✨Bắc Chu

Bắc Chu

phải|nhỏ|Năm 560

Bắc Chu (tiếng Trung: 北周) là một triều đại tiếp theo nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, có chủ quyền đối với miền Bắc Trung Quốc từ năm 557 tới năm 581. Cơ sở quyền lực của nhà Bắc Chu được Vũ Văn Thái, một viên đại tướng nhà Tây Ngụy, thiết lập sau khi có sự chia tách Bắc Ngụy thành Tây Ngụy và Đông Ngụy vào năm 535.

Sau khi Vũ Văn Thái chết năm 556, cháu trai ông Vũ Văn Hộ đã buộc Tây Ngụy Cung Đế Nguyên Khuếch phải nhường ngôi cho con trai thứ ba của Vũ Văn Thái là Vũ Văn Giác (tức Hiếu Mẫn Đế), thành lập ra nhà Bắc Chu. Hiếu Mân Đế giáng Tây Ngụy Cung Đế làm Tống Công, không lâu sau thì xử tử. Nhà Bắc Chu có tổng cộng 161 châu, 356 quận, 642 huyện. Đến khi tiêu diệt Bắc Tề thống nhất miền Bắc tổng cộng có 211 châu, 508 quận, 1124 huyện.

Sự trị vì của ba vị hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Chu (các con trai Vũ Văn Thái) – bao gồm Bắc Chu Hiếu Mẫn Đế, Bắc Chu Minh Đế và Bắc Chu Vũ Đế bị chi phối bởi ảnh hưởng của Vũ Văn Hộ cho tới khi Vũ Đế cho mai phục giết chết Hộ năm 572 và tự mình cai trị.

Vũ Văn Hộ nắm quyền

Hiếu Mẫn đế lên ngôi, Vũ Văn Hộ làm nhiếp chính trong triều được phong Tấn công. Vũ Văn Hộ, tự Tát Bảo, chính là cháu Vũ Văn Thái. Từ nhỏ Hộ đã theo Thái, chịu trách nhiệm quản lý gia tộc, theo quân đông chinh tây phạt, công tích không nhỏ. Rất được sự coi trọng và tín nhiệm của Vũ Văn Thái, làm tới chức Phiêu kị Đại tướng quân, tước Trung Sơn công.

Thiết chế nhà nước và các nghi lễ được áp dụng theo nguyên mẫu của nhà Chu có kết hợp một số phong tục của người Tiên Ti.

Sau khi nhà Bắc Chu kiến lập, Vũ Văn Hộ nhận chức Đại trủng tể (tể tướng), tiếp tục nắm giữ đại quyền. Trong mắt Hộ, vị hoàng đế mới 16 tuổi Hiếu Mẫn đế mới chỉ là một đứa trẻ, mọi việc đều phải do mình làm chủ mới được. Ai ngờ được Vũ Văn Giác tuy tuổi trẻ nhưng tính cách lại cương nghị quả đoán, cực kỳ bất mãn với Vũ Văn Hộ chuyên quyền ngang ngược. Đồng thời trong triều cũng có một số đại thần không chịu được Vũ Văn Hộ, cho rằng quyền lực phải thuộc về tay hoàng đế chứ không phải trong tay Hộ.

Những vị đại thần này thường cổ vũ cho hoàng đế giết Hộ. Thế là Vũ Văn Giác bèn cho triệu tập một số võ sĩ, thường vào hậu cung diễn tập làm cách nào để giết được Vũ Văn Hộ. Hoàng thượng lại cùng với các vị đại thần quyết định trong một hôm nào triều đình yến hội thì bắt mà giết chết Hộ. Việc chưa kịp thực thi thì có người cáo giác cho Vũ Văn Hộ. Hộ lập tức ra tay giết chết Vũ Văn Giác và lập một người con khác của Vũ Văn Thái là Ninh Đô công Vũ Văn Dục lên ngôi, hiệu là Minh Đế. Hiếu Mẫn Đế bị giáng xuống làm Lạc Dương công và một tháng sau thì bị giết.

Bắc Chu Minh Đế Vũ Văn Dục tụ tập được khá nhiều những vị lão thần nguyên huân giúp phát triển kinh tế, tiếng tăm cũng càng ngày càng lớn. Những điều như thế đã làm cho Vũ Văn Hộ sợ hãi bất an. Để thử hoàng đế, Hộ đã giả bộ làm một lần trả lại binh quyền cho hoàng đế. Trừ quân quyền ra, tất cả mọi quyền lực đều giao về cho hoàng đế. Ai ngờ Vũ Văn Dục không hề khách khí mà thu hết cả về, lập tức xưng danh hiệu đổi thành hoàng đế (khi trước những người nắm quyền lực tối cao của nhà Bắc Chu đều xưng là Thiên Vương). Vũ Văn Hộ bắt đầu thấy sợ hãi, bèn mua chuộc viên quan chủ quản việc ăn uống của hoàng đế, bí mật bỏ thuốc độc vào trong thức ăn, đầu độc chết hoàng đế. Minh Đế Vũ Văn Dục tại vị chưa đầy 2 năm.

Trước lúc chết, Minh Đế chỉ định em mình là Lộ công Vũ Văn Ung (543-578) làm người kế vị, Vũ Văn Ung lên ngôi, hiệu là Vũ Đế. Quyền lực Vũ Văn Hộ bao trùm lên lục khanh, diệt trừ 3 trong số 6 trụ quốc là Hầu Mạc Trần Sùng Vi, Độc Cô Tín, Triệu Quý.

Chu Vũ Đế lên ngôi

Năm 562, Bắc Chu thiết lập quan hệ hòa hiếu với nước Trần, gửi về nước Trần các con tin trong đó có Trần Xương, anh họ Trần Văn Đế, con Trần Vũ Đế, gia đình Trần Húc (sau này là Tuyên Đế) và Trần Thúc Bảo (con Trần Húc, sau này là Trần Hậu Chủ). Đổi lại, Trần nhường cho Bắc Chu thành Lư Sơn (Vũ Hán, Hồ Bắc).

Mùa thu năm 562, Vũ Đế đã bắt đầu cấp lương bổng cho các quý tộc dựa vào tước vị của mỗi người. Đồng thời mùa xuân năm 563, Vũ Đế cho ban hành bộ Hình thư mới có 25 chương do Thác bạt Địa soạn thảo, trong đó các tội hình sự chia làm 25 mục.

Mùa thu năm 563, Bắc Chu liên minh với người Đột Quyết chống lại Bắc Tề, Vũ Đế cưới con gái Ashina Qijin, hãn Mugan. Mùa đông năm 563, liên quân hai nước tấn công Bắc Tề, cánh quân phía nam đánh vào Bình Dương (Lâm Phần, Sơn Tây), cánh quân phía bắc đánh vào kinh đô thứ hai của Bắc Tề là Tấn Dương. Cánh quân phía bắc do tướng Dương Trung chỉ huy bao vây Tấn Dương nhưng bị quân Bắc Tề do tướng Đoàn Thiều chỉ huy đánh lui. Cánh quân phía nam do tướng Đạt Hề Vũ chỉ huy cũng bị đẩy lui. Mùa xuân năm 572, Vũ Đế dùng kế tiêu diệt Vũ Văn Hộ cùng phe cánh của ông ta, giành lại quyền lực.

Vũ Đế củng cố chính quyền

Vũ Đế phân chia lại quyền lực trong triều. Vũ Đế lập con mình là Lộ công Vũ Văn Vân làm thái tử, đồng thời ra lệnh ân xá. Các lực lượng quân sự của phủ binh được nhập vào lực lượng quân đội và dưới sự chỉ huy trực tiếp của quan chức triều đình. Các chính sách cũ bị bãi bỏ. Người Hán có thể gia nhập quân đội và người phi Hán tộc cũng có thể trở thành nông dân. Vũ đế cho áp dụng chế độ quân điền.

Nhằm tăng cường năng lực giao thông, các con kênh đã được đào. Những nô lệ và lực lượng quân đội riêng bị bãi bỏ, các nhà tu hành Đạo giáo và Phật giáo bị buộc phải hoàn tục, ruộng đất của các cơ sở tôn giáo bị sung công. Đạo giáo và Phật giáo bị cấm. Qua đó số người nộp thuế cho nhà nước tăng lên và nhà nước thu được nhiều hoa lợi.

Nhà Bắc Chu quy định mỗi hộ gia đình mỗi năm nộp 3 đấu lương, con trai 18 tuổi thành đinh, mỗi năm đi phu 1 tháng. Dựa vào cải cách của Vũ Văn Thái, Vũ Đế đã thành lập lục bộ giúp việc triều chính.

Nhờ những biện pháp đó, Bắc Chu đã tiêu diệt kình địch Bắc Tề năm 577, chiếm trọn vẹn lãnh thổ nước này.

Pháp nạn thứ ba

Chu Vũ Đế là vị vua đã có cống hiến rất lớn cho sự nghiệp thống nhất đất nước Trung Quốc. Tuy nhiên trong thời gian này xảy ra sự kiện pháp nạn Phật giáo. Lúc ấy tăng lữ ở Bắc Chu có hàng trăm vạn người, hơn một vạn tự viện, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên và ảnh hưởng đến cả số quan (vì đàn ông đi tu quá nhiều) của triều đình. Vũ Đế ra lệnh cải cách quan trọng nhất là cấm chỉ hai tông giáo Phật và Đạo. Năm 574, Chu Vũ Đế ra sắc lệnh bãi bỏ Phật giáo, bắt các tăng sĩ về làm dân, xung vào binh nội; chùa chiền bị biến thành phủ đệ cho các vương hầu ở, dân chúng bị ngăn cấm không cho thờ cúng Phật. Chu Vũ Đế cho tịch thu toàn bộ chùa chiền, đất đai, tượng đồng, tài sản sung vào quân nhu. Kết quả tài chính thu nhập tăng cao, quân đội ngày càng lớn mạnh. Chu Vũ Đế lại tiến hành chính sách diệt Phật ở đất Bắc Tề và hạ chiếu thả nô tì. Nhưng ít năm sau, Chu Tuyên Đế nối ngôi, lại sắc chiếu phục hưng Phật giáo, truyền dịch kinh luận.

Tiêu diệt Bắc Tề, thống nhất miền Bắc

Mùa hè năm 576, Vũ Đế bố trí chiến lược chinh phục Bắc Tề: sử dụng mấy đạo quân tiến đánh cùng một lúc làm rối loạn hướng phòng thủ của Bắc Tề. Trong khi quân chủ lực thì đánh vào Hà Nam rồi đóng yên một chỗ đợi quân chủ lực Bắc Tề kéo đến chỉ trong một trận đánh sẽ tiêu diệt quân chủ lực Bắc Tề, sắn sàng tảo thanh trên phạm vi nước Tề. Ngay trong năm đó, Vũ Đế đã thực hiện kế hoạch nói trên, chia 4 cánh quân theo đường thủy bộ đánh vào Bắc Tề, giành được thắng lợi liên tiếp, nhưng khi quân chủ lực Bắc Tề kéo đến Hà Nam chuẩn bị giao chiến thì Vũ Đế bị bệnh nặng phải rút quân, bỏ lại hơn 30 thành trì vừa chiếm được.

Qua năm sau, Chu Vũ Đế lại mở cuộc tấn công lần thứ hai. Mục tiêu chủ yếu của cuộc tấn công này là Bình Dương (Lâm Phần, Sơn Tây). Sau khi quân Chu vượt Hoàng Hà chỉ trong 9 ngày đã đánh chiếm Bình Dương. Chu Vũ Đế chỉ để lại 1 vạn tinh binh do danh tướng Lương Sĩ Ngạn trấn thủ, còn bản thân thì rút về Quan Trung. Tề Hậu Chủ phải một tháng sau mới huy động được đại quân kéo tới bao vây Bình Dương, tấn công liên tục trong 1 tháng mà vẫn không hạ được ngôi thành cô lập này. Sau khi Chu Vũ Đế trở về Trường An ở lại chỉ có 1 hôm lập tức kéo 8 vạn tinh binh quay trở lại chiến trường cứu viện cho Bình Dương. Đôi bên giao tranh gần Bình Dương. Tề Hậu Chủ chỉ huy tác chiến rất liều lĩnh, không kể gì quân sĩ đang mệt mỏi, vừa trông thấy đối phương là mở cuộc tấn công ngay. Nhưng khi cuộc chiến đấu thất lợi thì lại hốt hoảng dẫn mấy chục thân tín bỏ chạy khỏi chiến trường, làm cho toàn quân đều bị tiêu diệt. Chu Vũ Đế xuống lệnh cho các tướng xua quân truy kích. Tề Hậu Chủ chạy đến Tấn Dương (Thái Nguyên, Sơn Tây) cũng không có ý định chỉnh đốn quân đội để tác chiến mà lại bỏ chạy đến Nghiệp Đô. Đứng trước sự truy kích quyết liệt của quân Bắc Chu, các tướng sĩ Bắc Tề đều mất hết tinh thần chiến đấu, mạnh ai nấy chạy. Thánh Tấn Dương chỉ giữ được 2 hôm là bị đánh chiếm. Chu Vũ Đế kéo quân đến thẳng Nghiệp Đô. Tề Hậu Chủ đưa con trai 8 tuổi lên ngôi (Ấu Chủ) và tiếp tục chạy về hướng đông. Chu Vũ Đế vẫn cho quân truy kích, một số thành viên Hoàng gia Bắc Tề bỏ chạy lên phía bắc để nhờ sự che chở của người Đột Quyết và tiến hành quấy rối biên cương, còn một bộ phận khác thì bị quân Bắc Chu bắt sống. Mùa xuân năm 577, Vũ Đế tiến quân vào Kinh đô Nghiệp Thành của Bắc Tề, sau đó bắt được Hậu Chủ Cao Vĩ và phong cho Cao Vĩ làm Văn Công. Các lực lượng Bắc Tề còn sót lại sau đó bị đánh bại, toàn bộ lãnh thổ Bắc Tề thuộc về Bắc Chu. Nhà Bắc Chu chỉ mất có 4 tháng để tiêu diệt Bắc Tề.

Mùa xuân năm 577, Vũ Đế dẫn quân khải hoàn trở về Trường An, đem theo các quý tộc Bắc Tề, đến mùa đông năm đó, các thành viên hoàng tộc Bắc Tề bị bắt phải tự tử. Sau khi thống nhất miền Bắc, nhà Bắc Chu có tổng cộng 211 châu, 508 quận, 1124 huyện. Nhà Trần lợi dụng cơ hội Bắc Tề diệt vong liền phái tướng Ngô Minh Triệt mở cuộc tấn công vào Bành Thành (Từ Châu, Giang Tô), một thành quan trọng trên biên giới Trần và Bắc Tề, giao chiến với Tông quản Từ châu là Lương Sĩ Ngạn. Vũ Đế phái tướng Vương Quỹ giải vây Bành Thành, và mùa xuân năm 578, Ngô Minh Triệt và hơn 3 vạn quân Trần bị bắt làm tù binh, chỉ có kỵ tướng Tiêu Ma Ha cùng 20 kỵ binh chạy thoát.

Diệt vong

Tuy nhiên, cái chết đột ngột của Vũ Đế năm 578 đã dần dẫn tới sự tiêu vong của triều đại này, do con trai ông Tuyên Đế Vũ Văn Vân lại là một vị hoàng đế hung bạo, thiếu năng lực, làm suy yếu nhà nước này một cách trầm trọng.

Để tận hưởng cuộc sống xa hoa, Chu Tuyên Đế mới làm vua chưa đầy 1 năm đã nhường ngôi cho con là Vũ Văn Xiển mới 7 tuổi để lên làm Thái thượng hoàng lúc mới 20 tuổi. Chỉ qua năm sau (580), Thượng hoàng Vũ Văn Vân mới 21 tuổi đã qua đời.

Dương Kiên đoạt chính quyền

Cha vợ Tuyên Đế là Dương Kiên, ông ngoại Chu Tĩnh Đế Vũ Văn Xiển đã chiếm trọn quyền hành, và năm 581 đã buộc Tĩnh Đế phải nhường ngôi cho mình, lập ra nhà Tùy. Toàn bộ hoàng tộc Vũ Văn, bao gồm cả Tĩnh Đế, sau này đều bị Dương Kiên tàn sát.

Năm người con Vũ Văn Thái là Ung Châu mục Tất vương Vũ Văn Hiền, Triệu vương Vũ Văn Chiến, Đằng vương Vũ Văn Do lần lượt bị tiêu diệt. Một người cháu của Hiếu Mẫn Đế; 6 người con, 5 người cháu của Vũ Đế, 3 người con của Tuyên Đế và 20 người có liên quan đều bị giết.

Tương Châu tổng quản Uất Trì Huýnh, Trịnh Châu tổng quản Tư Mã Tiêu Nan và Ích Châu tổng quản Vương Khiêm khởi binh chống lại Dương Kiên.

Dương Kiên phái Vi Hiếu Khoan tiến đánh quân Úy Trì Huýnh tại Tương Châu (An Dương, Hà Nam), phái Vương Nghị tiến đánh Tư Mã Tiêu Nan khởi binh ở Vân Châu (An Lục, Hồ Bắc), phái Lương Duệ tiến đánh Vương Khiêm tại Ích Châu, trong nửa năm bình định được các thế lực chống đối, thanh trừng 59 quý tộc Vũ Văn.

Dương Kiên xóa bỏ tất cả những họ mà trước đây vua Bắc Chu đã ban cho người Hán, quan viên người Hán được phục hồi họ cũ của mình, nên nhận được sử ủng hộ của người Hán.

Năm 581, ông phế truất vị vua cuối cùng của Bắc Chu là Vũ Văn Xiển, người đồng thời là cháu ngoại ông, lên ngôi hoàng đế, lập nên nhà Tùy. Chín năm sau, ông tiêu diệt nước Trần ở phía nam, thống nhất toàn bộ Trung Quốc sau gần 300 năm phân liệt.

Các vị hoàng đế

Năm 580, sau khi Tuyên Đế chết, Uất Trì Quýnh (尉遲迥), tin rằng Nhiếp chính Dương Kiên sẽ tiếm ngôi, nên đã nổi lên chống lại Dương Kiên và lập người con trai (không rõ tên) của em trai Vũ Đế là Triệu Vương Vũ Văn Chiêu (宇文招) làm Hoàng đế. Nhưng do Uất Trì Quýnh bị đánh bại ngay sau đó, và do người ta không còn biết gì thêm nữa về vị hoàng đế mà ông đã lập, nên con trai Vũ Văn Chiêu thông thường không được coi là Hoàng đế nhà Bắc Chu.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chu Vũ Đế** (chữ Hán: 周武帝; 543 - 21 tháng 6, 578) là Hoàng đế thứ ba của nhà Bắc Chu thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Chu** (tiếng Trung: 北周) là một triều đại tiếp theo nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, có chủ quyền đối với miền Bắc Trung Quốc từ năm 557 tới năm
Tề Dượng vương **Vũ Văn Hiến** (chữ Hán: 宇文宪, 544 - 578), tên tự là **Bì Hà Đột**, người trấn Vũ Xuyên, Đại Quận , dân tộc Tiên Ti, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà
**Bắc Chu Tuyên Đế** (chữ Hán: 北周宣帝; 559 – 580), tên húy là **Vũ Văn Uân** (宇文贇), tên tự **Can Bá** (乾伯), là một hoàng đế của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung
**Bắc Chu Minh Đế** (北周明帝) (534–560), tên húy là **Vũ Văn Dục** (宇文毓), biệt danh **Thống Vạn Đột** (統萬突), là một vị hoàng đế của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Minh Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 明敬皇后; ? - 14 tháng 5, 558), Độc Cô thị (独孤氏), là vợ của Bắc Chu Minh Đế Vũ Văn Dục, hoàng đế Bắc Chu trong lịch sử Trung
**Bắc Chu Hiếu Mẫn Đế** (chữ Hán: 北周孝閔帝) (542-557, tại vị: 557) là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Chu. ## Thân thế Ông nguyên tên là **Vũ Văn Giác** (), tên tự
**Bắc Chu Tĩnh Đế** (北周靜帝) (573–581), nguyên danh **Vũ Văn Diễn** (宇文衍), sau cải thành **Vũ Văn Xiển** (宇文闡), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Bắc Tề Hậu Chủ** (北齊後主, 557–577), tên húy là **Cao Vĩ** (高緯), tên tự **Nhân Cương** (仁綱), đôi khi được đề cập đến với tước hiệu do Bắc Chu phong là **Ôn công** (溫公), là
**Dương Trung** (, 507 – 568), tên lúc nhỏ là **Nô Nô**, tướng lĩnh nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu, được con trai là Tùy Văn đế Dương Kiên truy tôn làm Hoàng đế, miếu
**Cao Hằng** (, 570–577), trong sử sách thường được gọi là **Bắc Tề Ấu Chúa** (北齊幼主), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều đại Bắc Tề trong lịch sử
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**Dương Khoan** (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn,
**Hồ hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后), là hoàng hậu của Bắc Tề Vũ Thành Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Bắc Tề thư và Bắc sử không ghi rõ tên thật của
**Chu Mãn Nguyệt** (chữ Hán: 朱滿月; 547 – 586) là một trong bốn Hoàng hậu không chính thống của Bắc Chu Tuyên Đế Vũ Văn Uân, và là sinh mẫu của Bắc Chu Tĩnh Đế
**Vương Kiệt** (chữ Hán: 王杰, 515 – 579), tên gốc là **Vương Văn Đạt**, không rõ tên tự, người huyện Trực Thành, quận Kim Thành , tướng lãnh nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu cuối
**Nhĩ Chu Sưởng** (chữ Hán: 尔朱敞, 519 – 590), tên tự **Kiền La**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh nhà
**Lý Mục** (chữ Hán: 李穆, 510 – 586), tự Hiển Khánh, sanh quán là trấn Cao Bình , tướng lãnh Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều và nhà Tùy. ## Thời Tây
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李贤, 502 – 569), tên tự là **Hiền Hòa**, sinh quán là trấn Cao Bình , tướng lãnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều trong
**Chu thư** hay còn gọi là **Bắc Chu thư** hoặc **Hậu Chu thư** (chữ Hán giản thể: 周书; phồn thể: 周書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử
**Tư Mã Duệ** (chữ Hán: 司马裔, 507 – 571), tên tự là **Tuân Dận**, người huyện Ôn, quận Hà Nội là tướng lĩnh nhà Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều trong lịch
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Tề** (tiếng Trung: 北齊; _Běiqí_) là một trong năm triều đại thuộc Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Triều đại này cai quản khu vực miền bắc Trung Quốc từ
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Miền Bắc nước Anh** hay **Bắc Anh** () được xem là một khu vực văn hoá riêng. Khu vực trải dài từ biên giới với Scotland tại phía bắc đến gần sông Trent tại phía
Trang đầu _[[Phép giảng tám ngày_ in năm 1651 của nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes. Bên trái là tiếng Latinh, bên phải là tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.]] **Chữ Quốc ngữ** là
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
**Chiến dịch Tây Bắc** (từ 14 tháng 10 đến 10 tháng 12 năm 1952) là chiến dịch tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) trên hướng Tây Bắc Việt Nam nhằm tiêu
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Hà Bắc** được bầu cử bởi Đại hội Đại biểu nhân dân tỉnh Hà Bắc, lãnh đạo bởi thành viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cán bộ,
**Hồ Bắc** (, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền trung của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một
**Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 元皇后) là hoàng hậu của Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế Cao Diễn trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Nguyên hoàng hậu thuộc dòng dõi hoàng tộc Bắc Ngụy.
**Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế** (chữ Hán: 北齊孝昭帝; 535–561), tên húy là **Cao Diễn** (高演), tên tự là **Diên An** (延安), là hoàng đế thứ ba của triều Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Chủ nghĩa duy tâm**, còn gọi là **thuyết duy tâm** hay **duy tâm luận** (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về
**Nguyên Bưu** (chữ Hán: 源彪, 521 – 586), tên tự là **Văn Tông**, người huyện Lạc Đô quận Tây Bình , quan viên nhà Đông Ngụy, nhà Bắc Chu cuối thời Nam bắc triều và
**Hồ hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后) là hoàng hậu thứ hai của Bắc Tề Hậu Chủ Cao Vĩ trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Không rõ tên thật lẫn ngày sinh của Hồ
thumb|Mặt trước của Mái vòm Đài Bắc vào năm 2025 thumb|Mái vòm Đài Bắc đang được xây dựng vào năm 2019 **Vườn Văn hóa Thể dục Đài Bắc** (chữ Hán phồn thể: 臺北文化體育園區; Hán-Việt: Đài
**Nam–Bắc triều** là tên gọi chỉ một giai đoạn lịch sử một quốc gia phong kiến có sự phân tranh giữa hai triều đại Nam–Bắc, có thể chỉ: *Thời kỳ Nam–Bắc triều (Trung Quốc) *Thời
**Hà Bắc** (; bính âm bưu chính: **Hopeh**) là một tỉnh nằm ở phía bắc của Trung Quốc. Giản xưng của Hà Bắc là Ký, Hán tự: "", theo tên Ký châu thời Nhà Hán,
**Trương Bắc** (chữ Hán giản thể: 张北县, âm Hán Việt: _Trương Bắc huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Trương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có
nhỏ|Hai vệ tinh của Sao Hỏa quay quanh nó.**Chu kỳ quỹ đạo** là thời gian mà một thiên thể hoàn thành một vòng quỹ đạo quanh thiên thể trung tâm. Trong thiên văn học, nó
**Hoài Bắc** (chữ Hán giản thể: 淮北市, bính âm: Sùzhōu Shì, Hán Việt: _Hoài Bắc thị_) là một địa cấp thị của tỉnh An Huy, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Địa cấp thị Hoài
**Tây Chu Huệ công** (chữ Hán: 西周惠公), tên thật là **Cơ Triều** (姬朝), là vị quân chủ thứ ba của nước Tây Chu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Năm 367 TCN Tây
## Nam triều ### Lưu Tống ### Nam Tề ### Lương ### Hán Quốc ### Hậu Lương ### Trần ### Đông Ngụy ### Tây Ngụy ### Bắc Tề ### Bắc Chu
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Hiệp hội nghệ sĩ truyền hình Bắc Kinh** (hay **Hiệp hội tầm nhìn Bắc Kinh**) được chính quyền thành phố Bắc Kinh phê duyệt thành lập vào năm 1985 và được Liên đoàn Văn học
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Bắc Ireland** (, ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ở đông bắc của đảo Ireland, giáp với Cộng hòa Ireland ở phía nam và phía tây.