✨Tùy Văn Đế
Tùy Văn Đế (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu Tùy Cao Tổ, tên Hán là Dương Kiên (楊堅), tên Tiên Ti là Fuluruqen (普六茹堅, Phổ Lục Như Kiên), biệt danh Nryana (, Na La Diên, nghĩa là kim cương bất hoại), nguyên quán ở Hoa Âm, Hoằng Nông, là người sáng lập và hoàng đế đầu tiên của nhà Tùy (581 - 618) trong lịch sử Trung Quốc.
Tùy Văn Đế được các sử gia đánh giá là một Hoàng đế tài giỏi, đã đem lại thái bình và thịnh vượng cho Trung Hoa sau hàng trăm năm chia cắt, khai sáng ra Khai Hoàng chi trị (開皇之治), tạo tiền đề vững chắc cho triều đại nhà Đường thịnh trị về sau. Dưới thời của ông, năm 589, đất nước Trung Quốc lại được thống nhất sau hơn 250 năm chia cắt từ ngày sụp đổ của Tây Tấn năm 316. Ông cũng cho đẩy mạnh xây dựng kênh đào Vận Hà, một công trình thủy lợi có ý nghĩa quan trọng của Trung Quốc thời phong kiến cho đến tận ngày nay.
Dương Kiên ban đầu là một quan lại dưới triều Bắc Chu, phục vụ dưới quyền hai đời vua Bắc Chu Vũ Đế và Bắc Chu Tuyên Đế. Sau khi Tuyên Đế bất ngờ qua đời năm 580, Dương Kiên với tư cách là nhạc phụ của ông ta, nắm lấy trọn quyền nhiếp chính. Sau khi đánh bại phản quân của Uất Trì Quýnh, ông đoạt ngai vàng từ tay ấu đế Vũ Văn Xiển, đổi quốc hiệu mới là Tùy. Ông cũng là vị hoàng đế người Hán đầu tiên cai trị toàn bộ Trung Nguyên kể từ sau Loạn Ngũ Hồ tính từ thời Lưu Tống (nếu không kể giai đoạn bắc phạt ngắn ngủi của Lương Vũ Đế).
Không thể phủ nhận rằng, những năm Khai Hoàng của Tùy Văn Đế là giai đoạn thịnh vượng chưa từng thấy của Trung Quốc từ thời Hán trở đi. Nền kinh tế phát triển, lương thực thời đó được coi là đủ dùng trong 50 năm. Quân sự cũng đạt được nhiều thành công. Những năm đầu tiên, nhà Tùy phải đối mặt với đe dọa từ Đột Quyết ở phía Bắc, Thổ Phiên ở phía Tây, Cao Câu Ly ở miền Đông Bắc, và Champa (Lâm Ấp) từ phía Nam. Đến cuối đời Văn Đế, Đột Quyết đã bị phân chia thành hai miền Đông – Tây, và Đông Đột Quyết cùng Cao Câu Ly đã chịu thần phục nhà Tùy trên danh nghĩa, trong khi người Chăm cũng bị đánh bại và không còn là một mối đe dọa đối với Trung Quốc nữa.
Tùy Văn Đế cũng nổi tiếng vì là một trong những vị hoàng đế không có nhiều thê thiếp của thời phong kiến Trung Quốc (chỉ sau Tây Ngụy Phế Đế và Hoằng Trị Đế là hai vị hoàng đế cả đời chỉ lấy một vợ). Ngoài hoàng hậu, Văn Đế chỉ nạp hai người thiếp.
Cuộc sống ban đầu
Họ Dương có xuất thân từ Hoằng Nông (Hoằng Nông Dương thị) được coi là tổ tiên của các hoàng đế nhà Tùy, tương tự như họ Lý ở Lũng Hữu được coi như tổ tiên của các hoàng đế nhà Đường. Tổ tiên nhiều đời là tướng quân nhà Hán Dương Chấn. Cháu 8 đời của Dương Chấn tên là Dương Huyễn làm tướng phục vụ cho chính quyền nước Yên (Tiền Yên và sau đó là Hậu Yên) thời Ngũ Hồ Thập lục quốc, đến chức Thái thú Bắc Bình, và con cháu ông này tiếp tục làm quan cho Bắc Ngụy, nước đã thống nhất miền bắc sau loạn Ngũ Hồ. Con của Dương Huyễn, tổ thứ năm của Dương Kiên là Dương Nguyên Thọ thời Bắc Ngụy, là quan Tư mã trấn Vũ Xuyên. Một ni cô trong chùa đã ấn tướng với tướng mạo của ông khi mới chào đời, và nhận nuôi ông trong những năm còn ẵm ngửa Năm lên 14, ông được bổ nhiệm một chức tướng cấp thấp trong quân đội của Vũ Văn Thái.. Cũng trong thời gian đó, gia tộc Vũ Văn đã đoạt lấy ngai vàng Tây Ngụy và trở thành triều Bắc Chu. Bắc Chu Minh Đế Vũ Văn Dục (con trưởng Vũ Văn Thái) lên ngôi cuối năm đó, thăng cho Dương Kiên làm Phiêu kỵ tướng quân, thêm Khai phủ, tước Đại Hưng quận công. Khi mẫu thân Lã thị bị bệnh, ông ở bên cạnh hầu hạ không rời, cứ thế suốt ba năm, người đời xưng là người con có hiếu. Đến đời em của Minh Đế là Vũ Đế Vũ Văn Ung, Phổ Lục Như Kiên ngày càng được thăng chức và có uy tín ngày càng cao trong quân đội, dần nắm giữ các chức Thứ sử Tùy châu, tiến vị Đại tướng quân. Năm 573, Bắc Chu Vũ Đế cưới trưởng nữ của ông, Phổ Lục Như Lệ Hoa cho trưởng tử của mình là Thái tử Vũ Văn Vân, lập Lệ Hoa làm Thái tử phi. Từ đó thế lực của họ Phổ Lục Như trong triều tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, cũng có người nhận thấy Phổ Lục Như Kiên có vẻ khác thường hoặc là che giấu âm mưu phản chủ không an phận. Ngũ đệ của Vũ Đế, Tề vương Vũ Văn Hiến cùng tướng Vương Quỹ nhiều lần khuyên Hoàng đế loại trừ Kiên, nhưng Vũ Đế trước sau không đồng ý. Vì lẽ đó, Phổ Lục Như Kiên tìm cách che giấu tài năng của mình để tránh họa. Nhưng cho đến năm 575 Vũ Đế lại bổ nhiệm ông làm tướng soái dẫn đại quân công đánh Bắc Tề. Phổ Lục Như Kiên tham chiến từ năm 576 - 577 và kết quả của những chiến dịch đó, Bắc Chu đã tiêu diệt và sáp nhập toàn bộ lãnh thổ Bắc Tề. Sau đó ông được tiến vị là Trụ quốc. Tuyên Đế là một vị hoàng đế có tính khí thất thường, và mang trong mình mối nghi ngờ sâu sắc đối với Phổ Lục Như Kiên, dù đã tấn phong cho con gái của ông làm Hoàng hậu và bổ nhiệm ông làm Thượng trụ quốc và Đại Tư mã, và thay đổi hết các chính sách của Vũ Đế. Phổ Lục Như Kiên thấy vậy nhiều lần khuyên can, nhưng Hoàng đế không theo.
Nhiếp chính nhà Chu
Mùa hạ năm 580, Thiên nguyên hoàng đế chuẩn bị tấn công Trần quốc, theo lời đề nghị của Trịnh Dịch là bạn thân của Phổ Lục Như Kiên, bổ nhiệm ông làm Tổng quản Dương châu) giáp với nước Trần. Tuy nhiên trước khi đại quân khởi hành, thì Thiên nguyên bị bệnh nặng, triệu hai quan cận thần Lưu Phưởng và Nhan Chi Nghi vào cung, mà hai người này đều đứng về phe Phổ Lục Như Kiên. Khi hai người vào thì Thiên nguyên đã hết hơi không còn nói được, vì thế họ bàn với bọn Trịnh Dịch, Liễu Cừu, Hoàng Phủ Tích,... rằng Phổ Lục Như Kiên là phụ thân của hoàng hậu, nên nắm quyền nhiếp chính cho ấu đế sau khi Thiên nguyên qua đời, rồi viết chiếu triệu ông vào cung. Đầu tiên, Phổ Lục Như Kiên đã từ chối do lo sợ rằng đây là một cái bẫy, song cuối cùng đã vào cung. Cùng ngày hôm đó Thiên nguyên qua đời, bọn Phổ Lục Như Kiên giấu không phát tang. Phưởng và Trịnh Dịch giả chiếu bổ Phổ Lục Như Kiên làm Tổng tri binh mã trong ngoài. Các quan đều phải răm rắp nghe theo, chỉ có Nhan Chi Nghi ủng hộ chú của Thiên nguyên là Triệu vương Vũ Văn Chiêu chấp chính, nhưng không làm gì nổi. Phổ Lục Như Kiên làm nhiếp chính, lo sợ các vương gia ở ngoài sanh biến, bèn lấy cớ gả công chúa Thiên Kim cho Đột Quyết, triệu năm vị hoàng thúc tổ Triệu, Trần, Việt, Đại, Đằng vào triều thương nghị. Lại tự ý chế ra phù tỉ, Nhan Chi Nghi tỏ ra bất bình, Kiên giận định giết chết, nhưng rồi nể tình ông ta là người được dân chúng nể trọng, nên chỉ đày ra biên cương. Sau đó ông tự phong mình làm Tả Đại thừa tướng, cho người trong tông thất là Hán vương Tán làm Thượng Trụ quốc, Hữu Thừa tướng, nhưng chỉ là hư danh.
Để mua chuộc lòng người, củng cố và phát triển địa vị bản thân, Phổ Lục Như Kiên đã cải cách các luật lệ quá hà khắc của thời Bắc Chu Tuyên Đế, pháp lệnh rõ ràng, rất tiết kiệm, nên rất được lòng các quan trong triều và nhân dân. Vì lo sợ tướng Uất Trì Quýnh cầm quân ở Tương châu chống lại mình, cũng triệu Quýnh về kinh. Tuy nhiên, Uất Trì Huýnh cho rằng Phổ Lục Như Kiên có ý chiếm ngôi, vì thế khởi binh với danh nghĩa diệt trừ quyền thần. Quýnh được sự ủng hộ của nhiều tướng lĩnh cao cấp như Tư Mã Tiêu Nan Huân châu và Vương Khiêm ở Ích châu. Tuy nhiên do Quýnh đã già yếu, không có mưu lược, nên quân đội triều đình do Vi Hiếu Khoan dẫn đầu nhanh chóng đánh dẹp cuộc khởi nghĩa chỉ sau 68 ngày, và Quýnh bị buộc phải tự sát. Vương Khiêm bị đánh bại, và Tư Mã Tiêu Nan trốn sang Trần quốc. Ngày 4 tháng 3 năm 581, Tĩnh Đế xuống chiếu nhường ngôi cho Dương Kiên, chấm dứt triều đại Bắc Chu và lập ra nhà Tùy. (Tước phong trước kia của Dương Kiên là Tùy quốc công, nhưng ông cho rằng chữ Tùy viết theo kiểu cổ xưa (隨) chứa nét sước ("辶") có nghĩa là "đi bộ", mang ý chạy vạy không yên, không cát tường may mắn, nên bỏ đi, và do đó quốc hiệu trở thành "隋" cũng đọc là Tùy.) Việc thụ thiện của Dương Kiên đã khiến con gái của ông, Bắc Chu Tuyên hoàng hậu Dương Lệ Hoa rất bất bình, sự oán giận lộ ra cả trong nét mặt và lời nói. Nhưng Văn Đế không hề khiển trách và vẫn đối đãi tử tế với Dương Lệ Hoa.
Khai Hoàng thịnh trị
Quan chế và hình luật
Văn Đế bãi bỏ Lục quan chế của Bắc Chu, thay vào đó là cơ cấu trung ương gồm năm tỉnh: Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh, Nội sử tỉnh, Bí thư tỉnh, Nội thị tỉnh. Quyền lực của chức tể tướng bị phân cho các cơ quan này khiến bọn họ kiểm soát tranh chấp với nhau, và không có cơ hội lộng quyền trước hoàng đế. Ông cũng truy phong cho cha ruột Dương Trung và mẹ ruột Lã Cổ Đào làm hoàng đế và hoàng hậu, lập vợ Độc Cô thị làm hậu, con trưởng Dương Dũng làm Hoàng thái tử; các con trai và em trai làm tước thân vương. Ông giáng vua cũ của Bắc Chu là Tĩnh Đế Vũ Văn Xiển làm Giới quốc công, tuy nhiên lại nhanh chóng hạ lệnh lùng giết con cháu họ Vũ Văn, không lâu sau Giới quốc công cũng chết một cách đột ngột. Ông tin dùng các đại thần là Cao Quýnh, Dương Tố và Tô Uy, giao phó công việc nhà nước cho họ. Rút kinh nghiệm từ việc nhà Bắc Chu nghi kị tông thân mà không giao phó binh quyền, điều mà Văn Đế cho rằng nguyên nhân chính khiến cho cơ đồ rơi vào tay họ khác, ông đã gửi các hoàng tử đến cầm quân ở các trấn quan trọng và cho họ có nhiều quyền lực tại lãnh địa.
Ông giao cho Bùi Chánh nghiên cứu tham khảo từ luật pháp của Bắc Tề và Lương, để sửa đổi hình luật cho đơn giản và bãi bỏ những hình phạt hà khắc. Năm 583, nhà Tùy cử Tô Uy hiệu đính thêm hình luật, rồi ban hành Luật Khai Hoàng, gồm 12 quyển, 500 điều, phân chia hình phạt thành 5 cấp xuy (đánh roi), trượng (đánh trượng), đồ (làm việc nặng), lưu (đày đi nơi xa), tử (giết chết); các chương thì có Danh lệ, Vệ cấm, Chức chế, Hộ hôn, Kho bãi, Xây dựng, Trộm cướp, Tranh chấp, Giả mạo, Tạp luật, Truy nã, Vượt ngục... có ảnh hưởng rất lớn đến luật lệ phong kiến đời sau.
Về mặt tác phong chính trị, ông rất siêng năng chính sự, nghiêm khắc trong việc quản lý quan lại. "mỗi buổi sáng đều thiết triều nghe ý kiến của các quan tận xế không mệt, việc ăn mặc, nơi ăn ở đều sử dụng thật tiết kiệm..." Ông còn thường xuyên cử người đi tuần tra khắp nơi, cách chức những quan lại tham nhũng không làm tròn chức phận. Vua từng cho người đi tuần tra 52 châu ở Hà Bắc, cách chức hơn 200 tham quan, sau đó lại cắt giảm khoảng 3/10 số quan địa phương. Các quan chức theo phẩm cấp quan lại dựa theo cấp bậc được cấp 1-5 khoảnh (khoảnh = 100 mẫu) ruộng chức phận, phủ quan cấp ruộng công giải là ruộng cấp cho cơ quan nhà nước. Lại cho kiểm tra hộ tịch nghiêm ngặt, đồng thời cũng tiến hành cải cách chế độ hộ tịch, ra lệnh sửa lại hộ tịch, cứ 5 năm nhà là 1 bảo, 5 bảo là 1 lư, 4 lư là 1 tộc. Đầu năm Khai Hoàng cả nước có hơn 360 vạn hộ, diệt Trần xong tăng thêm 50 vạn hộ, sau đó tăng đến con số 870 vạn hộ. Nhờ dân số tăng nhanh nên nguồn thu nhập của nhà nước cũng tăng đáng kể. Năm 594, vì Quan Trung có nạn đói, Văn Đế dẫn theo những người bị đói chuyển sang ở Lạc Dương dồi dào lương thực, đồng thời xuống chiếu tự trách, kiêng rượu thịt trong một năm, gọi là san sẻ với người dân. Thấy tông miếu các triều Lương, Trần và Tề không được cúng tế, Văn Đế cho tiếp tế đồ cúng cho bọn Tiêu Tông, Trần Thúc Bảo và Cao Nhân Anh thực hiện cúng tế. Mùa xuân năm 596, ông ra lệnh rằng dân chúng nếu không phải ở gần biên giới thì không được lưu trữ và chế tạo vũ khí, để loại bỏ khả năng các hào tộc địa phương cát cứ. Đồng thời với việc quy định các quân nhân phải có quân tịch, và cùng nhập hộ tịch với gia quyến vào các châu, huyện, quân nhân cũng như thường dân được chia đất để cày cấy nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính quốc gia, mở rộng thêm nguồn quân lực.
Với Đột Quyết
Tuy Văn Đế không tiếp tục duy trì quan hệ hữu hảo với Đột Quyết, điều này khiến cho Sa Bát Lược Khả hãn A Sử Na Nhiếp Đồ rất tực giận, cộng với việc vợ ông ta là Công chúa Thiên Kim nhà Bắc Chu (con gái Vũ Văn Chiêu) - người rất căm hận họ Dương cướp ngôi và tàn sát gia tộc Vũ Văn - nói thêm vào. Vì thế Sa Bát Lược tổ chức một chiến dịch tấn công vào biên giới nhà Tùy, với sự hỗ trợ của Cao Bảo Ninh, tướng cũ của Bắc Tề đang đóng quân ở Doanh châu. Đáp lại, Văn Đế theo kế của Trưởng Tôn Thịnh, tặng lễ vật để xoa dịu cấp dưới của Sa Bát Lược là Đạt Đầu hãn A Sử Na Điếm Quyết, A Ba Hãn A Sử Na Đại Xiêm Tiện và A Sử Na Xử La Hầu - khiến bọn họ quay ra tranh chấp và không thống nhất với nhau, từ đó quân Đột Quyết suy yếu và không thể cùng thống nhất với nhau để đánh nhà Tùy.
Mùa xuân năm 583, nhận thấy mâu thuẫn trong nội bộ Đột Quyết ngày càng lớn, Văn Đế sai em là Vệ vương Dương Sảng dẫn quân bắc phạt đánh Đột Quyết và Cao Bảo Ninh. Dương Sảng giành được đặt thắng, và một cánh quân của ông ta do Âm Thọ cầm đầu đã tiêu diệt lực lượng của Cao Bảo Ninh, buộc ông ta phải chạy đến Khiết Đan nhưng rồi bị giết bởi thuộc hạ, kết thúc hoàn toàn hi vọng phục quốc của Bắc Tề. Sau trận chiến đó, các thủ lĩnh Đột Quyết bắt đầu nổi lên tranh bá với nhau, trong khi nhà Tùy tọa sơn quan hổ đấu, không viện trợ cho bên nào. Đến năm 584, vì những khó khăn trong ngoài, A Sử Na Nhiếp Đồ buộc phải xưng thần với Tùy Văn Đế, và Công chúa Thiên Kim, trong sự tức giận và ngậm ngùi, đã viết thư gọi Tùy Văn Đế là "cha". Ông bèn phong cho bà ta là Công chúa Đại Nghĩa.
Năm 593, khi biết là Công chúa Đại Nghĩa vẫn còn oán hận mình và nhiều lần kích động Đột Quyết xâm phạm biên cương, Văn Đế sai Trưởng Tôn Thịnh đến biên cương xem xét hành vi của công chúa, rồi về triều báo lại. Sau đó có Nội sử thị lang là Bùi Củ khuyên ông nên diệt trừ Đại Nghĩa để tránh mối hậu họa. Gặp lúc con trai của Xử La Hầu tên là Đột Lợi (giữ chức Khả hãn nhưng dưới quyền của Đại Khả hãn Đô Lam) sai sứ xin cầu hôn công chúa nhà Tùy, Văn Đế sai Củ đến bảo Đột Lợi giết Đại Nghĩa thì mới cho hòa thân. Đột Lợi gièm pha công chúa tư thông với người khác trước mặt Khả hãn Đô Lam, và Đô Lam cho giết chết công chúa và lại sai sứ sang Tùy cầu hôn một nàng công chúa khác. Các đại thần nhà Tùy thương nghị với nhau và quyết định đem công chúa gả cho Đột Lợi thay vì Đô Lam, để tạo ra mối mâu thuẫn giữa hai người này cho bọn người này ở, và cũng sai lính tới bảo hộ cho Khải Dân. Cũng lúc này, công chúa An Nghĩa chết, Văn Đế phong người tông nữ khác làm Công chúa Nghĩa Thành để gả cho Khải Dân. Không lâu sau đó, Đô Lam bị thuộc hạ giết chết, Đạt Đầu tự lập làm Khả hãn Bộ Già, khiến cả nước Đột Quyết đại loạn.
Năm 597, Thoán Ngoạn, thủ lĩnh của bộ lạc Nam Ninh Di), nổi lên tuyên chiến với nhà Tùy. Văn Đế sai đại tướng là Thái Bình công Sử Vạn Tuế đem quân đi đánh, buộc Thoán Ngoạn đầu hàng. Ban đầu, Sử Vạn Tuế định áp giải Thoán Ngoạn về Trường An dâng lên Văn Đế, nhưng Ngoạn khéo léo dùng vàng bạc mua chuộc, nên được phép ở lại Nam Ninh. Cũng năm 597, Lý Quang Sĩ, thủ lĩnh thổ dân ở Quế châu, cũng nổi loạn. Văn hoàng đế sai Thượng trụ quốc Vương Thế Tích và Tiền Tổng quản Quế châu Chu Pháp Thượng dẫn quân bình loạn, đánh bại và giết Lý Quang Sĩ. Vào mùa thu cùng năm, tại Quế châu lại có vụ khởi loạn của Lý Thế Hiền, Văn Đế lại sai Lỗ công là Ngu Khánh Tắc đem quân đi đánh, bình dẹp được cuộc nổi loạn. Quân Cao Câu Ly kiên cường chống trả trên cả hai mặt trận khiến quân Tùy không sao tiến lên được. Giữa lúc đó, Anh Dương Vương rút quân đội ở Doanh châu trở về, Tùy Văn Đế coi đó là động thái tỏ ý thần phục của Cao Câu Ly, nên cũng lui quân. Văn Đế cũng không xuất quân đánh Cao Câu Ly nữa vì lúc này Cao Câu Ly đang xung đột với Bột Hải Uy Đức Vương, người hỗ trộ nhà Tùy trong chiến tranh . Vua của Vạn Xuân là Lý Phật Tử đầu hàng nhà Tùy, bắt đầu Thời kì Bắc thuộc lần thứ ba của Việt Nam.
Diệt Tây Lương và Trần thống nhất Trung Quốc
right|thumb|Lược đồ các cánh quân Tùy đánh Trần
Năm 581, Tùy Văn Đế chuẩn bị đem quân đánh Trần, tuy nhiên sau khi nghe tin vua nước Trần là Trần Húc bị bệnh chết, ông hạ lệnh triệt quân vì cho rằng không nên nhân nước địch vừa mất vua mà đánh chiếm. Năm 582, cho rằng kinh đô Trường An quá nhỏ bé, Văn Đế cho xây dựng cung điện mới ở một đô thị gần đó, ông đặt tên là Đại Hưng, và từ mùa xuân năm 583 ông dời sang Đại Hưng. Từ thời điểm này trở đi, Đại Hưng và Trường An là hai cái tên có thể hoán đổi cho nhau, và đến thời nhà Đường, kinh đô mới này chính thức cũng có tên là Trường An.
Cũng năm 582, Văn Đế vì tưởng thưởng cho nước chư hầu Tây Lương vì đã không ủng hộ Uất Trì Huýnh khởi binh năm trước, nên triệt thoái quân Tùy đóng ở Giang Lăng về, cho phép Tây Lương trở thành một nước bán độc lập. Ông cũng hỏi cưới con gái của Tây Lương Minh Đế là Tiêu thị làm vợ của người con trai thứ của ông, Tấn vương Dương Quảng, chú và em trai của Tiêu Tông là Tiêu Nham và Tiêu Hoàn nghi ngờ quân Tùy có ý chiếm thành, do đó dẫn người trong thành sang đầu hàng Trần Thúc Bảo của Nam triều. Đáp lại, Văn hoàng đế bãi bỏ Tây Lương, sáp nhập trực tiếp vào Đại Tùy, giáng Lương đế làm Cử quốc công. Khi đó ông đang có ý định diệt Trần, sau khi diệt Lương thì càng ráo riết chuẩn bị.
Theo kế của các mưu sĩ, quân Tùy cứ đến mùa gặt thì tập kết người ngựa ở biên giới, làm như chuẩn bị tấn công, khiến dân miền nam hoang mang lo sợ, không dám đi gặt lúa. Chờ đến khi quân Trần tập hợp đầy đủ thì quân Tùy thối lui không đánh nữa. Cứ như vậy suốt 6, 7 năm, nền nông nghiệp bị ảnh hưởng, mà sự cảnh giác của quân Trần cũng lơi lỏng đi rất nhiều. Nhà Tùy còn thỉnh thoảng cho các cánh quân nhỏ tập kích, đốt phá vào các kho lương thực của Trần, khiến thực lực của Trần bị sứt mẻ.
Mùa xuân năm 588, Văn Đế hạ lệnh công Trần, cử Tấn vương Dương Quảng thống lĩnh đại quân, cùng với Tần vương Dương Tuấn, Việt công Dương Tú đi theo đoàn quân, Cao Quýnh làm Nguyên soái Trưởng sử, cố vấn cho Dương Quảng. Lại vạch ra 20 tội ác của Trần Hậu Chủ, phân phát khắp Giang Nam, khiến lòng người nhốn nháo. Mùa xuân năm 589, tướng Tùy là Hạ Nhược Bật vượt Trường Giang tại Kinh Khẩu, một tướng khác là Hàn Cầm Hổ vượt sông tại Thái Thạch). Trong khi đó, Dương Tố cũng tiến quân từ phía tây, và Dương Tuấn đóng quân ở vùng trung ngạn dòng sông, ngăn cách các cánh quân Trần ứng cứu cho quốc đô Kiến Khang. Hạ Nhược Bật nhanh chóng đánh bại và bắt sống các tướng Trần là [Tiêu Ma Ha]ư, và tiến quân vào Kiến Khang. Kiến Khang thất thủ, Trần Thúc Bảo bị bắt sống song không bị giết mà được chuyển tới Trường An, được nhà Tùy đối xử rộng rãi. Một vài tướng Trần vẫn còn chống cự, song nhà Tùy không mất quá nhiều thời gian để đánh dẹp hết. Tương tự với số phận của Nghiệp Thành, Văn Đến do phá hủy thành Kiến Khang, chỉ dựng một đồn trú quân nhỏ ở Tương châu.
Như vậy, đất nước Trung Quốc kể từ khi chia cắt nam bắc năm 316, trải qua hơn 270 năm mới lại được thống nhất về tay nhà Tùy.
Chính sự suy bại
Sau khi nước Trần diệt vong, Tùy Văn Đế đã nạp em gái của Trần Thúc Bảo là Trần Tuyên Hoa cùng một người phụ nữ khác ở Kiến Khang là Thái Dung Hoa vào cung, tuy nhiên vì e sợ Độc Cô hoàng hậu, ông không bao giờ dám đến gần Thái phu nhân, còn Trần phu nhân dường như thỉnh thoảng có được sủng hạnh, nhưng không có đủ bằng chứng minh chứng cho việc này.
Năm 590, có lẽ vì ganh tị với tài nghệ của quan đại thần Lý Đức Lâm, người nắm nhiều quyền lực trong triều và có đóng góp công lớn trong việc chinh phạt Trần, Văn Đế đã nghe theo lời gièm pha và giáng chức Lý Đức Lâm xuống làm Thứ sử Hoài Châu. Đức Lâm từ đó về sau không bao giờ được trở về triều đình nữa.
Năm 593, Tùy Văn Đế cho xây dựng cung điện mùa hè, gọi tên là Cung Nhân Thọ, giao cho Dương Tố phụ trách đôn đốc. Cung này cách thành Đại Hưng ở Trường An hơn 200 dặm. Trên đường đến cung còn cho xây thêm 12 tòa li cung. Dương Tố hết sức hà khắc, khiến người đi phu quá sức mà chết đến cả vạn người, lại đẩy thây xuống hố, lấy đất đá lấp lại. Mùa xuân năm 595, cung điện được xây xong, Văn Đế đích thân thị sát, thấy quá ư xa hoa tráng lệ, không hợp với chính sách tiết kiệm mà mình đề ra, nên trách cứ Dương Tố. Độc Cô hoàng hậu bênh vực cho Tố, giải thích rằng Hoàng đế cũng cần có chỗ tiêu khiển, và Tố làm vậy cũng chỉ là tỏ lòng trung thành, cho nên Tố chẳng những không bị phạt mà còn được trọng thưởng nữa.
Cuối năm 594, Dương Quảng dâng biểu xin tế trời ở Thái Sơn. Đây là một nghi lễ truyền thống của đế vương Trung Quốc, nhưng đã nhiều năm không có ai thực hiện. Lúc này Văn Đế đang chủ trương tiết kiệm, nên không chấp nhận làm lễ tế vì quá tốn kém. Tuy nhiên mùa xuân 595, vì cầu phước cho dân đói, Hoàng đế cho tổ chức tế trời với một nghi lễ đơn giản.
Lỗ quốc công Ngu Khánh Tắc sau khi bình dẹp Lý Thế Hiền ở Quế châu trở về, thì xảy ra vụ oan án và bị giết. Vốn anh rể của Khánh Tắc là Triệu Thập Trụ sợ mình có gian tình với ái thiếp của Khánh Tắc sẽ bị Khánh Tắc trả thù, liền vu cáo Khánh Tắc mưu phản. Đầu năm 598, nhà Tùy giết Khánh Tắc, mà dùng Thập Trụ làm chức Trụ quốc, người bị sử sách đánh giá là xa xỉ và mê gái, bị người vợ đố kị là Thôi thị (con gái Thôi Hoằng Độ) hạ độc, nên sinh bệnh tật (nhưng chưa chết) và được ân chuẩn trở về kinh sư. Ít lâu sau, Văn Đế điều tra ra những hành vi xa xỉ của Dương Tuấn trong lúc làm Tổng quản ở Tịnh châu, đã cách hết chức tước của ông ta, dù vẫn cho giữ tước Vương. Khi âm mưu của Thôi phi bị vạch trần, Văn Đế lệnh Dương Tuấn li dị Thôi phi, rồi buộc bà ta tự sát. Khi Tả Vũ vệ tướng quân là Lưu Thăng cùng Việt quốc công Dương Tố cho rằng hình phạt cho Dương Tuấn là quá nặng tay, Văn Đế đáp rằng.
Kết cục bi ai
[[Tùy Dạng Đế Dương Quảng bị cho là người chủ mưu sát hại phụ thân]]
Năm 600, con thứ hai của Văn Đế là Tấn vương Dương Quảng mưu hại Thái tử Dương Dũng, bàn mưu với Dương Tố tính bề hành sự. Lại liên kết với một số tay chân trong Đông cung, vu cáo với Văn Đế rằng Dũng có ý tạo phản. Dương Quảng lệnh cho Đốc Vương Phủ quân Cô Tang quan sát hành động của Dương Dũng, đồng thời đút lót cho thân cận của Dũng là Cơ Uy, Uy bèn dâng thư tố cáo Dương Dũng lên Văn Đế. Tháng 9 năm 600, Dương Tố lại tố cáo Dương Dũng. Văn Đế theo kế của Tố, sai Dương Dũng kiểm tra dư đảng loạn tặc. Dương Tố sai người đến quan sát, rồi bí mật tố cáo Dương Dũng khích bọn họ làm loạn. Tháng 10, Văn Đế truất Dương Dũng cùng các con xuống làm Thứ nhân, lập Dương Quảng làm Thái tử. Lúc đó đất trời bỗng dưng có địa chấn. Phế thái tử Dương Dũng bị đặt dưới sự kiểm soát của Dương Quảng, và Dương Quảng tìm cách cản trở không cho Dương Dũng được gặp cha mẹ. Nhiều quan đại thần bị nghi là phe đảng của Dương Dũng, bao gồm Sử Vạn Tuế và Nguyên Mân, đều bị xử tử.
Năm 602, Độc Cô hoàng hậu chết, Tùy Văn Đế cực kỳ đau buồn rồi bắt đầu sủng hạnh hai phu nhân Trần, Thái.
Cũng năm đó, Dương Quảng lo sợ Dương Tú ở Ích Châu sẽ gây rắc rối cho mình, bèn sai Dương Tố kiếm bằng chứng nói Dương Tú tham ô và sử dụng các nghi thức giống như hoàng đế. Văn Đế tin lời gian thần, sai triệu hồi Dương Tú về kinh. Khi Tú về tới, Dương Quảng đưa ra những bằng chứng cho thấy Dương Tú ngấm ngầm nguyền rủa Văn Đế và Dương Lương. Văn Đế trong cơn giận dữ, lột bỏ chức tước của Dương Tú và giam giữ tại nhà. Ở cung Nhân Thọ, ông lâm bệnh, và qua đời vào ngày 23 tháng 8 cùng năm ở một cung điện tên là Đại Bảo, hưởng thọ 64 tuổi. Mà theo Đại nghiệp lược kí thì cung phi trong câu chuyện là Thái Dung Hoa chứ không phải Trần Tuyên Hoa. Họ cũng chỉ ra rằng các chứng cứ kia cũng có thể bác lại được: Vì sao Liễu Thuật, Nguyên Nham không bị giết dù họ biết sự thật. Tuy nhiên, việc Dương Quảng giết cha là Dương Kiên dường như đã trở thành một sự thật trong nhận thức của người Trung Quốc rồi.
Tùy Dượng Đế Dương Quảng sau khi lên ngôi, thi hành chính sách bạo ngược khiến lòng dân bất mãn, các nơi lần lượt khởi nghĩa chống lại chính quyền, cuối cùng dẫn đến sự diệt vong của nhà Tùy 14 năm sau (618).
Đánh giá
Tùy Văn Đế là vị hoàng đế có công kết thúc cục diện cát cứ phân tranh 250 năm của Trung Quốc, kể từ thời Đông Tấn, và đưa Trung Quốc bước vào một giai đoạn thái bình, thịnh vượng, nhiều cải cách của ông có ảnh hưởng sâu rộng đến triều Đường, Tống, và các triều đại sau này của Trung Quốc.
Về phương diện hành chính, Tùy Văn Đế cải cách cơ cấu hành chính, áp dụng chế độ tam tỉnh lục bộ và cơ cấu tinh giản, cải cách thải bỏ quan tham, mạnh dạn thực thi, có cái bỏ đi, có cái được mới, có lợi cho việc tăng cường chế độ chính trị tập quyền trung ương phong kiến. Chính sách của ông ảnh hưởng sâu sắc đến hình thức chính quyền phong kiến ở những đời sau.
Tùy Văn Đế bãi bỏ chế độ Cửu phẩm Trung chính, áp dụng chế độ đề cử và khoa cử cùng kết hợp trong việc tuyển chọn quan lại, đã đặt cơ sở cho chế độ khoa cử được áp dụng trong suốt hơn một ngàn năm sau này. Ông đã mạnh dạn thu hút những nhân tài địa chủ thứ tộc vào cơ cấu chính quyền, tăng thêm sức mạnh quyền lực của triều đình, kết thúc thời kì địa chủ cường hào lũng đoạn chính quyền đã tồn tại hàng trăm năm. Ông lấy bản thân mình làm gương, nghiêm túc quản lý quan lại, nên rất được lòng dân, làm cho chính quyền lớn mạnh.
Về kinh tế - xã hội, Tùy Văn Đế đã áp dụng hàng loạt những biện pháp hữu hiệu, thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển với tốc độ cao. Văn đế thực hành chế độ quân điền, đã nâng cao tinh thần tích cực sản xuất của nông dân. Ông thực hành giảm bớt bóc lột và kiểm tra hộ khẩu, càng có tác dụng to lớn đối với việc phát triển kinh tế và tăn cường quốc lực. Sử sách ghi nhận thời Khai Hoàng, giá gạo rẻ chưa từng thấy, lương thực nhiều đến mức chất kho không hết, mục nát rất nhiều. Năm Trinh Quán thứ 11 nhà Đường (637), Mã Chu nói với Đường Thái Tông: :Nhà Tùy làm để dành ở Lạc Khẩu, Lý Mật đã nhân đó mà dùng; những kho tàng ở Tây Kinh đều được Nhà nước sử dụng, đến nay chưa hết.
Tùy Văn Đế còn mở mang tư tưởng, văn hóa và chính sách dân tộc, đã thúc đẩy sự phồn vinh về tư tưởng, văn hóa và hòa hợp dân tộc. Sự thống nhất của nhà Tùy đã kết thúc những nguyên nhân chính trị gây trở ngại cho sự phát triển của tư tưởng và văn hóa trong một thời gian dài. Tư tưởng thống trị của Văn Đế là tổng hợp, ông đã kế thừa những phương sách thống trị kiêm dụng cả Nho gia và Pháp gia sau thời Hán đồng thời đưa thêm nhiều nhân tố của Phật gia, Đạo gia, điều đó làm cho chính sách văn hóa của ông rất đa dạng, rất ít nghiêng về một phái nào.
Dưới sự cai trị của ông, học giả của các phái đua nhau tiếp nhận học trò để giảng dạy, viết nhiều sách, nghiên cứu học vấn, không khí học thuật rất sôi động và đã cho ra đời nhiều tác phẩm học thuật có ảnh hưởng sâu xa như Thiết vận, Kinh điển thích văn. Ông xuất phát từ nguyên tắc đại nhất thống, áp dụng chính sách đồng thời sử dụng văn trị võ công, cổ vũ hòa hợp dân tộc, tranh thủ sự quy phục của các chư hầu, ổn định các vùng biên cương của Vương triều Tùy, có ảnh hưởng nhất định đến chính sách dân tộc của nhà Đường sau này.
Tuy nhiên trong thời gian cai trị, ông cũng phạm phải nhiều sai lầm, mà nghiêm trọng nhất trong số đó là trao giang sơn cho một người thiếu tư cách đạo đức và tầm nhìn lãnh đạo sáng suốt như Dương Quảng (Tùy Dạng Đế). Về chính sự, ông tuy có cần mẫn nhưng lại quá khắt khe, đa nghi, không tín nhiệm trọng thần, lại thường nghe lời siểm nịnh. Đường Thái Tông Lý Thế Dân, vị minh quân tại vị khoảng 30 năm sau thời đại của ông, có lời bình rằng :Tùy Văn Đế không hề anh minh mà rất khắt khe. Không anh minh tất có nhiều việc không nhìn thấy được, khắt khe thì tất lại đa nghi. Ông ta không tin cậy quần thần, mọi việc dù lớn dù nhỏ đều tự do mình quyết định, tưởng như thế mới có thể yên tâm được. Thiên hạ lớn như thế, sự tình nhiều như thế dù có cẩn thận từng li, chịu khó nhẫn nại tới mấy nhưng làm sao có thể việc gì cũng chính xác hết được. Quần thần đã biết tính ông ta nên chỉ chờ đợi quyết định, có khi tuy cảm thấy ý kiến của ông ta không đúng cũng chẳng dám nói, càng không dám tranh luận...
Bản thân Dương Kiên cũng là quyền thần cướp ngôi, cho nên ông luôn coi việc giành ngôi của mình là một bài học kinh nghiệm, luôn đề cao cảnh giác với những quan lại cấp cao bên cạnh. Cho đến cuối đời, văn thần võ tướng theo giúp ông từ ngày khai quốc đã bị tiêu diệt gần hết, tất cả họ đều hi sinh bởi lòng đố kị của Dương Kiên.
Sử gia Tư Mã Quang, trong tác phẩm lịch sử Tư trị thông giám của mình, vừa khen ngợi cũng vừa chê trách Tùy Văn Đế, với lập luận như sau cũng đã có 100 vạn nhà. Tuy vậy, tính nghi kị, hiếu sát, và hay nghe lời sàm ngôn, đến mức công thần cố cựu đều không thể bảo toàn. Đến cả con em ruột thịt, mà cuối cùng thành ra cừu địch. Đó là chỗ sở đoản vậy.''
Cuối thời Bắc Chu, Tề vương Vũ Văn Hiến trong biểu tấu xin Bắc Chu Vũ Đế giết Phổ Lục Như Kiên, có nói về ông: tướng mạo phi thường, tính người giảo trá, mỗi lần thấy thần đều mất hồn mất vía.
Gia đình
- Cha: Dương Trung (杨忠; 507 - 568), sau được truy tôn Thái Tổ Vũ Nguyên hoàng đế (太祖武元皇帝).
- Mẹ: Lữ Cổ Đào (吕苦桃), sau truy thụy là Nguyên Minh hoàng hậu (元明皇后). Con gái của Thượng trụ quốc Lữ Song Chu (呂双周) và Tề Quận phu nhân Diêu thị (齐郡夫人姚氏).
- Anh chị em
Thái Cảnh vương Dương Chỉnh
Đằng Mục vương Dương Toản
Đạo Tuyên vương Dương Trung
Vệ Chiêu vương Dương Sảng
An Thành công chúa
Xương Lạc công chúa
Dương thị, lấy Lý Lễ Thành
- Thê thiếp:
Văn Hiến hoàng hậu Độc Cô Già La (文獻皇后獨狐伽羅, 544 - 602), con gái Độc Cô Tín.
Tuyên Hoa phu nhân Trần thị (thiếp)(宣華夫人陳氏, ? - 605), nguyên là Ninh Viễn công chúa (寧遠公主) - con gái thứ 14 của Trần Tuyên Đế.
Dung Hoa phu nhân Thái thị(thiếp)(容華夫人蔡氏).
- Con cái: Tất cả đều do Độc Cô Già La sinh ra
Dương Lệ Hoa (楊麗華) [561 - 609], tức Lạc Bình công chúa (樂平公主), là Hoàng hậu của Bắc Chu Tuyên Đế.
Tương Quốc công chúa (襄国公主), lấy Lý Trường Nhã (李長雅).
Phế Thái tử Dương Dũng [房陵王杨勇; ? - 604], tự Hiển Địa Phạt (睍地伐), Thái tử đầu tiên của nhà Tùy được phong từ năm 581. Sau thì bị Dương Quảng gièm pha, hại chết.
Tùy Dượng Đế Dương Quảng [楊廣, 569 - 618], tự A Ma (阿𡡉), sơ phong Tấn vương (晋王).
Quảng Bình công chúa (廣平公主), lấy Vũ Văn Tĩnh Lễ (宇文靜禮).
Tần Hiếu vương Dương Tuấn [秦孝王楊俊, 571 – 600], tiểu danh A Chi (阿祗).
Con gái chết non
Thục vương Dương Tú [蜀王楊秀, 573 – 618], phong tước Việt vương (越王) năm 581, cải phong Thục vương năm 581. Khi Thái tử Dương Dũng bị phế, tỏ ý bất mãn với Nhị huynh Dương Quảng, nên bị Dương Quảng cùng Dương Tố lập mưu đổ tội. Năm 602, bị khép tội mưu phản, giáng làm thứ dân, sau bị Vũ Văn Hóa Cập giết.
Lan Lăng công chúa (蘭陵公主, 573 - 604), tên gọi Dương A Ngũ (楊阿五), thoạt đầu hạ giá Vương Phụng Hiếu (王奉孝), sau cải giá Liễu Thuật (柳述).
Hán vương Dương Lượng [漢王楊諒, 575 – 605], tự Đức Chương (德章), bị giáng làm thứ dân năm 604.
Phim ảnh