✨Lý Nguyên Cát

Lý Nguyên Cát

Lý Nguyên Cát (chữ Hán: 李元吉, 603 – 2 tháng 7 năm 626), biểu tự Tam Hồ (三胡), là một thân vương của triều đại nhà Đường. Ông là con của hoàng đế khai quốc Đường Cao Tổ Lý Uyên, và về phe của Thái tử Lý Kiến Thành trong cuộc tranh chấp quyền lực với Tần vương Lý Thế Dân.

Năm 626, Lý Thế Dân gây ra Sự biến Huyền Vũ môn, sát hại Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát.

Thân thế

Lý Nguyên Cát sinh năm 603, tức trong thời gian trị vì của Tùy Văn Đế Dương Kiên. Ông là con trai thứ 4 và là con trai út của Lý Uyên với Đậu phu nhân, con gái của Thần Vũ công Đậu Nghị (竇毅) với Tương Dương công chúa Bắc Chu. Lý Nguyên Cát có ba anh: Lý Kiến Thành, Lý Thế Dân và Lý Nguyên Bá (qua đời năm 614), và một chị/em gái mà về sau trở thành Bình Dương Chiêu công chúa.

Năm 616, các cuộc khởi nghĩa nông dân bắt đầu nhấn chìm miền Bắc Trung Hoa, còn Đông Đột Quyết thường xuyên suất quân xâm nhập, Tùy Dạng Đế phái Lý Uyên đi trấn thủ Thái Nguyên, với nhiệm vụ chống lại cả quân nổi dậy và quân Đột Quyết. Khi đó, Lý Uyên đưa Lý Thế Dân cùng đến Thái Nguyên, song để Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát và một người con khác là Lý Trí Vân, cùng gia thuộc ở Hà Đông (河東, nay thuộc Vận Thành, Sơn Tây).

Năm 617, do lo sợ sẽ bị Tùy Dạng Đế trừng phạt vì không đối phó được với Định Dương khả hãn Lưu Vũ Chu (một thủ lĩnh nổi dậy), lại được Lý Thế Dân thuyết phục, Lý Uyên nổi dậy phản Tùy. Sau đó, Lý Uyên bí mật phái người đến Hà Đông bảo các nhi tử chạy đến Thái Nguyên, Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát đến Thái Nguyên, song để Lý Trí Vân mới 13 tuổi ở lại Hà Đông.

Tuy nhiên, trước khi Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát và Sài Thiệu (con rể) đến được Thái Nguyên, Lý Uyên nổi dậy, tuyên bố là muốn lập Dương Hựu làm hoàng đế, và để Tùy Dạng Đế làm thái thượng hoàng. Đáp lại, các quan lại triều Tùy bắt giữ Lý Trí Vân, giải đến Trường An rồi xử tử.

Góp phần khai quốc

Lý Nguyên Cát không trở thành các trọng tướng như hai huynh Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân, ông được bổ nhiệm làm Thái Nguyên quận thủ, được phong tước Cô Tang quận công (姑臧郡公). Khi Lý Uyên dẫn quân hướng về Trường An, ông ta để Lý Nguyên Cát lưu thủ Thái Nguyên. Cũng trong năm đó, sau khi chiếm được Trường An và tôn Dương Hựu làm hoàng đế, tức Tùy Cung Đế, Lý Uyên nắm quyền phụ chính và phong Lý Nguyên Cát làm Tề quốc công (齐国公), quản lý việc quân sự của 15 quận quanh Thái Nguyên, trao chức Trấn Bắc đại tướng quân.

Vào mùa xuân năm 618, Vũ Văn Hóa Cập tiến hành binh biến sát hại Tùy Dạng Đế ở Giang Đô (江都, nay thuộc Dương Châu, Giang Tô). Khi tin tức truyền đến Trường An, Lý Uyên buộc Tùy Cung Đế phải thiện nhượng cho mình, khởi đầu triều Đường. Lý Nguyên Cát thụ phong tước Tề vương (齊王), được trao chức Tịnh Châu tổng quản (Tịnh châu bao gồm cả thành Thái Nguyên).

Khi lưu thủ Thái Nguyên, Lý Nguyên Cát được mô tả là kiêu căng và hoang phí, và ông thường tổ chức luyện tập quân sự cùng với những người thiếp và thị nữ của ông, trong đó sử dụng khôi giáp và vũ khí thật, khiến họ phải chịu nhiều thương vong, bản thân Lý Nguyên Cát cũng bị thương. Thị nữ Trần Thiện Ý (陳善意) cố thuyết phục Lý Nguyên Cát thay đổi, song ông ra lệnh cho lính canh đánh chết Thiện Ý. Vào mùa xuân năm 619, khi Vũ Văn Hâm (宇文歆) thượng tấu vấn đề này cho Đường Cao Tổ, Đường Cao Tổ đá tạm thời bãi chức Lý Nguyên Cát. Tuy nhiên, chưa đầy một tháng sau, do người dân Thái Nguyên đề nghị để Lý Nguyên Cát trấn thủ thành, Đường Cao Tổ phục chức cho hoàng nhi. Các sử gia truyền thống cáo buộc Lý Nguyên Cát ép buộc người dân phải trình tấu cho Đường Cao Tổ.

Vào mùa hè năm 619, Lưu Vũ Chu tiến đánh khu vực Thái Nguyên, Lý Nguyên Cát phái Trương Đạt (張達) đi đánh Lưu Vũ Chu, bất chấp việc Trương Đạt phản đối về việc đội quân được giao có quá ít binh lính. Trương Đạt quả nhiên chiến bại, ông ta tức giận nên đầu hàng Lưu Vũ Chu và dẫn quân Định Dương tiến công vào các vị trí phòng thủ của Đường. Ngay sau đó, Lưu Vũ Chu bao vây Thái Nguyên. Lý Nguyên Cát ban đầu có thể đẩy lùi được Lưu Vũ Chu, song sau đó Lưu Vũ Chu quay trở lại và tiếp tục bao vây Thái Nguyên. Vào mùa thu năm 619, Lý Nguyên Cát cùng thê thiếp chạy đến Trường An, Thái Nguyên bị Lưu Vũ Chu chiếm giữ.

Năm 621, khi Lý Thế Dân dẫn quân bao vây kinh thành Lạc Dương của Vương Thế Sung, Lý Nguyên Cát làm phó tướng của Lý Thế Dân. Khi Đậu Kiến Đức đến cứu viện Vương Thế Sung, Lý Thế Dân để Lý Nguyên Cát ở lại tiếp tục bao vây Lạc Dương và trông chừng Vương Thế Sung, còn bản thân dẫn quân đến Hổ Lao quan giao chiến với Đậu Kiến Đức. Quân Đường sau đó giành được chiến thắng, diệt được cả nước Trịnh (Thế Sung) và nước Hạ (Kiến Đức), Lý Nguyên Cát được thăng làm Thị trung, Tương châu đạo hành đài thượng thư lệnh, Tắc Châu Thứ sử.

Khi Đường Cao Tổ hạ lệnh đúc tiền mới, đồng thời cũng cấm nghiêm ngặt người khác đúc tiền, ngoại trừ Lý Thế Dân, Lý Nguyên Cát và Bùi Tịch. Đến khi Lưu Hắc Thát nổi dậy chống Đường và chiếm cứ lãnh thổ trước đây của Đậu Kiến Đức, Lý Thế Dân và Lý Nguyên Cát được cử đi trấn áp. Lý Thế Dân đánh bại Lưu Hắc Thát vào mùa xuân năm 622, buộc Lưu Hắc Thát phải chạy trốn sang Đông Đột Quyết. Sau đó, họ tiến công một thủ lĩnh nổi dậy khác là Lỗ vương Từ Viên Lãng, Lý Thế Dân trở về Trường An và giao cho Lý Nguyên Cát tiến hành các hoạt động chống Từ. Tuy nhiên, Lưu Hắc Thát lúc này lại trở về từ Đông Đột Quyết, tái chiếm lãnh thổ cũ của Đậu Kiến Đức, Lý Nguyên Cát không thể cản nổi.

Giúp Thái tử chống Lý Thế Dân

Trong khi đó, giữa Thái tử Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân diễn ra cạnh tranh quyền lực khốc liệt. Lý Nguyên Cát về phe Lý Kiến Thành trong cuộc cạnh tranh này, và thường thúc đẩy Lý Kiến Thành có hành động cứng rắn chống lại Lý Thế Dân. Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát có quan hệ thân thiết với các sủng phi của Đường Cao Tổ hơn Lý Thế Dân, các phi tần này nói giúp cho Lý Kiến Thành trước Đường Cao Tổ, khiến Đường Cao Tổ từ bỏ ý nghĩ đưa Lý Thế Dân lên làm hoàng thái tử.

Khi Lý Kiến Thành tình nguyện suất quân đi đánh Lưu Hắc Thát để lập công, Lý Nguyên Cát tham gia cùng. Khoảng tết năm 623, quân của Lưu Hắc Thát sa lầy khi tiến công Ngụy Châu (魏州, nay thuộc Hàm Đan, Hà Bắc) của nhà Đường, Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát thừa cơ tiêu diệt quân của Lưu Hắc Thát tại Quán Đào (館陶, nay cũng thuộc Hàm Đan). Lưu Hắc Thát chạy trốn sang Đông Đột Quyết, song bị Gia Cát Đức Uy (諸葛德威) bắt giữ, rồi bị giải đến chỗ Lý Kiến Thành, Lý Kiến Thành cho xử tử Lưu. Vào một dịp, Lý Nguyên Cát cố thuyết phục Lý Kiến Thành ám sát Lý Thế Dân khi Lý Thế Dân đến phủ của Lý Nguyên Cát, song Lý Kiến Thành không nỡ giết chết hoàng đệ nên yêu cầu Lý Nguyên Cát dừng lại.

Sau đó, Lý Kiến Thành định tiến hành chính biến nên bị Đường Cao Tổ phế truất khỏi ngôi vị Thái tử và giáng làm Thục vương, sau đó bị đến đất Thục. Tuy nhiên, đến khi Lý Thế Dân đem quân rời đi, Lý Nguyên Cát cùng các phi tần của Đường Cao Tổ và tể tướng Phong Đức Di (封德彝) nói giúp cho Lý Kiến Thành, Đường Cao Tổ vì thế thay đổi ý định, phóng thích Lý Kiến Thành, cho phép trở về Trường An và vẫn giữ tước vị Thái tử. Đường Cao Tổ chỉ quy tội gây bất hòa giữa các con cho các thuộc hạ của Thái tử và Lý Thế Dân, đưa họ đi lưu đày.

Cùng năm, trước các cuộc tiến công liên tục từ Đông Đột Quyết, Đường Cao Tổ suy tính nghiêm túc đến việc đốt bỏ Trường An và rời kinh đô đến Phàn Thành, Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát và Bùi Tịch chấp thuận đề xuất này. Tuy nhiên, Lý Thế Dân phản đối, vì thế kế hoạch không được thực hiện. Trong khi đó, Lý Thế Dân phái tâm phúc của mình đến Lạc Dương để lập căn cứ ở đó. Đến khi Lý Thế Dân bị ngộ độc nặng sau một bữa tiệc ở Đông cung, (Đường Cao Tổ và Lý Thế Dân đều nghĩ rằng Lý Kiến Thành hạ độc) Đường Cao Tổ tính đến việc phái Lý Thế Dân đến trấn thủ Lạc Dương để ngăn ngừa xung đột tiếp diễn. Tuy nhiên, Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát sau khi đàm luận thì cho rằng điều này sẽ giúp Lý Thế Dân có cơ hội gây dựng căn cứ quyền lực riêng, vì thế phản đối, Đường Cao Tổ quyết định không thực hiện điều này.

Qua đời

Năm 626, Lý Thế Dân lo sợ rằng mình sẽ bị Lý Kiến Thành sát hại, các thuộc hạ của Thế Dân là Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối và Trưởng Tôn Vô Kị liên tục thúc giục Lý Thế Dân có hành động trước, còn Ngụy Trưng cũng khuyến nghị Lý Kiến Thành tiến công Lý Thế Dân trước. Lý Kiến Thành thuyết phục Đường Cao Tổ loại bỏ Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối, cũng như Uất Trì Kính Đức và Trình Tri Tiết khỏi địa vị thuộc hạ của Lý Thế Dân. Trưởng Tôn Vô Kị không bị loại bỏ, và vẫn tiếp tục cố thuyết phục Lý Thế Dân hành động trước.

Vào mùa đông năm 626, Đông Đột Quyết lại tiến công Đường, và theo đề xuất của Lý Kiến Thành, Đường Cao Tổ quyết định để Lý Nguyên Cát xuất quân đi kháng cự thay thế Lý Thế Dân, Lý Nguyên Cát được quyền chỉ huy phần lớn các binh lính dưới quyền Lý Thế Dân trước đây. Lý Thế Dân hết sức lo lắng, sợ rằng với việc quyền binh nắm trong tay Lý Nguyên Cát, ông sẽ không thể kháng cự lại một khi bị tiến công. Lý Thế Dân phái Uất Trì Kính Đức bí mật đưa Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối về phủ của mình, và vào một đêm, họ dâng tấu cáo buộc với Đường Cao Tổ rằng Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát tà dâm với các phi tần của Đường Cao Tổ. Đáp lại, Đường Cao Tổ hạ chiếu triệu Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát vào triều sáng hôm sau, ngoài ra cũng triệu các lão thần Bùi Tịch, Tiêu Vũ và Trần Thúc Đạt đến để tra xét cáo buộc của Lý Thế Dân. Biết Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát sẽ đi qua Huyền Vũ môn (玄武門) ở phía bắc hoàng cung, Lý Thế Dân phái Trưởng Tôn Vộ Kỵ và Uất Trì Kính Đức phục kích. Lý Thế Dân đích thân bắn một mũi tên giết chết Lý Kiến Thành, còn Uất Trì Kính Đức giết chết Lý Nguyên Cát. Quân của Lý Thế Dân tiến vào cung, Đường Cao Tổ buộc phải lập Lý Thế Dân làm thái tử, hai tháng sau thì nhường ngôi. Cả năm con trai của Lý Kiến Thành cũng bị Lý Thế Dân giết chết. Cả năm con trai của Lý Nguyên Cát cũng bị Lý Thế Dân xử tử. Vợ của Nguyên Cát là Dương vương phi được Lý Thế Dân nạp làm phi. Đó là Sự biến Huyền Vũ môn nổi tiếng đầu triều Đường.

Lý Nguyên Cát thoạt đầu bị tước bỏ khỏi danh sách tông thất. Sau khi Đường Thái Tông tức vị, truy phong Lý Nguyên Cát là Hải Lăng Lạt quận vương (海陵剌郡王). Năm 642, Đường Thái Tông lại truy phong Lý Nguyên Cát là Sào Lạt vương (巢剌王), và cho hoàng tử con mình với Dương thị là Tào vương Lý Minh (李明) làm hậu tự của Lý Nguyên Cát.

Gia đình

  • Thê thiếp:

    Vương phi: Dương thị, sau lấy Đường Thái Tông.

    Mỗ Cơ (某姬).

  • Hậu duệ:

    Lý Thừa Nghiệp (李承業), phong Lương quận vương (梁郡王).

    Lý Thừa Loan (李承鸞), phong Ngư Dương vương (渔阳王).

    Lý Thừa Tưởng (李承獎), phong Phổ An vương (普安王).

    Lý Thừa Dụ (李承裕), phong Giang Hạ vương (江夏王).

    Lý Thừa Độ (李承度), phong Nghĩa Dương vương (义阳王).

    Hòa Tĩnh huyện chúa (和静县主), lấy Tiết Nguyên Siêu (薛元超), cháu Tiết Đạo Hành (薛道衡).

    Thọ Xuân huyện chúa (寿春县主), lấy Dương Dự Chi (杨豫之), con Dương Sư Đạo (杨师道).

    Văn An huyện chúa (文安县主; 623 - 648), lấy Đoạn Nghiễm (段俨).

    Tân Dã huyện chúa Lý Lệnh (新野县主李令; 624 - 662), tự Thục Huyến (淑绚), lấy Bùi Trọng Huy (裴重晖).

    Quy Nhân huyện chúa (归仁县主; 625 - 668), lấy con trai thứ hai của Trường Đạo huyện công Khương Mô (姜謩).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Nguyên Cát** (chữ Hán: 李元吉, 603 – 2 tháng 7 năm 626), biểu tự **Tam Hồ** (三胡), là một thân vương của triều đại nhà Đường. Ông là con của hoàng đế khai quốc
**Lý Nguyên Hoàng** (; ? – 1221), hay **Nguyên vương** (元王) là một vị vua nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lý Nguyên Hoàng không được sử sách xác định tên
**Đào Nguyên Cát** (12 tháng 12 năm 1927 – 6 tháng 10 năm 2023) là một giáo sư, nhà báo có nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực báo chí tại Việt Nam. _Thời báo
**Lý Kiến Thành** (chữ Hán: 李建成, 589 – 2 tháng 7, năm 626), biểu tự **Tỳ Sa Môn** (毗沙門), là một Thái tử nhà Đường. Ông là con trưởng của hoàng đế khai quốc Đường
**Gia Cát Lượng** (; 181 – 234), biểu tự **Khổng Minh** (孔明), hiệu **Ngọa Long** (臥龍), là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
Bản đồ cứu trợ bóng mờ của Algérie với các khu định cư và đường bộ Algérie có diện tích 2.381.741 km² với hơn 4/5 lãnh thổ là sa mạc, nước này nằm ở Bắc Phi,
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Lý Thế Tích** (李世勣) (594 – 1 tháng 1 năm 670), nguyên danh **Từ Thế Tích** (徐世勣), dưới thời Đường Cao Tông được gọi là **Lý Tích** (李勣), tên tự **Mậu Công** (懋功), thụy hiệu
right|thumb|Mô hình lý thuyết của nguyên tử hiện tại gồm một nhân đặc bao quanh bởi một "đám mây" xác suất các hạt electron Trong hóa học và vật lý học, **thuyết nguyên tử** là
**Lý Tử Xuân** (Hangul: 이자춘; 1315 – 1360) là một quan lại của Nhà Nguyên (sau đó ông chuyển sang phục vụ cho Cao Ly) và cha của Lý Thành Quế, người thành lập nhà
phải|nhỏ|200x200px|Mô phỏng một nguyên tử hydro cho thấy đường kính bằng xấp xỉ hai lần bán kính [[mô hình Bohr. (Ảnh mang tính minh họa)]] Một **nguyên tử hydro** là một nguyên tử của nguyên
**Cát Bà** là thị trấn huyện lỵ của huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng, Việt Nam. ## Địa lý trái|nhỏ|Tuyến đường ven biển tại thị trấn Cát Bà Thị trấn Cát Bà nằm
**Nguyễn Thị Năm** (1906 – 9 tháng 7 năm 1953, quê ở Làng Bưởi, ngoại thành Hà Nội), là một địa chủ có công đóng góp tài sản cho Việt Minh trong kháng chiến chống
MÔ TẢ SẢN PHẨMXà Phòng Saboo Hoa Ly - Lilly Handmade ThailandMã Sản Phẩm : 0050001473***Mô tả sản phẩm : Xà Bông cục thái lan - Công Dụng : Xà bông handmade thái lan làm
|} **Nguyên tử** là đơn vị cơ bản của vật chất chứa một hạt nhân ở trung tâm bao quanh bởi đám mây điện tích âm các electron (âm điện tử). Hạt nhân nguyên tử
Bản đồ quần đảo Cát Bà, vùng rừng quốc gia Cát Bà được khoanh màu xanh đậm **Vườn quốc gia Cát Bà** là khu rừng đặc dụng của Việt Nam, khu dự trữ sinh quyển
**Lý Huyền Bá** (chữ Hán: 李玄霸; 21/1/598 - 614) còn gọi là **Lý Nguyên Bá** (chữ Hán 李元霸), tự **Đại Đức** (大德), con thứ ba của Đường Cao tổ Lý Uyên, được phong là Vệ
**Nguyễn Quyện** (chữ Hán: 阮倦; 1511-1593) là danh tướng trụ cột của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam, tước Văn Phái hầu sau được phong làm Thường quận công, Chưởng
nhỏ|Vật lý Mặt Trời **Vật lý mặt trời** là nhánh của vật lý thiên văn chuyên nghiên cứu về Mặt Trời. Nó liên quan đến các phép đo chi tiết chỉ có thể cho ngôi
**Cao Ly Trung Tuyên Vương** (Hangul: 고려 충선왕; chữ Hán: 高麗 忠宣王; 20 tháng 10 năm 1275 – 23 tháng 6 năm 1325, trị vì 2 lần: năm 1298 và 1308 – 1313) là quốc
**Lý Thừa Càn** (chữ Hán: 李承乾; 619 - 5 tháng 1, năm 645), tự **Cao Minh** (高明), thụy hiệu là **Thường Sơn Mẫn vương** (恆山愍王), con trai trưởng của Đường Thái Tông Lý Thế Dân
nhỏ|214x214px|Tam giác nghịch lý đơn giản nhất Một **nghịch lý** là một tuyên bố hoặc lý thuyết tự mâu thuẫn về mặt logic hoặc chạy ngược lại với mong đợi của một người. Mặc dù
**Mộc Nạp Thất Lý** (tiếng Trung: 木纳失里; ? – 1343 hoặc 1348) là một Thứ Hoàng hậu của Nguyên Huệ Tông hay Nguyên Thuận Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyên. ## Cuộc đời
Trong cơ sở của toán học, **Nghịch lý Russell** hay **Mâu thuẫn Russell** (đặt tên theo nhà triết học Bertrand Russell, người tìm ra nó vào năm in 1901) cho thấy rằng thuyết tập hợp
**Cát Lâm** (, ), là một tỉnh ở Đông Bắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Cát Lâm là tỉnh đông thứ hai mươi mốt về số dân, đứng thứ hai mươi tư
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Lý Tự Nguyên** (李嗣源, sau đổi thành **Lý Đản** (李亶)) (10 tháng 10 năm 867), còn được gọi theo miếu hiệu là **Hậu Đường Minh Tông** ( 后唐明宗), là hoàng đế thứ hai của nhà
**Lý Thân** (chữ Hán: 李绅, ? – 846), tên tự là **Công Thùy**, tịch quán ở Vô Tích, Nhuận Châu , nhà chính trị, nhà văn hóa hoạt động trong giai đoạn trung kỳ đời
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Bốc Đáp Thất Lý**(;tiếng Hoa: 卜答失里; 1305 - 1340), nguyên phối và là chính thất Hoàng hậu của Nguyên Văn Tông Đồ Thiếp Mục Nhi, Hoàng đế thứ 8 và thứ 10 của triều Nguyên
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Nguyên sử** (tiếng Trung: 元史, bính âm: Yuán Shǐ) là một tác phẩm do Tống Liêm (1310-1381) và một số quan lại khác phụng mệnh Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương biên soạn năm 1370.
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Ngưu - Lý đảng tranh** (chữ Hán: 牛李黨爭, bính âm: Níu Lǐ dǎngzhēng), là một cuộc xung đột giữa các phe phái vào cuối đời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Giữa các đại
**Bắc Nguyên** (, tiếng Mông Cổ: , _Umardu Yuwan Ulus_) là vương triều do Bột Nhi Chỉ Cân của người Mông Cổ cai trị vùng Đại Mông Cổ. Nhà Bắc Nguyên khởi đầu bằng việc
**Vũ Cát Tường** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1992) là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc và nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Tường được biết đến với khả năng kết
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Dòng Anh Em Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc núi Cát Minh** (), thường gọi tắt là _Dòng Cát Minh_, _Dòng Camêlô_ (người Công giáo Việt Nam phiên âm từ chữ _Carmel_), _Dòng Kín Camêlô_
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Nguyên Thái Định Đế** (28 tháng 11, 1293 - 15 tháng 8 1328), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Dã Tôn Thiết Mộc Nhi** (;phiên âm: Borjigin Yesun Temur), là vị Hoàng đế thứ
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Địa lý châu Á** được coi là phức tạp và đa dạng nhất trong số các châu lục trên mặt đất. Châu Á được phân biệt với các châu khác không chỉ bởi có biển
**Chiến tranh Mông Nguyên- Đại Việt** hay **Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên** (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt