Lý Cảnh (chữ Hán: 李景, ? – 618) tự Đạo Hưng, người huyện Hưu Quan, quận Thiên Thủy , tướng lãnh nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc.
Khởi nghiệp
Cha là Lý Siêu, được làm đến Ứng, Nhung 2 Châu thứ sử nhà Bắc Chu. Cảnh có dung mạo kỳ vĩ, sức lực hơn người, mày râu đẹp đẽ, lại còn kiêu dũng thiện xạ. Trong chiến địch đánh Bắc Tề, Cảnh có công lao, được thụ làm Nghi đồng tam tư. Sau khi đánh dẹp Uất Trì Huýnh, nhờ công được tiến vị Khai phủ, ban tước Bình Khấu huyện lệnh, thực ấp 1500 hộ.
Phụng sự Tùy Văn đế
Năm Khai Hoàng thứ 9 (590) nhà Tùy, Cảnh được nhận chức Hành quân tổng quản theo Vương Thế Tích đánh nhà Trần, nhờ công được tiến vị Thượng khai phủ, ban nô tỳ 60 người, 1500 tấm lụa. Đến khi bọn Cao Trí Tuệ nổi dậy ở Giang Nam, Cảnh lại được nhận chức Hành quân tổng quản theo Dương Tố đánh dẹp, có riêng công lao bình định Thương lĩnh, trở về được thụ chức Phu Châu thứ sử.
Năm thứ 7 (598), chiến tranh Tùy – Cao Ly lần thứ nhất nổ ra, Cảnh được làm Mã quân tổng quản. Đến khi trở về, Cảnh được phân phối phục vụ Hán vương Dương Lượng. Tùy Văn đế nghe nói Cảnh mạnh mẽ, sai ông cởi trần để xem, rồi nói: “Tướng dạng của khanh có thể trở thành người đứng đầu đám bề tôi (vị cực nhân thần).” Ít lâu sau Cảnh theo Sử Vạn Tuế đánh Đột Quyết ở Đại Cân sơn, theo đường riêng đón địch, đại phá được. Sau đó Cảnh cùng Thượng Minh công Dương Kỷ đưa Nghĩa Thành công chúa sang Đột Quyết, đến Hằng An, gặp người Đột Quyết xâm phạm. Bấy giờ Đại Châu tổng quản Hàn Hồng bị địch đánh bại, Cảnh soái lĩnh mấy trăm người ra sức chiến đấu 3 ngày, giết địch rất nhiều, được ban 3000 tấm lụa, thụ chức Hàn Châu thứ sử. Cảnh lấy cớ phục vụ Hán vương, không đi nhận chức.
Phụng sự Tùy Dượng đế
Trong niên hiệu Nhân Thọ (601 – 604), Cảnh được làm Kiểm hiệu Đại Châu tổng quản. Hán vương Dương Lượng nổi loạn (604), Cảnh phát binh kháng cự. Dương Lượng sai Lưu Tung tập kích Cảnh, giao chiến ở phía đông thành. Cảnh lên lầu bắn xuống, buông dây cung là có người ngã nhào, sau đó chọn tráng sĩ ra đánh, chém sạch kẻ địch. Dương Lượng lại sai Lam Châu thứ sử Kiều Chung Quỳ soái 3 vạn binh mạnh đến đánh. Cảnh chỉ có vài ngàn chiến sĩ, lại thêm thành trì không vững chắc, bị địch xung kích, lần lần vỡ lỡ. Cảnh vừa đánh vừa đắp thành, sĩ tốt đều liều chết chiến đấu, nhiều lần đẩy lui kẻ địch. Tư mã Phùng Hiếu Từ, Tư pháp tham quân Lữ Ngọc đều kiêu dũng thiện chiến, Nghi đồng tam tư Hầu Mạc Trần Nghệ nhiều mưu kế, phòng thủ có phương pháp. Cảnh biết tướng sĩ có thể dùng, bèn tin cậy 3 người này, không lo lắng gì, chỉ có những vị trí quan trọng thì ông rời phủ tuần tra mà thôi. Được hơn tháng, Sóc Châu tổng quản Dương Nghĩa Thần đem binh đến giúp, trong ngoài hợp kích, đại phá địch. Trước đó, trên thành giếng trong phủ của Cảnh nở ra 1 đóa hoa như sen, còn có rồng hiện, rồi biến ra giáp sĩ cưỡi ngựa sắt; lại có thần nhân cao vài trượng hiện ra dưới thành, vết chân dài 4 thước rưỡi. Cảnh hỏi thầy mo, được đáp rằng: “Đây là vật chẳng lành, đến uống máu người đấy.” Cảnh cả giận, đuổi thầy mo đi. Trong vòng tuần nhật thì viện binh đến, người chết ở trận này lên đến vài vạn. Ít lâu sau Cảnh được trưng vào kinh, tiến vị Trụ quốc, bái làm Hữu Vũ vệ đại tướng quân, ban 9000 xúc lụa nhũn (kiêm), 1 bộ nữ nhạc, còn thêm vật quý (trân).
Cảnh giỏi bày mưu kế, nhưng trung trực có thừa, rất được Tùy Dượng đế tin cậy. Cảnh đánh phá người Man nổi dậy là bọn Hướng Tư Đa, được ban 80 nô tỳ. Năm sau (605), Cảnh đánh Thổ Dục Hồn ở Thanh Hải, phá xong, được tiến vị Quang lộc đại phu, ban 60 nô tỳ, 2000 xúc lụa nhũn. Năm Đại Nghiệp thứ 5 (609), Dượng đế tây tuần, đến quận Thiên Thủy, Cảnh dâng thức ăn, đế nói: “Ngài là chủ nhân vậy.” Rồi cho ông ngồi trước cả Tề vương Dương Giản. Đến Lũng Xuyên cung, Dượng đế sắp tổ chức săn bắn, Cảnh và Tả Vũ vệ đại tướng quân Quách Diễn đều tỏ ra khó coi, bị người tố cáo; đế cả giận, lệnh cho tả hữu bắt giữ 2 người, sau đó bị kết tội, chịu miễn quan. Hơn năm sau, Cảnh được phục vị, cùng bọn Vũ Văn Thuật tham chưởng tuyển cử.
Năm sau (611), Cảnh đánh thành Vũ Liệt của Cao Ly, phá xong, được ban tước Uyển Khâu hầu, 1000 tấm lụa. Năm thứ 8 (612), Cảnh ra Hồn Di đạo. Năm thứ 9 (613), Cảnh theo đại quân ra Liêu Đông. Đến khi trở về, Cảnh chặn hậu; quân Cao Ly đuổi theo, ông đánh đuổi xong, được ban 3000 tấm lụa, tiến tước Hoạt quốc công. Dương Huyền Cảm nổi loạn, phần nhiều triều thần có con em tham dự, một mình Cảnh không có liên quan. Tùy Dượng đế nói: “Ngài thành thực vốn là tính trời, là lương đống của ta vậy.” rồi cho Cảnh được chọn mỹ nữ. Dượng đế luôn gọi Cảnh là Lý đại tướng quân mà không gọi tên, tỏ ra rất kính trọng.
Năm thứ 12 (616), Tùy Dượng đế lệnh cho Cảnh sửa sang chiến cụ dành cho chiến dịch Liêu Đông ở Bắc Bình, được ban 1 thớt ngự mã, gọi là Sư Tử Lư Cát. Gặp lúc Dương Trọng Tự đem hơn vạn nghĩa quân U Châu đến đánh Bắc Bình, Cảnh đốc binh đánh phá, chém Trọng Tự. Khi ấy khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, Cảnh bèn triệu mộ thêm người để phòng bị mà không lo lắng gì. Vũ bôn lang tướng La Nghệ có hiềm khích với Cảnh, vu cáo ông sắp phản. Tùy Dượng đế sai con trai Cảnh đến an ủi rằng: “Kẻ nhiều chuyện nói ngài dòm ngó ngôi báu, chiếm cứ kinh đô, ta chẳng nghi ngờ gì đâu!” Sau đó Cảnh bị nghĩa quân Cao Khai Đạo bao vây, đơn độc giữ cô thành, sĩ tốt bị phù thũng mà chết đến 6, 7 phần 10; ông vỗ về họ, không ai sinh lòng khác. Quân tư dành cho chiến dịch Liêu Đông đều ở Bắc Bình, thóc lụa chất như núi, Cảnh không chiếm lấy chút gì.
Đến khi Tùy Dượng đế bị giết ở Giang Đô, Cảnh được Liêu Tây thái thú Đặng Hạo cứu ra, bèn quay về Liễu Thành. Trên đường về U Châu, Cảnh bị nghĩa quân giết hại. Người Khiết Đan, Mạt Hạt cảm ơn Cảnh, nghe tin chẳng ai không rơi nước mắt; nhân sĩ U, Yên đến đời Đường vẫn còn thương tiếc ông.
Cảnh có con trai là Lý Thế Mô.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Cảnh** (chữ Hán: 李景, ? – 618) tự **Đạo Hưng**, người huyện Hưu Quan, quận Thiên Thủy , tướng lãnh nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp Cha là Lý Siêu,
**Lý An** (chữ Hán: 李安,? – ?), tự **Huyền Đức**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , tướng lãnh nhà Bắc Chu và nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Nhà Tùy** (, 581-619) là một triều đại trong lịch sử Trung Quốc, kế thừa Nam-Bắc triều, theo sau nó là triều Đường. Năm 581, Tùy Văn Đế Dương Kiên thụ thiện từ Bắc Chu
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
**Nguyên Hùng** (chữ Hán: 源雄, ? – ?), tự **Thế Lược**, người huyện Lạc Đô quận Tây Bình , quan viên nhà Tây Ngụy, nhà Bắc Chu cuối thời Nam bắc triều và nhà Tùy.
**Lý Cảnh** (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh **Từ Cảnh Thông** (徐景通), còn gọi là **Từ Cảnh** (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là **Bá
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
**Ariq Qaya** (chữ Hán: 阿里海牙; 1227-1286) phiên âm Hán - Việt: **A Lý Hải Nha**, còn phiên thành **A Lạt Hải Nha**, **A Lực Hải Nha** hoặc **A Nhĩ Cáp Nhã**, là viên tướng lĩnh
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**Tùy Văn Đế** (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu **Tùy Cao Tổ**, tên Hán là **Dương Kiên** (楊堅), tên Tiên Ti là **Fuluruqen** (普六茹堅, Phổ Lục Như
**Lý Mật** (; 582 – 619), biểu tự **Huyền Thúy** (玄邃), lại có tự **Pháp Chủ** (法主), là một thủ lĩnh nổi dậy chống lại sự cai trị của triều Tùy. Ban đầu, ông là
nhỏ|展覽於國立臺灣師範大學圖書館之隋經籍志考證刊本 **Tùy thư** (chữ Hán giản thể: 隋书; phồn thể: 隋書; bính âm: Suí shū) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_)
**Lý Bạch** (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự **Thái Bạch** (太白), hiệu **Thanh Liên cư sĩ** (青蓮居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường
**Lý Nguyên Cát** (chữ Hán: 李元吉, 603 – 2 tháng 7 năm 626), biểu tự **Tam Hồ** (三胡), là một thân vương của triều đại nhà Đường. Ông là con của hoàng đế khai quốc
thế=Chân dung Lý Cảnh Long|nhỏ|Chân dung Lý Cảnh Long **Lý Cảnh Long** (chữ Hán: 李景隆) (1369–1424), hiệu là **Cửu Giang** (九江), tước **Tào Quốc công** (曹國公) là một tướng lĩnh dưới triều nhà Minh. Ông
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Lý Triết** (chữ Hán: 李悊 hay 李哲, ? – ?), người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , tướng lãnh nhà Bắc Chu và nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李賢, 29 tháng 1, 655 - 13 tháng 3, 684), biểu tự **Minh Doãn** (明允), theo mộ chí thì biểu tự của ông là **Nhân** (仁), được biết đến với thụy
**Lý Viễn** (chữ Hán: 李远, 507 – 557), tên tự là **Vạn Tuế**, sinh quán tại trấn Cao Bình, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều. Ông rất
**Lý Hoàn** (chữ Hán: 李峘, ? – 763), tông thất, quan viên nhà Đường. ## Thân thế Ông cụ là Ngô vương Lý Khác – hoàng tử thứ ba của Đường Thái Tông. Ông nội
**_Tùy Đường Diễn Nghĩa_** () dài 62 tập, dựa theo tác phẩm cùng tên của tác gia Chử Nhân Hoạch. Bộ phim khởi chiếu từ 14.1.2013 trên các đài vệ tinh HD, đồng thời được
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Chiến tranh ma túy Mexico** (, hay còn được biết đến với tên gọi **Chiến tranh chống _narco**_; ) Mặc dù các tổ chức buôn lậu ma túy ở Mexico đã tồn tại trong nhiều
**Lý Thuấn Thần** (Hanja: , Hangul: 이순신, Romanja: **Yi Sun-sin**, 8 tháng 3 năm 1545 – 19 tháng 11 năm 1598) là nhà quân sự, đô đốc thủy quân, danh tướng kháng Nhật của nhà
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Lý Chấn Phiên**, thường được biết đến với nghệ danh **Lý Tiểu Long** (tiếng Trung: 李小龍, tiếng Anh: _Bruce Lee,_ 27 tháng 11 năm 1940 – 20 tháng 7 năm 1973), là một cố võ
**Nhà diện 2/IV** (thường đọc là _hai trên bốn_) theo định nghĩa của Chính phủ Việt Nam là "_mọi loại nhà cửa, đất đai trước ngày Giải phóng do chính quyền Mỹ ngụy quản lý
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Đông Ấn Tây Ban Nha** (; tiếng Filipino: _Silangang Indiyas ng Espanya_) là lãnh thổ Tây Ban Nha tại Châu Á-Thái Bình Dương từ 1565 đến 1899. Bao gồm Philippines, Quần đảo Mariana, the Quần
**Nhà Hạ** (, khoảng thế kỷ 21 TCN - khoảng thế kỷ 16 TCN) là một triều đại lịch sử chưa được kiểm chứng của Trung Quốc, đây là triều đại được nhiều nhà nghiên
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Tâm lý học** () là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, tìm hiểu về các hiện tượng ý thức và vô thức, cũng như cảm xúc và tư duy. Đây
**Vạn Lý Trường Thành** (), gọi tắt là **Trường Thành**, là tên gọi chung cho nhiều thành lũy kéo dài hàng ngàn cây số từ Đông sang Tây, được xây dựng bằng đất và đá
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Cảnh quan thiên nhiên** là cảnh quan nguyên thủy tồn tại trước khi nó bị tác động bởi văn hóa con người. Cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan văn hóa là những bộ phận
thumb|upright|[[Wilhelm Röntgen (1845–1923), người đầu tiên nhận giải Nobel Vật lý.]] Mặt sau huy chương giải Nobel vật lý **Giải Nobel Vật lý** là giải thưởng hàng năm do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng
**Ly tao** (chữ Hán: ) là một bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc thuộc thể loại _phú_ do chính trị gia, thi nhân nước Sở là Khuất Nguyên sáng tác vào thế
**Lý Hiếu Cung** (chữ Hán: 李孝恭; 591 – 640), là một thân vương và tướng lĩnh nhà Đường. Ông là cháu họ của Đường Cao Tổ Lý Uyên và có công tiêu diệt các thế