Vương Nghị (chữ Hán: 王誼, 540 – 585), tự Nghi Quân, hộ tịch ở Lạc Dương, Hà Nam , đại thần nhà Bắc Chu cuối thời Nam-Bắc triều, đầu nhà Tùy.
Thân thế
Tổ tiên của Nghị là người quận Lạc Lãng. Ông tổ 8 đời là Vương Ba, làm đến Thái tể nhà Tiền Yên.
Ông kỵ là Vương Trân, làm đến Hoàng môn thị lang nhà Bắc Ngụy, được tặng chức Tịnh Châu thứ sử, Lạc Lãng công. Ông cụ là Vương Bi, làm đến Phục ba tướng quân, nằm trong số con em nhà lành được đưa đi coi giữ ở trấn Vũ Xuyên, rồi định cư ở đấy.
Không rõ ông nội của Nghị là ai; ông chú của ông chính là Vương Minh – danh thần nhà Tây Ngụy; bà cô của ông là mẹ đẻ của Vũ Văn Thái – quyền thần nhà Tây Ngụy, được truy tôn Minh Đức hoàng hậu.
Cha là Vương Hiển, từ nhỏ thông minh nhạy bén, tính trầm tĩnh ít nói. Ban đầu Hiển làm Trướng nội đô đốc của quyền thần Vũ Văn Thái, dần được thăng đến Phiếu kỵ đại tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư, Quang lộc khanh, Phượng Châu thứ sử; ban tước Lạc Ấp huyện công, tiến vị Đại tướng quân.
Phục vụ nhà Bắc Chu
Nghị tử nhỏ khẳng khái, có chí lớn, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, đọc khắp sách vở. Thời Hiếu Mẫn đế, Nghị được làm Tả trung thị thượng sĩ. Bấy giờ quyền thần Vũ Văn Hộ lấn át hoàng đế, Hiếu Mẫn đế chịu bó tay không thể làm gì. Có kẻ triều thần tỏ ra không cung kính đối với hoàng đế, Nghị nổi giận xông đến, sắp đánh hắn ta; triều thần ấy hoảng sợ nhận tội, ông mới thôi. Từ bấy giờ triều thần không dám thiếu cung kính với hoàng đế. Hơn năm sau, Nghị được thăng làm Ngự chánh đại phu.
Nghị gặp tang cha, thương xót quá độ, làm chòi ở bên mộ, nhờ bọn sĩ phu đắp mả. Hơn năm sau, Nghị được khởi bái làm Ung Châu biệt giá, cố từ chối nhưng không được.
Vũ đế nối ngôi, Nghị được chức Nghi đồng, dần thăng đến Nội sử đại phu, phong Dương quốc công. Nghị tham gia tiến đánh Bắc Tề, đến Tịnh Châu, Vũ đế đã vào thành, lại bị quân Tề đánh bật ra, tả hữu phần nhiều tử trận; ông soái quân Kiêu Hùng dưới quyền đến, bảo vệ Vũ đế an toàn quay về. Bấy giờ Vũ đế cho rằng toàn quân thất bại, muốn rút lui; Nghị cố can ngăn, đế nghe theo. Đến khi diệt nước Tề, Nghị được thụ chức Tương Châu thứ sử. Chưa được lâu, Nghị được triệu về làm Đại nội sử.
Tộc Kê Hồ ở Phần Châu nổi dậy, Nghị soái binh đánh dẹp. Bấy giờ các em của Vũ đế là Việt vương Vũ Văn Thịnh, Tiếu vương Vũ Văn Kiệm dẫu làm Tổng quân, nhưng đều chịu sự chỉ huy của Nghị, cho thấy đế xem trọng ông như thế nào! Đến khi dẹp xong khởi nghĩa trở về, Nghị được ban 5000 tấm lụa, phong một con trai làm Khai quốc công.
Vũ đế lâm băng, nói với thái tử Vũ Văn Uân: "Vương Nghị là bề tôi xã tắc, cần đặt ở Cơ mật, không nên nhậm chức xa." Vũ Văn Uân nối ngôi, tức là Bắc Chu Tuyên đế, ghét tính cương trực của Nghị, đưa ông ra làm Tương Châu tổng quản. Đến khi Dương Kiên làm thừa tướng, chuyển Nghị làm Trịnh Châu tổng quản.
Tư Mã Tiêu Nan dấy binh chống lại Dương Kiên, Nghị được làm Hành quân nguyên soái, soái 4 tổng quản đánh dẹp. Quan quân mới đến cõi, Tiêu Nan đã sợ chạy sang nước Trần. Khi ấy khu vực bắc đến Thương Lạc, nam phạm Giang Hoài, đông – tây hơn 2000 dặm, người Man ở quận Ba phần nhiều nổi dậy, cùng nhau tôn Cừ soái Lan Lạc Châu làm chúa. Lan Lạc Châu tự đặt hiệu là Hà Nam vương, hưởng ứng Tư Mã Tiêu Nan, còn kiên kết với Úy Trì Huýnh ở phía bắc. Nghị soái bọn Hành quân tổng quản Lý Uy, Phùng Huy, Lý Viễn chia ra đánh dẹp, trong tuần trăng đều bình định được.
Dương Kiên cho rằng Nghị là bề tôi của đời trước, đối với ông lại càng kính trọng, sai sứ thăm hỏi, sứ giả đi lại không ngớt. Dương Kiên lấy con gái thứ 5 gả cho con trai của Nghị là Vương Phụng Hiếu, sau đó bái ông làm Tư đồ. Nghị tự nhận mình với Dương Kiên là bạn học cũ, cũng bằng lòng quy phục ông ta.
Phục vụ nhà Tùy
Đến khi Dương Kiên thay ngôi Bắc Chu Tĩnh đế, tức là Tùy Văn đế, đãi ngộ Nghị càng trọng hậu, đích thân đến thăm nhà của ông, đôi bên vô cùng vui vẻ. Thái thường khanh Tô Uy bàn rằng đất cày không đủ, đòi cắt đất của công thần để trao cho dân, Nghị đứng ra phản đối, Văn đế đành nghe theo. Năm Khai Hoàng đầu tiên (581), Văn đế muốn thăm Kỳ Châu, Nghị can ngăn, cho rằng nhà Tùy mới dựng, lòng người chưa yên, không nên đi; Văn đế đùa rằng khi xưa mình với Nghị ngang hàng, một sớm thức dậy đã trở nên vua – tôi khác biệt, nay đi chuyến này là để tuyên dương oai võ, thu phục lòng dạ những người như Nghị, ông bật cười mà lui ra. Sau đó Nghị đi sứ Đột Quyết, được Văn đế khen là xứng với chức trách, cho tiến phong Dĩnh quốc công.
Ít lâu sau, Vương Phụng Hiếu mất. Sang năm, Nghị dâng biểu, cho rằng Ngũ công chúa còn ít tuổi, xin cho cô ấy cởi tang. Ngự sử đại phu Dương Tố hặc Nghị đẩy công chúa vào chỗ bất nghĩa, Văn đế giáng chiếu bỏ qua, nhưng đãi ngộ ông kém đi. Nghị rất bất mãn, có người tố cáo ông mưu phản, Văn đế lệnh cho làm án để tra xét; quan viên phụ trách vụ án tâu rằng Nghị nói năng quá đáng, nhưng không có mưu phản, Văn đế ban rượu rồi thả ông ra. Đến khi Thượng trụ quốc Nguyên Hài cũng bất mãn, Nghị đi lại với ông ta, bàn luận bêu xấu triều đình. Hồ Tăng cáo giác họ, công khanh tâu rằng hành vi của Nghị là đại nghịch bất đạo, tội đáng chết. Văn đế tỏ ra thượng tôn pháp luật, sai Đại Lý chánh Triệu Xước ban chết cho Nghị ở nhà, bấy giờ ông được 46 tuổi.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Nghị** (chữ Hán: 王誼, 540 – 585), tự Nghi Quân, hộ tịch ở Lạc Dương, Hà Nam , đại thần nhà Bắc Chu cuối thời Nam-Bắc triều, đầu nhà Tùy. ## Thân thế Tổ
**Vương Thông** (chữ Hán: 王通, 584 – 617), tên tự là **Trọng Yêm**, thụy hiệu **Văn Trung Tử**, ngoại hiệu **Vương Khổng Tử**, người ở trấn Thông Hóa huyện Long Môn quận Hà Đông, nho
**Nhà Tùy** (, 581-619) là một triều đại trong lịch sử Trung Quốc, kế thừa Nam-Bắc triều, theo sau nó là triều Đường. Năm 581, Tùy Văn Đế Dương Kiên thụ thiện từ Bắc Chu
**Lý Cảnh** (chữ Hán: 李景, ? – 618) tự **Đạo Hưng**, người huyện Hưu Quan, quận Thiên Thủy , tướng lãnh nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp Cha là Lý Siêu,
**Lý An** (chữ Hán: 李安,? – ?), tự **Huyền Đức**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , tướng lãnh nhà Bắc Chu và nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Nguyên Hùng** (chữ Hán: 源雄, ? – ?), tự **Thế Lược**, người huyện Lạc Đô quận Tây Bình , quan viên nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu cuối thời Nam bắc triều và nhà Tùy.
**Triệu Tài** (chữ Hán: 赵才, 547 – 619), tự **Hiếu Tài**, người quận Tửu Tuyền , tướng lãnh nhà Tùy. Gần trọn sự nghiệp, Tài làm túc vệ cho Tùy Dượng đế Dương Quảng, từ
**Vương Mãnh** (chữ Hán: 王猛, ? – ?) tự Thế Hùng, người Lâm Nghi, Lang Da , tướng lãnh nhà Trần đời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Mãnh vốn
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**Tùy Văn Đế** (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu **Tùy Cao Tổ**, tên Hán là **Dương Kiên** (楊堅), tên Tiên Ti là **Fuluruqen** (普六茹堅, Phổ Lục Như
nhỏ|展覽於國立臺灣師範大學圖書館之隋經籍志考證刊本 **Tùy thư** (chữ Hán giản thể: 隋书; phồn thể: 隋書; bính âm: Suí shū) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_)
**Vương Thế Sung** (? - 621), tên tự **Hành Mãn** (行滿), là một tướng lĩnh của triều Tùy. Ông là một trong số ít các tướng Tùy đã đánh bại được các đội quân khởi
**Vương Vũ Tuấn** (chữ Hán: 王武俊, bính âm Wang Wujun, 735 - 9 tháng 8 năm 801), tên tự là **Nguyên Anh** (元英), bản danh **Một Nặc Hàn** (沒諾幹), thụy hiệu **Lang Nha Trung Liệt
**Quách Tử Nghi** (chữ Hán: 郭子儀; 5 tháng 9, 697 – 9 tháng 7, 781), là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
**Lý Khác** (chữ Hán: 李恪; 619 - 10 tháng 3, 653), thông gọi **Ngô vương Khác** (吴王恪), biểu tự **Khư** (厶), là một thân vương và tướng lĩnh thời nhà Đường. Ông là hoàng tử
**Văn Hiến hoàng hậu** (chữ Hán: 文獻皇后, 544 - 10 tháng 9, 602), hay thường gọi **Độc Cô hoàng hậu** (獨孤皇后), là vị Hoàng hậu duy nhất dưới thời Tùy Văn Đế Dương Kiên, vị
**Lý Viện** (chữ Hán: 李瑗, 586 – 626), tự **Đức Khuê**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , hoàng thân nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông cụ là Thái
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志), tướng lãnh đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Tham gia khởi nghĩa Chí (sanh năm ngày 9 tháng 1 ÂL năm 1335 – mất ngày 17 tháng
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
Quốc giáo của nhà Thương () là một tôn giáo cổ đại của Trung Quốc, trong đó các tín đồ được đào tạo giao tiếp với nhiều vị thần, bao gồm tổ tiên và các
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Thể chế chính trị nhà Triều Tiên** được vận hành theo chế độ quan liêu tập quyền, dựa trên lý tưởng Nho giáo Tính Lý Học (성리학) làm nền tảng. Về lý thuyết, vua Triều
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Vua Tây Ban Nha** (), hiến pháp gọi là **Ngôi vua** (la Corona) và thường được gọi **chế độ quân chủ Tây Ban Nha** (Monarquía de España) hoặc **chế độ quân chủ Hispanic** (Monarquía Hispánica)
**Lãnh địa vương quyền** (tiếng Anh: _Crown Dependencies_; tiếng Pháp: _Dépendances de la Couronne_; tiếng Man: _Croghaneyn-crooin_) là lãnh thổ đảo thuộc Quần đảo Anh, hưởng quyền tự trị rộng rãi dưới quyền quản lý
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
thumb|right|"Tart cards" trong các hòm điện thoại quảng cáo dịch vụ của những cô gái gọi điện ở Luân Đôn (một thực hành bất hợp pháp, nhưng từng phổ biến). thumbnail|Một cửa hàng quảng cáo
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**Cơ mật viện Tôn kính nhất Quốc vương Bệ hạ** (), thường được gọi là **Cơ mật viện Anh**, là cơ quan tư vấn chính thức cho quân chủ của Vương quốc Liên hiệp Anh
**Sao Diêm Vương** (**Pluto**) hay **Diêm Vương tinh** (định danh hành tinh vi hình: **134340 Pluto**) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
**Lý Mật** (; 582 – 619), biểu tự **Huyền Thúy** (玄邃), lại có tự **Pháp Chủ** (法主), là một thủ lĩnh nổi dậy chống lại sự cai trị của triều Tùy. Ban đầu, ông là
**Vương Dung** (, 877?-921), là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và sau trở thành người cai trị duy nhất của nước Triệu thời Ngũ Đại Thập Quốc. Thời Đường, Vương Dung thoạt
**Isabel Clara Eugenia của Tây Ban Nha** (; 12 tháng 8 năm 1566 - 1 tháng 12 năm 1633) là nhà cai trị của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha ở Vùng đất thấp và
**Vương Tiễn** (chữ Hán: 王翦; 304 TCN-214 TCN) là đại danh tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc, có công đánh dẹp các nước chư hầu ở Sơn Đông giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất
**Nhà Lương** () (502-557), còn gọi là **nhà Nam Lương** (南梁), là triều đại thứ ba của Nam triều trong thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc, sau thời kỳ của triều đại Nam Tề
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李賢, 29 tháng 1, 655 - 13 tháng 3, 684), biểu tự **Minh Doãn** (明允), theo mộ chí thì biểu tự của ông là **Nhân** (仁), được biết đến với thụy
nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến **Vương Kiến** (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự **Quang Đồ** (光圖), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Thục Cao
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 464 - 501), tên tự là **Cung Ý**, người Lâm Nghi, Lang Tà , đại thần, tướng lĩnh, ngoại thích nhà Bắc Ngụy. ## Thân thế Vương Túc là hậu
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền