 Bão Jose hình thành ở vịnh Campeche vào ngày 22 tháng 8. Bão bắt đầu trải qua quá trình tăng cường nhanh chóng nhưng nó cũng nhanh chóng tiến đến bờ biển và đổ bộ vào bang Veracruz của Mexico vào ngày 23 tháng 8, ngăn cản việc mạnh thêm đáng kể, do đó cường độ của bão chỉ ở mức vừa phải. Có 25.000 người phải sơ tán khỏi nhà ở Veracruz, 11 người chết tại Veracruz, 5 người chết ở bang Oaxaca. trái|nhỏ|In Katrina's Wake – một đoạn phim ngắn của NASA Bão Katrina hình thành vào giữa tháng 8 trên Bahamas. Nó trở thành bão nhiệt đới vào ngày 24 tháng 8 và đạt cường độ bão cuồng phong trước khi đổ bộ vào miền nam Florida ở mức bão cuồng phong cấp 1. Cơn bão đi vào Vịnh Mexico và mạnh lên nhanh chóng thành bão cấp 5 khi đi qua nơi có dòng biển ấm vào ngày 28 tháng 8. Katrina đổ bộ lúc 06:00 CST ngày 29 tháng 8 với sức gió tương đương cơn bão bão cấp 3. Khi đổ bộ kích thước của bão rất lớn. Nước dâng do bão đã gây ra thiệt hại thảm khốc dọc theo bờ biển Louisiana, Mississippi và Alabama. Tại New Orleans (thành phố của Louisiana), nước dâng do bão đã làm vỡ đê, làm ngập lụt khoảng 80% diện tích thành phố. Thiệt hại do gió được báo cáo ở những nơi nằm sâu trong đất liền, cản trở nỗ lực cứu hộ. Ước tính bão gây ra thiệt hại từ 97,4 đến 147,5 tỷ USD (2005 USD).
Một vùng áp thấp khác hình thành từ một làn sóng nhiệt đới bắt nguồn vào ngày 24 tháng 8 ở ngoài khơi bở biển châu Phi. Vùng áp thấp mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới khi hệ thống khoảng giữa quần đảo Tiểu Antille
Tháng chín
nhỏ|Bão Ophelia đang ảnh hưởng đến [[North Carolina]] Bão Maria hình thành vào ngày 1 tháng 9, khi hình thành nó là áp thấp nhiệt đới ở vùng biển giữa quốc đảo Cabo Verde và nhóm đảo Tiểu Antilles. Bão di chuyển về vùng biển phía Bắc hơn so với vị trí hình thành, Maria đạt cực đại là bão cấp 3 vào ngày 5 tháng 9, sau đó suy yếu trước khi trở thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới vào ngày 10 tháng 9, cơn bão ngoại nhiệt đới này mạnh lên khi nó di chuyển về phía Iceland. Cơn bão ngoại nhiệt đới đã tấn công Na Uy, gây ra trận lở đất ở Bergen khiến 3 người thiệt mạng và 7 người khác bị thương.
Bão Nate hình thành ở phía tây nam Bermuda vào ngày 5 tháng 9 và di chuyển về phía đông bắc. Lúc bão đạt đến cường độ cực đại, bão tương đương với bão cuối cấp 1. Nate trở thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới vào ngày 10 tháng 9. Cơn bão chưa bao giờ tiếp cận đất liền, mặc dù vậy bão đã gây trở ngại cho các tàu hải quân Canada trên đường đến bờ biển Vịnh Mehico để hỗ trợ các nỗ lực khắc phục hậu quả do bão Katrina gây ra và dòng chảy xa bờ do bão Nate và Maria gây ra làm một người ở New Jersey tử vong và làm một người khác bị tổn hại nghiêm trọng về sức khỏe.
Bão Ophelia hình thành từ một áp thấp nhiệt đới ở Bahamas vào ngày 6 tháng 9 và áp thấp nhiệt đới đó đổ bộ vào Grand Bahama ngay sau khi hình thành. Nó trở thành một cơn bão nhiệt đới ở vùng biển ngoài khơi bờ biển Florida trước khi mạnh lên thành bão cuối cấp 1 và tiếp cận bờ biển phía Nam North Carolina gây gió lớn và nước dâng do bão vào ngày 12 và 13 tháng 9. Mắt bão không bao giờ di chuyển vào đất liền, bão di chuyển ra xa bờ biển phía Đông Hoa Kỳ và bão trở thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới vào ngày 17 tháng 9 và quét qua Canada. Do ảnh hưởng của bão, vùng bờ biển; vùng biển ven bờ; các đảo, bán đảo ven bờ đã có gió mạnh (2 phút duy trì trở lên) ghi nhận là cấp 10-11 giật cấp 12-13 (thang BF) và lượng mưa ghi nhận có nơi gần 300 mm. Bão khiến 3 người chết và tổng thiệt hại ước tính khoảng 70 triệu USD (2005 USD). trái|nhỏ|Bão Rita đạt cực đại Bão Philippe hình thành ở phía Đông quần đảo Leeward vào ngày 17 tháng 9. Nó di chuyển về phía bắc, đạt cường độ cấp 1 trước khi suy yếu và tan vào ngày 23 tháng 9. Philippe đã mang gió giật và hơi ẩm đến Bermuda. Ảnh hưởng của bão nói chung không đáng kể.
Một áp thấp nhiệt đới trên Quần đảo Turks và Caicos hình thành vào ngày 18 tháng 9 và mạnh lên thành bão với tên là Rita. Cơn bão đạt cường độ cấp 2 khi nó di chuyển về phía nam Florida Keys vào ngày 20 tháng 9. Sự tăng cường độ nhanh chóng xảy ra sau đó khi Rita di chuyển vào Vịnh Mexico và Rita trở thành cơn bão cấp 5 vào ngày 21 tháng 9, trở thành cơn bão mạnh thứ ba từng được ghi nhận ở khu vực Đại Tây Dương vào thời điểm đó (hiện nay là thứ tư). Rita đổ bộ gần biên giới Texas- Louisiana vào ngày 24 tháng 9. Lũ lụt lớn được báo cáo ở Port Arthur và Beaumont, Texas, trong khi các giáo xứ Cameron và Calcasieu ở Louisiana bị tàn phá. Các giàn khoan dầu ngoài khơi trên đường đi của Rita cũng bị thiệt hại đáng kể. 120 người đã thiệt mạng do ảnh hưởng của Rita, chỉ có 7 trường hợp là do ảnh hưởng trực tiếp và tổng thiệt hại do cơn bão gây ra ước tính khoảng 18,5 tỷ USD (2005 USD).
Một áp thấp nhiệt đới hình thành vào ngày 30 tháng 9, không thể mạnh lên thành bão nhiệt đới và tan vào ngày 2 tháng 10. Áp thấp nhiệt đới không gây ra ảnh hưởng đáng chú ý.
Tháng mười
nhỏ|[[Hurricane Stan|Bão Stan ngay sau khi đổ bộ vào Veracruz]] Bão Stan là cơn bão đầu tiên trong tháng 10, mạnh lên thành bão nhiệt đới vào ngày 2 tháng 10 ngay trước khi đi qua bán đảo Yucatán. Tại Vịnh Campeche , Stan đạt cường độ bão cấp 1 trước khi đổ bộ vào phía nam Veracruz vào ngày 4 tháng 10. Bão Stan và tàn dư của bão là một phần nguyên nhân gây mưa lớn, gây ra lượng mưa xối xả, dẫn đến lũ lụt và sạt lở đất thảm khốc ở miền nam Mexico và miền Trung châu Mỹ. Hơn 1.500 người chết, đại đa số do lũ lụt và sạt lở đất gây ra, trong đó khoảng 80 người là do bão Stan trực tiếp gây ra. Thiệt hại do bão lên tới 1,2 tỷ USD (2005).
Một cơn bão cận nhiệt đới (tạm gọi là "bão cận nhiệt đới Azores") không có tên tên ban đầu không được NHC chú ý. Trong quá trình phân tích sau mùa giải, NHC xác định đó là một cơn bão cận nhiệt đới. Cơn bão cận nhiệt đới tồn tại trong thời gian ngắn này hình thành vào ngày 4 tháng 10 ở phía nam Azores và bị áp thấp ngoại nhiệt đới hấp thụ vào ngày hôm sau, áp thấp đó sau này trở thành bão Vince. Trong toàn bộ quá trình ảnh hưởng, bão đã gây ra gió mạnh cấp 8-9 giật cấp 10 (thang BF).
Bão nhiệt đới Tammy tồn tại một thời gian ngắn trước khi đổ bộ vào vùng đông bắc Florida vào ngày 5 tháng 10. Tammy đã gây mưa lớn trên các vùng phía Đông Nam Hoa Kỳ trước khi được hợp nhất với một hệ thống front mà sau này đã gây ra lũ lụt ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2005 khiến 10 nguòi chết.
Áp thấp cận nhiệt đới 22 hình thành ở phía đông nam Bermuda vào ngày 8 tháng 10. Nó chuyển thành áp thấp phi nhiệt đới vào ngày hôm sau. Tàn dư của nó cùng với bão Tammy đã di chuyển đến New England và cũng góp phần gây ra lũ lụt ở Đông Bắc Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2005.
Bão Wilma hình thành vào ngày 17 tháng 10 ở vùng Tây Caribe, phía Tây Nam Jamaica và nhanh chóng mạnh lên. Vào ngày 19 tháng 10, nó trở thành xoáy thuận nhiệt đới mạnh nhất được ghi nhận ở khu vực Đại Tây Dương theo tiêu chí áp suất trung tâm tối thiểu, với sức gió duy trì 160 kt (295 km/h) và áp suất trung tâm là 882 hPa (26,0 inHg). Sau đó nó di chuyển chậm và ảnh hưởng trực tiếp đến Quintana Roo vào ngày 22 tháng 10, đổ bộ với sức gió tương đương bão cấp 4, gây thiệt hại rất nặng nề cho Cancún và Cozumel. Tương tự, sau khi đi vào Vịnh Mexico, Wilma đổi hướng và đi qua phía bắc Cuba trước khi tấn công miền nam Florida vào ngày 24 với cường độ bão cấp 3, sau đó di chuyển vào Đại Tây Dương và trở thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới. Wilma khiến 52 người chết, trong đó 23 người là do bão trực tiếp; tổng thiệt hại ước tính khoảng 22,4 tỷ USD (2005 USD), chủ yếu ở Hoa Kỳ, Mexico và Cuba.
Bão Alpha hình thành ở phía Đông Caribe vào ngày 22 tháng 10 và quét qua Hispaniola, gây ra lũ lụt lớn trước khi bị sáp nhập bởi bão Wilma. Tổng cộng có 26 người được cho là đã chết vì cơn bão ở Haiti và Cộng hòa Dominica.
Bão Beta hình thành ở phía Nam vùng biển Caribe vào ngày 26 tháng 10 và mạnh lên thành bão cấp 3 trước khi đổ bộ vào các đảo San Andrés & Providencia của Colombia và Nicaragua vào ngày 30 tháng 10. Bão Beta đã gây ra 9 trường hợp tử vong và thiệt hại hơn 15,5 triệu USD ở 4 quốc gia.
Từ tháng mười một đến hết năm
Giai đoạn cuối năm, tần suất các cơn bão nhìn chung giảm, nhưng vẫn có 4 cơn bão hình thành. nhỏ|[[Hurricane Epsilon|Bão Epsilon nhìn từ Trạm Vũ trụ Quốc tế]] Bão nhiệt đới Gamma ban đầu hình thành vào ngày 15 tháng 11 ở miền trung Caribe, bão suy yếu thành vùng nhiễu động dạng sóng nhiệt đới, sau đó mạnh trở lại thành bão vào ngày 18 tháng 11. Mặc dù cơn bão tan vào ngày 20 tháng 11 sau khi đổ bộ vào miền bắc Honduras, lượng mưa từ Gamma gây lũ lụt đã khiến 39 người chết.
Bão nhiệt đới Delta hình thành ở phía đông Đại Tây Dương vào ngày 23 tháng 11; nó tiệm cận nhưng chưa bao giờ có sức gió tương đương bão cuồng phong. Delta đã trở thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới vào ngày 28 tháng 11 ngay trước khi ảnh hưởng đến Quần đảo Canary.
Bão Epsilon hình thành như một cơn bão nhiệt đới vào ngày 29 tháng 11 trong môi trường tương đối bất lợi cho sự hình thành xoáy thuận nhiệt đới ở giữa Đại Tây Dương. Nó đạt đến cường độ bão cuồng phong vào ngày 2 tháng 12 và bất chấp dự báo khi tồn tại hơn một tuần trước khi tan. Không có báo cáo nào về ảnh hưởng của bão.
Bão nhiệt đới Zeta trở thành cơn bão cuối cùng của mùa khi nó hình thành vào ngày 30 tháng 12, chỉ còn sáu giờ nữa phá kỷ lục của Bão Alice năm 1954 là cơn bão hình thành muộn nhất được đặt tên trong một mùa. Zeta tan vào ngày 6 tháng 1 năm 2006, trở thành cơn bão nhiệt đới tháng Giêng tồn tại lâu nhất trong lịch sử khu vực Đại Tây Dương.
== Những cơn bão đáng chú ý nhất Sau đó nó di chuyển vào vùng biển Đại Tây Dương vào ngày 29 tháng 6 và di chuyển nhanh theo hướng Tây. Bão đổi hướng, di chuyển theo hướng Tây Tây Bắc, hệ thống mạnh lên thành bão nhiệt đới vào ngày 5 tháng 7 và đạt sức gió tương đương bão cuồng phong vào ngày hôm sau. sau đó Dennis di chuyển vào vịnh Mexico vào ngày 9 tháng 7, nó nhanh chóng được tổ chức lại do điều kiện thuận lợi cho bão. Bão đạt cường độ cấp 4 lần thứ ba vào ngày 10 tháng 7 khi nó tiếp cận Florida, đạt áp suất khí quyển thấp nhất là 930 mbar (hPa; 27,46 inHg ). Sự suy yếu xảy ra sau đó khi cơn bão tiếp cận Florida Panhandle, cơn bão đổ bộ vào đảo Santa Rosa vào ngày 10 tháng 7, khi đó nó là bão cấp 3. Sự suy yếu tiếp tục diễn ra khi xoáy thuận di chuyển sâu hơn vào đất liền và cơn bão nhanh chóng trở thành áp thấp phi nhiệt đới. Tuy nhiên, hoàn lưu còn sót lại của Dennis vẫn còn, đi qua thung lũng Sông Mississippi và thung lũng Sông Ohio trước khi tan biến tại Ontario (Canda) vào ngày 18 tháng 7. Thiệt hại tài sản trên diện rộng xảy ra với 929 ngôi nhà bị phá hủy và 3.058 ngôi nhà khác bị hư hại, khiến 1.500 gia đình mất nhà cửa. Lượng mưa lớn đổ xuống khắp đất nước, với lượng lên tới , khiến Dennis trở thành cơn bão gây mưa lớn nhất trên đảo kể từ bão Flora năm 1963.
Sau khi càn quét qua Cuba, bão đổ bộ vào Florida với cường độ bão cấp 3. Trên đất liền có nơi ghi nhận gió cấp 14 giật cấp 16 (thang BF). Thiệt hại do bão ở Hoa Kỳ lên tới 2,545 tỷ USD và có 15 người chết ở nước này. và do đó thuận lợi hơn cho sự phát triển của bão. Cuối ngày 13 tháng 7, Emily mạnh lên nhanh chóng và đạt cường độ bão cuồng phong khi đi qua phía bắc Tobago và đi vào phía đông Caribe. Vào ngày 14 tháng 7, Emily đổ bộ vào miền bắc Grenada với sức gió 75 kt (140 km/h). Lượng mưa lớn từ Emily ảnh hưởng đến Haiti, khiến 5 người thiệt mạng. Ở Honduras, một người đàn ông chết đuối trên dòng sông dâng cao do mưa từ Emily. Tại Mexico, gió mạnh nhất có thể ghi nhận là tại San Fernando, với gió duy trì trong 2 phút quan trắc được chỉ 102 km/h, gió giật khoảng 156 km/h (gió cấp 10-11 giật cấp 14 thang BF). Điều này là do bão có phạm vi gió mạnh khá hẹp khi đổ bộ, chứ không phải là do bão yếu. Hai phi công trực thăng đã thiệt mạng khi máy bay của họ bị rơi khi đang sơ tán các giàn khoan dầu ngoài khơi do Pemex điều hành. Một người đàn ông ở Playa del Carmen bị điện giật tử vong khi đang chuẩn bị ứng phó với cơn bão.
Bão Katrina
Lịch sử khí tượng
Bão Katrina phát triển từ áp thấp nhiệt đới 12L trên vùng Đông Nam Bahamas vào ngày 23 tháng 8 năm 2005, kết quả từ sự tương tác giữa một sóng đông và những tàn dư của áp thấp nhiệt đới Ten. Hệ thống dần mạnh lên thành bão nhiệt đới Katrina vào sáng sớm ngày 24 tháng 8. Cơn bão di chuyển hướng đến Florida, và đạt cấp độ bão cuồng phong chỉ hai giờ trước khi nó đổ bộ vào địa điểm giữa Hallandale Beach và Aventura trong sáng sớm ngày 25 tháng 8. Katrina suy yếu trên đất liền, nhưng đã mạnh trở lại thành bão cuồng phong chỉ một giờ sau khi đi vào vịnh Mexico, và nó tiếp tục mạnh thêm trên vùng nước ngoài khơi. Vào ngày 27 tháng 8, Katrina đạt cấp độ 3 trong thang bão Saffir-Simpson, trở thành cơn bão lớn thứ ba của mùa bão. Sau đó, một chu trình thay thế thành mắt bão làm gián đoạn quá trình tăng cường độ, nhưng đã giúp cơn bão tăng kích thước lên gần gấp đôi.nhỏ|Đường đi bão Katrina phiên bản màu cũ Trong sáng sớm ngày 28 tháng 8 Katrina mạnh lên thành bão cấp 5 và đạt đỉnh vào thời điểm 18.00 UTC cùng ngày, với vận tốc gió duy trì liên tục trong một phút tối đa 150 kt (280 km/h) và áp suất trung tâm tối thiểu 902 mbar (26,6 inHg). Trị số áp suất đo được này giúp Katrina trở thành cơn bão Đại Tây Dương mạnh thứ tư từng được ghi nhận trong lịch sử vào thời điểm đó; đồng thời là cơn bão mạnh nhất từng ghi nhận được trên vịnh Mexico. Tuy nhiên, vị trí thứ 4 đã bị bão Rita và bão Wilma đẩy xuống thứ 6 trong thời gian sau của mùa bão; và kỷ lục bão mạnh nhất trên vịnh Mexico cũng bị phá vỡ bởi Rita. Cơn bão đã để lại thiệt hại thảm khốc trên khắp miền nam Louisiana, với hơn 300.000 ngôi nhà bị hư hại hoặc phá hủy; hầu hết trong số này đều ở Giáo xứ Orleans. Tại New Orleans, nước dâng do bão đã làm vỡ đê dọc theo Đường thủy Nội địa Vùng vịnh và các kênh đào trên Phố 17 và Đại lộ London (không phải là thủ đô London của Anh), làm ngập lụt khoảng 80% diện tích thành phố. Một phần của thành phố vẫn ở dưới nước trong 43 ngày. Katrina cũng gây ra một đợt bùng phát gồm 62 cơn lốc xoáy trên khắp 8 bang ở miền đông Hoa Kỳ. và là cơn bão nguy hiểm nhất ở Mỹ kể từ năm 1928. Katrina buộc khoảng 800.000 người phải di dời tạm thời, đây là số lượng người phải di dời lớn nhất trong cả nước kể từ sự kiện Dust Bowl (Thập niên 30 Dơ bẩn).
Thống kê thiệt hại
Các thống kê về số người chết và thiệt hại vật chất do bão Katrina rất khác nhau, với các báo cáo khác nhau lên tới hàng trăm người, các nguồn tin rất hỗn loạn. Dựa trên báo cáo cũ của Trung tâm Bão Quốc gia và một số báo cáo khác thì 1.836 trường hợp tử vong có thể là do cơn bão: 1 ở Kentucky , 2 ở Alabama, Georgia và Ohio, 14 ở Florida, 238 ở Mississippi và 1.577 ở Louisiana, ngoài ra 135 người vẫn được phân loại là mất tích ở Louisiana, và nhiều trường hợp tử vong là gián tiếp, nhưng hầu như không thể xác định nguyên nhân chính xác của một số trường hợp tử vong và thiệt hại vật chất khoảng 125 tỷ USD. Tuy nhiên, bản báo cáo cập nhật ngày 4 tháng 1 năm 2023 của NHC đã hạ số người chết xuống chỉ còn 1.392, trong khi thiệt hại vật chật chất được cập nhật cho rằng 90% khả năng nằm trong khoảng từ 97,4-145,5 tỷ USD (2005).
Sau cơn bão
Thiệt hại lớn nhất về nhân mạng trong bão Katrina là do lũ lụt do sai sót kỹ thuật trong hệ thống phòng chống lũ lụt, đặc biệt là hệ thống đê ven biển xung quanh New Orleans, khiến hơn 80% thành phố bị ngập lụt, hàng chục nghìn người không sơ tán khỏi thành phố không thể tiếp cận nước, thực phẩm và các nhu cầu cơ bản khác, và làm nhiều người chết do nước dâng. Sau cơn bão, nhiều cuộc điều tra đã kết luận rằng Công binh Lục quân Hoa Kỳ, cơ quan đã thiết kế và xây dựng các con đê trong khu vực từ nhiều thập kỷ trước, là nguyên nhân gây ra sự cố của hệ thống kiểm soát lũ lụt. Tuy nhiên, các tòa án liên bang sau đó đã ra phán quyết rằng Quân đoàn không thể chịu trách nhiệm về tài chính do quyền miễn tố trong Đạo luật Kiểm soát Lũ lụt năm 1928.
Cơ quan Quản lý Tình huống Khẩn cấp Liên bang (FEMA) phải đối mặt với những lời chỉ trích về thời gian ứng phó , thiếu sự phối hợp với các cơ quan nhà nước, thiếu nguồn cung và không đủ nhà ở cho nhân viên liên bang. Nhiều quan chức chính phủ khác phải đối mặt với những lời chỉ trích vì phản ứng của họ, đặc biệt là Thị trưởng New Orleans Ray Nagin, Thống đốc Louisiana Kathleen Blanco và Tổng thống George W. Bush . Tuy nhiên, một số cơ quan, chẳng hạn như Tuần duyên Hoa Kỳ (USCG), Trung tâm Bão Quốc gia (NHC) và Cơ quan Thời tiết Quốc gia (NWS), đã được khen ngợi vì hành động của họ, trong đó NHC được đặc biệt khen ngợi vì dự báo bão tương đối chính xác.
Bão Rita
Lịch sử khí tượng
Vào giữa tháng 9, một rãnh thời thiết còn sót lại từ một front tĩnh ở phía bắc Quần đảo Leeward. Một làn sóng nhiệt đới tương tác với front này, dẫn đến sự hình thành áp thấp nhiệt đới gần Quần đảo Turks và Caicos vào ngày 18 tháng 9. Trong điều kiện nhìn chung thuận lợi cho sự phát triển, áp thấp nhanh chóng mạnh lên và đạt cường độ bão nhiệt đới vào lúc 18:00 UTC ngày hôm đó dựa trên dữ liệu từ chuyến bay của máy bay trinh sát, các tàu lân cận và phao quan trắc thời tiết. Kết quả là cơn bão nhiệt đới được đặt tên là Rita. Tuy nhiên, gió đứt theo phương thẳng đứng vừa phải ở phía nam do xoáy lạnh ở tầng trên gần đó đã tiếp tục tăng cường và làm lệch đám mây đối lưu ở phía Bắc so với tâm hoàn lưu (có thể hiểu là tâm bão). Khi xoáy lạnh ở tầng trên suy yếu, trung tâm hoàn lưu của Rita được cải thiện, bù đắp cho sự vô tổ chức của đám mây do gió đứt. Do đó, cơn bão nhiệt đới tiếp tục xu hướng mạnh lên trước đó khi nó di chuyển về phía tây qua Bahamas dọc theo vùng ngoại vi phía nam của một rìa áp cao. Khi tiến vào eo biển Florida vào ngày 20 tháng 9, Rita đã mạnh lên thành bão cấp 1 lúc 12:00 UTC. Sáu giờ sau, Rita mạnh lên thành bão cấp 2 khi bão ở phía nam Key West (thuộc Florida), điều kiện môi trường thuận lợi do dòng phân kì thuận lợi và nhiệt độ bề mặt nước biển ấm bất thường, xu hướng mạnh lên tiếp tục diễn ra, và Rita đã mạnh lên thành bão cấp 3 khi đi vào Vịnh Mexico lúc 06:00 UTC vào ngày 21 tháng 9. Các điều kiện thuận lợi cho phép bão mạnh thêm và vào lúc 03:00 UTC ngày 22 tháng 9, Rita đạt cường độ cực đại với sức gió duy trì tối đa 155 kt (285 km/giờ) và áp suất khí quyển tối thiểu là 895 mbar (hPa; 26,43 inHg), khiến nó trở thành cơn bão nhiệt đới mạnh nhất từng được ghi nhận ở Vịnh Mexico. Vào thời điểm đó, nó nằm cách đồng bằng sông Mississippi 310 mi (500 km) về phía nam. Rita duy trì cường độ bão cấp 5 trong 18 giờ trước khi chu kỳ thay thế mắt bão diễn ra, khiến bão suy yếu xuống thành bão cấp 4 vào lúc 18:00 UTC vào ngày 22 tháng 9. Cùng lúc đó, xoáy thuận nhiệt đới bắt đầu di chuyển theo hướng tây bắc xung quanh vùng ngoại vi phía Tây Nam của vùng áp cao ở Đông Nam Hoa Kỳ. Kết quả của chu kỳ này là một thành mắt mới lớn hơn được củng cố, và trường gió của Rita mở rộng. Do gió đứt và nhiệt độ vùng nước thềm lục địa thấp hơn nên cơn bão tiếp tục suy yếu. Rita suy yếu xuống thành bão cấp 3 trước khi đổ bộ vào lúc 07:40 UTC ngày 24 tháng 9 ở vùng cực tây nam Louisiana giữa Johnson Bayou và Đèo Sabine. Vào thời điểm đổ bộ, Rita là cơn bão cấp 3 với sức gió 100 kt (185 km/h) và áp suất khí quyển là 937 mbar (hPa; 27,67 inHg). Bão đã suy yếu thành cường độ bão nhiệt đới (cơn bão dưới cấp 1) gần 12 giờ sau khi đổ bộ vào đất liền. Bão tiếp tục tiến về phía Bắc gần như di chuyển song song với biên giới tiểu bang giữa Louisiana và Texas, bão suy yếu thành áp thấp nhiệt đới khi nó đi qua Arkansas vào lúc 06:00 UTC vào ngày 25 tháng 9. Sau khi suy yếu thành áp thấp nhiệt đới, bão bắt đổi hướng di chuyển hướng theo hướng Đông Bắc và bắt đầu di chuyển gần một front thời tiết đang đến gần ở phía trên. Đầu ngày hôm sau, áp thấp mất phần lớn đối lưu trên vùng Đông Nam bang Illinois và suy yếu thành vùng thấp có hoàn lưu còn sót lại vào lúc 06:00 UTC ngày hôm đó. Front phía trước sau đó đã hấp thụ hình thế còn lại sáu giờ sau trên vùng phía Nam Ngũ Đại Hồ. Trong thời gian đầu Rita phát triển, Rita đã gây ngập lụt cho các ngôi nhà ở phía bắc Cuba và Florida Keys. Việc Rita ảnh hưởng đến bờ biển Hoa Kỳ đã tạo ra một trong những cuộc di tản hàng loạt lớn nhất trong lịch sử Hoa Kì, với ước tính khoảng 3,7 triệu người sơ tán khỏi bờ biển Texas giữa Corpus Christi và Beaumont. Một phần do nhiệt độ cao trước khi Rita đổ bộ và người già dễ bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ quá cao, ít nhất 80 người đã chết trong cuộc di tản hàng loạt; một vụ cháy xe trên đường đến Dallas đã cướp đi sinh mạng của 23 người. Rita đã khiến nước dâng cao 15 foot (4,6 m) tàn phá các khu vực của Giáo xứ Cameron ở Louisiana, phá hủy hầu hết các công trình kiến trúc ở các thị trấn như Cameron và bãi biển Holly. Nước dâng do bão cũng làm hư hại nhiều ngôi nhà ở Quận Jefferson liền kề ở Texas.Tại New Orleans, Rita gây thêm lũ lụt và tràn đê đã được sửa chữa sau cơn bão Katrina một tháng trước đó. Tác động từ lượng mưa lớn, gió giật và lốc xoáy liên quan đến Rita đã ảnh hưởng đến phần lớn vùng hạ lưu Thung lũng sông Mississippi và hơn một triệu khách hàng sử dụng điện bị mất điện. Cơ quan Quản lý Tình huống Khẩn cấp Liên bang (FEMA) đã cấp hơn 1,3 tỷ USD cho Louisiana để hỗ trợ các nỗ lực phục hồi; 668,8 triệu USD đã được phân bổ dưới hình thức trợ cấp hỗ trợ công cho các biện pháp phục hồi ban đầu và 523,5 triệu USD đã được gửi đến các cá nhân như một phần của Chương trình Cá nhân và Hộ gia đình của FEMA. Hơn 1 tỷ USD tiền hỗ trợ liên bang cũng đã được giải ngân cho Texas. Chương trình Khắc phục Thảm họa của Khối Phát triển Cộng đồng Texas đã hỗ trợ 1,85 triệu người bên cạnh việc hỗ trợ sửa chữa cơ sở hạ tầng trong dài hạn.
Bão Stan
Lịch sử khí tượng
nhỏ|Đường đi bão Stan năm 2005 Bão Stan hình thành từ một sóng nhiệt đới được Trung tâm Bão Quốc gia (NHC) xác định lần đầu tiên ngoài khơi bờ biển phía tây châu Phi vào ngày 17 tháng 9 năm 2005. Sóng này tiến vào vùng biển Caribe vài ngày sau đó, một khu vực có điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển xoáy thuận. Đối lưu không liên tục hình thành xung quanh sóng khi nó di chuyển theo hướng Tây Tây Bắc. Khoảng gần 1 ngày sau, áp thấp tiếp tục mạnh lên thành bão nhiệt đới, với tên quốc tế là Stan, NHC thực hiện nâng cấp dựa trên sự phát triển của một dải đối lưu mạnh ở phía Đông Nam tâm bão. Qua một đêm, cấu trúc của Stan được cải thiện nhanh chóng, với đặc điểm thành mắt phát triển bên trong vùng đối lưu sâu bất thường với nhiệt độ trên đỉnh đám mây là −90 °C (−130 °F) qua ảnh vệ tinh hồng ngoại. Sau diễn biến này, Trung tâm Bão Quốc gia đã nâng cấp cơn bão lên bão cấp 1 trên thang bão Saffir–Simpson . Vào khoảng 12:00 UTC ngày 4 tháng 10, Stan đổ bộ gần Punta Roca Partida với sức gió 70 kt (130 km/h). Cơn bão cũng đạt áp suất khí quyển trung tâm thấp nhất là 977 mb (hPa; 28,85 inHg) vào thời điểm này. Không lâu sau khi di chuyển qua địa hình đồi núi ở miền trung Mexico, Stan nhanh chóng suy yếu thành áp thấp nhiệt đới và tan hoàn toàn vào sáng sớm ngày 5 tháng 10 trên bang Oaxaca. Thiệt hại ở Guatemala ước tính khoảng 996 triệu USD. Núi lửa Santa Ana ở El Salvador phun trào vào ngày 1 tháng 10, xảy ra đồng thời với lũ lụt. Lũ lụt đã giết chết 69 người trong nước và thiệt hại từ hai thảm họa ước tính lên tới 355,6 triệu USD. Tại Honduras, hệ thống thời tiết đã giết chết 7 người và gây thiệt hại 100 triệu USD. Ngoài ra còn có ba người chết ở Nicaragua và một người ở Costa Rica. Thiệt hại về đường sá ở Costa Rica do bão Stan và cơn bão Rita trước đó gây ra ước tính khoảng 57 triệu USD (₡28 tỷ (CRC).
Greenpeace (Tổ chức Hoà bình xanh) đổ lỗi cho nạn phá rừng tràn lan đã làm trầm trọng thêm thảm họa và kêu gọi các chính phủ hành động nhiều hơn để bảo vệ rừng và rừng ngập mặn địa phương.
Bão Wilma
Lịch sử khí tượng
Vào giữa tháng 10 năm 2005, một hình thế giống rãnh gió mùa lớn đã phát triển ở vùng biển Caribe. Một vùng áp thấp hoàn lưu rộng được hình thành vào ngày 13 tháng 10 ở phía đông nam Jamaica, dần dần trở nên rõ ràng hơn. Vào ngày 15 tháng 10, NHC cho biết hình thế này đã trở thành áp thấp nhiệt đới khi nằm cách Grand Cayman khoảng 220 dặm (350 km) về phía Đông Đông Nam. Áp thấp nhiệt đới di chuyển theo hướng Tây Tây Nam vào nơi có môi trường thuận lợi, ví dụ như nhiệt độ bề mặt nước biển cao. Áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão nhiệt đới vào ngày 17 tháng 10, và có tên quốc tế là Wilma. Sự tăng cường ban đầu diễn ra chậm, do kích thước lớn của Wilma và độ lớn gradient áp suất (có thể hiểu là thứ đặc trưng cho tốc độ thay đổi áp suất theo hướng, gradient là khái niệm của Giải tích) khá thấp, mặc dù đối lưu liên quan dần dần được tổ chức.
Vào ngày 18 tháng 10, Wilma mạnh lên thành một cơn bão cuồng phong và sau đó bắt đầu mạnh lên nhanh chóng trên vùng biển rộng lớn của biển Caribe. Trong khoảng thời gian 30 giờ cho đến ngày 19 tháng 10, áp suất khí quyển của Wilma giảm từ 982 xuống 882 hPa (29,0 xuống 26,0 inHg); điều này khiến Wilma trở thành cơn bão mạnh nhất trên Đại Tây Dương được ghi nhận theo tiêu chí áp suất trung tâm tối thiểu. Trong khoảng thời gian mạnh lên, gió tăng lên đến cường độ cực đại là 160 kt (295 km/h), khiến Wilma trở thành bão cấp 5 trên thang bão Saffir–Simpson. Một chu trình thay thế thành mắt đã khiến Wilma suy yếu xuống bão cấp 4 vào ngày 20 tháng 10, khi bão di chuyển về phía Tây Bắc về phía bán đảo Yucatán của Mexico. Cuối ngày 21 tháng 10, Wilma đi qua đảo Cozumel, Quintana Roo với sức gió duy trì 130 kt (240 km/h), tại Cozumel ghi nhận áp suất 928,0 hPa. Khoảng sáu giờ sau, Wilma đổ bộ lần thứ hai vào đất liền Mexico gần Puerto Morelos. nhỏ|Đường đi phiên bản màu cũ của bão Wilma năm 2005 Bão suy yếu khi di chuyển trên đất liền nhưng mạnh lên trở lại khi đi vào vịnh Mexico. Wilma tăng tốc độ và đổi hướng di chuyển, bão bắt đầu đi theo hướng Đông Bắc do bão được dẫn đường một rãnh thời tiết mạnh. Sau khi đi qua phía tây bắc Florida Keys, cơn bão đổ bộ vào vùng Tây Nam Florida gần Cape Romano vào ngày 24 tháng 10 với sức gió 105 kt (195 km/h). Wilma nhanh chóng đi qua bang và suy yếu, tiến vào vùng biển rộng lớn của Đại Tây Dương gần Jupiter, Florida. Cơn bão mạnh trở lại trong thời gian ngắn khi đi qua phía Bắc Bahamas, hấp thụ cơn bão nhiệt đới Alpha yếu xìu ở phía Đông. Bão đi qua phía tây Bermuda vào ngày 25 tháng 10. Sau khi bão không khí lạnh xâm nhập và gió cắt xuyên qua trung tâm đối lưu, Wilma chuyển thành một xoáy thuận ngoài nhiệt đới vào ngày 26 tháng 10 ở phía nam Nova Scotia trước khi nó bị sáp nhập bởi một xoáy thuận ngoại nhiệt đới khác một ngày sau đó trên vùng Atlantic Canada. nhỏ|Bão Wilma khi là bão cấp 3, trước khi đổ bộ vào Florida. Bão đã gây gió mạnh, có nơi ghi nhận gió giật mạnh tới 217 km/h tại Florida trong toàn bộ quá trình ảnh hưởng.
Ảnh hưởng
Trong giai đoạn bão hình thành, do hoàn lưu rộng lớn của Wilma gây mưa lớn khắp phía tây biển Caribe, đã có 12 người ở Haiti và một người ở Jamaica tử vong. Gió duy trì trong 10 phút cao nhất là 161 km/h, gió giật cao nhất là 209 km/h (gió cấp 14 giật cấp 17 thang BF) đã được ghi nhận tại Cancun. Nạn cướp bóc và bạo loạn xuất hiện ở Cancún, sau đó quân đội liên bang và địa phương đã dẹp loạn. Sân bay Cancún dừng khai thác chuyến bay trong những ngày sau cơn bão. Vào ngày 28 tháng 11, Mexico tuyên bố "vùng thảm họa" đối với 9 trong số 11 đô thị của Quintana Roo.
Gió mạnh phổ biến từ cấp 8 đến cấp 10, có nơi ghi nhận gió mạnh cấp 11 giật cấp 12-13 theo thang gió BF đã được ghi nhận tại Cuba dù bão không đổ bộ.
Bão đổ bộ vào Florida cũng gây mưa lớn và gió mạnh, tốc độ gió duy trì trong 15 phút mạnh nhất 148 km/h - cấp 13 thang BF (tại hồ Okeechobee), gió giật mạnh cao nhất 217 km/h (cấp 17 thang BF) và tổng lượng mưa cao nhất 274 mm đã được ghi nhận trên đất liền. Triều cường do bão Wilma gây ra đã gây ra trận lũ lụt nghiêm trọng nhất ở Florida Keys kể từ bão Betsy năm 1965. Wilma đã gây ra thiệt hại hàng tỷ đô la ở khu vực đô thị Miami, trong đó có thiệt hại 2,9 tỷ đô la ở quận Palm Beach, 2 tỷ USD ở quận Miami-Dade, và 1,2 tỷ USD ở quận Broward. Nhiều ngôi nhà và cơ sở kinh doanh bị ảnh hưởng ở một mức độ nào đó, với hơn 55.000 ngôi nhà và 3.600 nơi làm việc bị hư hại chỉ riêng ở quận Palm Beach.
Sau khi rời Florida, Wilma đã khiến thêm một người thiệt mạng và gây ra thiệt hại 6,4 triệu USD cho Bahamas khi nó đi qua phía Tây Bắc của quốc gia này. Có 15 cơn bão đổ bộ vào đất liền, một kỉ lục trong mùa bão, trong đó có 7 cơn bão đổ bộ Hoa Kỳ. nhỏ|Ảnh hưởng của hình thế thời tiết gây mưa lớn trong đó Stan là một phần của hình thế. Một ngôi nhà bị vùi lấp do [[sạt lở đất tại Guatemala.]] Khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là vùng giáp vịnh Mexico, từ phía đông Texas đến Florida, bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau bởi Arlene, Cindy , Dennis, Katrina, Ophelia, Rita, Tammy và Wilma. Đông Nam Bắc Carolina đã phải chịu một số thiệt hại do Ophelia di chuyển chậm. Vào tháng 11, bão Gamma đã làm chết 2 người ở Bequia thuộc Grenadines, 34 người ở Honduras và 3 người ở Belize. Cơn bão cận nhiệt đới không tên vào tháng 10 đã di chuyển qua Azores. Vào tháng 11, tàn dư ngoại nhiệt đới của Delta tấn công quần đảo Canary, khiến 7 người thiệt mạng và 12 người mất tích.
Ba trong số sáu cơn bão Đại Tây Dương mạnh nhất (theo tiêu chí áp suất trung tâm thấp nhất) được ghi nhận xảy ra vào năm 2005, đứng đầu là áp suất tối thiểu 882 mbar (26,0 inHg) của bão Wilma, phá vỡ kỷ lục 17 năm do Bão Gilbert thiết lập. Bão Delta, bão Epsilon và bão Zeta đều hình thành trên vùng nước lạnh giống như bão Vince (mặc dù ở vĩ độ thấp hơn) ở phía Đông Đại Tây Dương vào cuối mùa, cả ba đều kiên trì đối mặt với sức gió cắt mạnh. Epsilon đã đạt được cường độ bão cuồng phong trên vùng nước thấp hơn nhiệt độ trước đây được cho là cần thiết để hình thành bão cuồng phong và trở thành cơn bão tồn tại lâu nhất trong tháng 12. Zeta trở thành cơn bão tồn tại lâu nhất vào tháng 1.
lam = Biển Caribe
lục = [[Antilles]] **Biển Caribe** (Phiên âm: Ca-ri-bê) là một vùng biển nhiệt đới ở Tây Bán cầu thuộc Đại Tây Dương.