✨Lý Tự Nguyên
Lý Tự Nguyên (李嗣源, sau đổi thành Lý Đản (李亶)) (10 tháng 10 năm 867), còn được gọi theo miếu hiệu là Hậu Đường Minh Tông ( 后唐明宗), là hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Đường - một hoàng tộc tồn tại ngắn ngủi dưới thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ 926 đến khi chết. Ông vốn là người tộc Sa Đà, bản danh Mạt Cát Liệt (邈佶烈).
Mạt Cát Liệt nguyên là người dân tộc Thổ. Từ năm 12 tuổi, ông đi theo thủ lĩnh tộc Sa Đà là Lý Khắc Dụng và lập nhiều chiến công, được Lý Khắc Dụng nhận làm con nuôi, tên của ông xếp hàng đầu trong Thập tam Thái bảo của Lý Khắc Dụng.
Sau khi Lý Khắc Dụng qua đời (908), Lý Tự Nguyên tiếp tục phục vụ dưới trướng con trai ông ta là Lý Tồn Húc. Đến khi Lý Tồn Húc tiêu diệt Hậu Lương và lập ra Hậu Đường, Lý Tự Nguyên lĩnh chức Trung thư lệnh và tham gia các chiến dịch quân sự ở nhiều nơi trong nước. Bấy giờ Trang Tông bỏ bê triều đình, cùng với Lưu hoàng hậu sống xa hoa vô độ. Năm 926, khi được lệnh đánh dẹp phản quân Hưng Đường, ông quyết định trở mặt chống lại triều đình, cùng lúc Hậu Đường Trang Tông bị giết chết, Lý Tự Nguyên tiến quân về Lạc Dương, kiểm soát triều chính, tàn sát gia quyến của Trang Tông và lên ngôi hoàng đế.
Dưới thời trị vì của mình, ông dùng tên là Lý Đản. Thời gian cai trị của ông kéo dài bảy năm; và mặc chứng kiến nhiều thiên tai, nhân họa; nó vẫn được xem là ổn định hơn so với nửa thế kỉ trước đó. Trong thời gian chấp chính, Hậu Đường Minh Tông trừ bỏ các tệ chính dưới thời Hậu Đường Trang Tông, triều chính dần ổn định. Ông diệt trừ hoạn quan, tin dùng sĩ nhân; triệt tiêu không ít cơ quan dư thừa, thiết lập cơ quan tài chính như tam ty; đề xướng tiết kiệm, củng cố thủy lợi, quan tâm đến nỗi thống khổ của bách tính; tăng cường quân lực trung ương, kiến lập thị vệ thân quân để áp chế phiên trấn. Đây là một giai đoạn ổn định hiếm thấy vào thời Ngũ Đại, sử gia nhận định Hậu Đường Minh Tông là minh quân chỉ đứng sau Hậu Chu Thế Tông vào thời Ngũ Đại, một số chế độ do ông lập ra sau được triều Tống kế thừa.
Cuối năm 933, khi Minh Tông đang nằm trên giường bệnh, con trai thứ hai của ông Lý Tùng Vinh tiến hành binh biến nhằm kiểu soát triều chính, song bị đánh dẹp và giết chết. Minh Tông vì sự kiện này đau lòng mà qua đời, truyền ngôi cho hoàng tử thứ ba Lý Tùng Hậu. Hậu Đường sau thời của ông lâm vào cảnh suy yếu không thể vực dậy, đến năm 936 thì bị diệt vong bởi người Khiết Đan.
Thân thế
Lý Tự Nguyên chào đời với tên Sa Đà là Mạt Cát Liệt ở Ứng châu , chứ không có tên theo gốc tích của ông vốn là người Thổ di cư. Thân phụ của ông, được sử cũ gọi theo tên Hán là Lý Nghê (李霓), là tướng quân dưới trước Lý Quốc Xương, thủ lĩnh người Sa Đà được triều đình nhà Đường ban tên chữ Hán. Ông là con trai trưởng của Lý Nghê. Mẫu thân ông họ Lưu, về sau được truy tặng là Tống quốc phu nhân. Một thời gian sau cái chết của Lý Nghệ (trước thất bại của Lý Quốc Xương và Lý Khắc Dụng) năm 879 (năm ấy Mạt Cát Liệt lên 12), Lý Quốc Xương đưa ông về làm người hộ vệ, kĩ năng bắn cung điêu luyện của ông có lẽ được dạy dỗ từ người cha. Sử cho biết rằng thời niên thiếu ông không bao giờ bắn hụt một con chim nào đang bay trên trời vào những dịp đi săn. Năm 883, Lý Khắc Dụng được tấn phong làm Tiết độ sứ Hà Đông sau khi đánh bại Hoàng Sào một trận lớn.
Mạt Cát Liệt phục vụ cho Lý Khắc Dụng, lúc này ông ta đang tìm kiếm những cậu bé trung thành và thiện chiến, Lý Khắc Dụng nhân ông là con và ban cho ông tên Hán là Lý Tự Nguyên. tham dự một yến tiệc mừng công do người nắm giữ vùng này là Chu Ôn (Chu Toàn Trung), tổ chức, trước đó Lý Khắc Dụng từng cứu Chu Ôn khỏi cuộc bao vây của quân đội Hoàng Sào. Tối hôm đó, Lý Khắc Dụng đang say quắc cần câu gặp phải bọn sát thủ cho Chu Ôn phái đến để hành thích. Người của Chu Ôn phóng hỏa đốt quán lại chặt cây và đưa xe ngựa làm hàng rào chặn đường thoát của Lý Khắc Dụng. Lý Tự Nguyên năm đó 16 tuổi, cùng với một số tướng khác, giúp chủ nhân nhảy ra khỏi hàng rào không hề hấn gì, họ cùng nhau trốn thoát an toàn khỏi làn tên bay của quân Chu Ôn, khi đó trời lại nổi giông tố sấm sét dập tắt đám lửa và khiến quân Biện châu bị mất phương hướng, nên Lý Khắc Dụng chạy thoát được mặc dù khoảng 300 thủ hạ của quân Hà Đông bị tàn sát trong bữa tiệc đó. Vào cuối năm đó, Lý Tự Nguyên chứng tỏ khả năng lãnh đạo của mình một lần nữa khi lãnh đạo quân đội dẹp tan quân nổi dậy, bắt được thủ lĩnh của họ là Vương Biện (王弁). Một lần quân trung hội họp, các tướng bắt đầu mở miệng khoe khoang về chiến công của mình, nhưng khi Lý Tự Nguyên cắt lời và thong thỏa nói: "Các tướng quân, dùng mồm của mình để tấn công kẻ thù. Còn ta dùng bàn tay để tấn công kẻ thù." Tất cả mọi người bèn im lặng. Chu Tuyên và tiết độ sứ Thái Ninh Chu Cẩn) chống lại kẻ thù Chu Ôn. Nhưng thay vì đích thân ra trận, Tồn Tín quyết định án binh và gửi Lý Tự Nguyên ra tiền tuyến khi chỉ có 300 người trong tay. Tuy nhiên, Lý Tự Nguyên có thể đẩy lui được quân Chu Ôn và cứu thoát anh em họ Chu. Khi tiết độ sứ Ngụy Bác La Hoằng Tín bất bình vì việc Lý Tồn Tín ra quân cướp bóc ở đất Ngụy, đã chặn đường và đánh bại Tồn Tín sau đó, Lý Tự Nguyên đánh bại những kẻ tấn công và trở về nhà với lực lượng của Lý Tồn Tín. Ông được Lý Khắc Dụng khen ngợi khi quyết định chia sẻ phần thưởng một cách công bằng với những người lính bình thường.), nhân đó Thị và Chu tiến đến bao vây thủ phủ của Hà Đông là Thái Nguyên. Lúc đó phần lớn quân của Lý Khắc Dụng đang ở xa Thái Nguyên, nơi này trong tình thế rất nguy cấp; Lý Khắc Dụng định từ bỏ Thái Nguyên chạy lên Vân Châu — Lý Tồn Tín ủng hộ việc này. Tuy nhiên, Lý Tự Nguyên cùng với Lý Tự Chiêu và Chu Đức Uy, chủ trương cố thủ Thái Nguyên, và cùng với khuyến khích của vợ của Lý Khắc Dụng là Lưu phu nhân, Lý đồng ý ở lại cố thủ trong thành. Sau đó, do bị cắt mất nguồn cung cấp lương thực, Chu Toàn Trung suốt định rút lui (Tuy nhiên, vì cuộc vây hãm này, trong nhiều năm, Lý không dám giao chiến với Chu nhằm tranh giành quyền bá chủ ở miền bắc nữa)
Năm 907, Chu Toàn Trung cướp ngôi Đường Ai Đế, chấm dứt Đường triều và lập ra triều Hậu Lương. Lý Khắc Dụng, trên danh nghĩa là vương nước Tấn, cùng với một số nhà quân phiệt khác (như Kì vương Lý Mậu Trinh, Hoằng Nông vương Dương Ác, Thục vương Vương Kiến), từ chối công nhận hoàng đế họ Chu và tiếp tục coi mình là chư hầu của triều Đường vốn không còn tồn tại — nhưng trên thực tế, các nhà lãnh đạo này cai trị lãnh thổ của mình một cách độc lập. Lý Tự Nguyên tiếp tục phục vụ cha nuôi ở nước Tấn. Không lâu sau đó, Chu cử tướng Khang Hoài Trinh dẫn quân tấn công trấn Chiêu Nghĩa , hiện thuộc nước Tấn và do Lý Tự Chiêu cai quản. Đích thân Chu dẫn đại quân theo sau, và quân Lương bao vây trị sở Chiêu Nghĩa là Lộ châu rất ngặt, thể hiện rõ dã tâm thôn tính bằng được Chiêu Nghĩa. Lý Khắc Dụng cử một lực lượng nhỏ quân cứu viện, dưới sự chỉ huy của Chu Đức Uy, cùng Lý Tự Nguyên, Lý Tự Bổn, Lý Tồn Chương và An Kim Toàn đến hỗ trợ giải vây, nhưng trong khi quân cứu viện chỉ gây có thể quấy nhiễu quân Lương, vẫn không thể giải nguy cho thành và tình thế ngày càng tuyệt vọng do lương thực cạn kiệt. Lúc chiến dịch đang ở cao trào, Lý Khắc Dụng bệnh chết ở Thái Nguyên và mùa xuân năm 908 và con ruột ông ta là Lý Tồn Húc lên kế vị Tấn vương.
Dưới trướng Lý Tồn Húc
Tham chiến ở Yên, Triệu
Lý Tồn Húc quyết định đích thân dẫn quân giải vây Lộ châu, và dẫn quân đi một cách thần tốc, khiến quân Lương bị bất ngờ không kịp trở tay. Lý Tồn Húc sai Lý Tự Nguyên chỉ huy cánh quân phía đông bắc, và Chu Đức Uy chỉ huy cánh quân đánh vào phía tây bắc. Thế bao vây của quân Lương bị phá vỡ và chúng buộc phải rút lui, Lộ châu được giải vây. – có thể liên minh với Tấn và trở mặt với Hậu Lương, Ông ra quyết định dùng mưu hiểm để chiếm các châu Ký và Triệu và tàn sát quân dân Vũ Thuận ở tại các châu, rồi dùng nơi này làm bàn đạp để thôn tính hoàn toàn Vũ Thuận. Biết chuyện đó, Vương Dung cùng với đồng minh là Vương Xử Trực, tiết độ sứ Nghĩa Vũ trở mặt với Hậu Lương rồi quay sang kết minh với Lý Tồn Húc. Lý Tồn Húc cử quân đến chi viện cho Vương Dung và Vương Xử Trực. Sau đó, trong trận chiến mà Lý Tự Nguyên cầm quân, tại Bách Hương , quân Tấn đại phá quân Lương, cứu nguy cho Vũ Thuận (lúc này đổi tên trở lại là Thành Đức như thời Đường), và Nghĩa Vũ khỏi cuộc tấn công của Hậu Lương.
Năm 912, Lý Tồn Húc phát động chiến dịch tấn công nước Yên của Lưu Thủ Quang. Trong chiến dịch đó, Lý Tự Nguyên được giao nhiệm vụ tấn công vào Doanh châu ), và buộc thứ sử châu này là Triệu Kính phải đầu hàng. Lưu Thủ Quang cử tướng Nguyên Hành Khâm lên phía bắc đón quân cứu viện Khiết Đan. Lý Tồn Úc cử Lý Tự Nguyên dẫn quân ngăn chặn Nguyên Hành Khâm. Ban đầu Lý Tự Nguyên chiếm giữ Vũ châu, thứ sử châu này là Cao Hành Khuê đầu hàng. Nguyên Hành Khâm sau đó dẫn quân đánh Vũ châu, khi Lý Tự Nguyên dẫn quân đến cứu viện, Nguyên tìm cách rút lui, nhưng Lý Tự Nguyên thuyết phục tám lần và ông ta quyết định đầu hàng. Lý Tự Nguyên nhận Nguyên làm con nuôi và giữ ông ta dưới trướng của mình (em trai của Cao Hành Khuê là Cao Hành Chu người mà Cao Hành Khuê được Hành Khuê gửi gắm cho Lý Tự Nguyên, cũng phục vụ dưới trướng của ông và nắm giữ chức tướng ngang với con nuôi của ông là Lý Tòng Kha - vốn là con riêng của một người vợ lẽ của Lý Tự Nguyên là Ngụy thị). Quân Tấn sau đó tiêu diệt hoàn toàn nước Yên và sáp nhập vào lãnh thổ Tấn. (Năm 915, khi Lý Tồn Húc nghe về sự tàn bạo của Nguyên Hành Khâm trên chiến trận, ông ta đòi Lý Tự Nguyên gửi Hành Khâm đến phục vụ dưới trướng của chính mình, và Lý Tự Nguyên, không muốn kháng lệnh của chủ tướng, phải miễn cưỡng nhận nhân. Lý Tồn Húc cũng muốn có sự phục vụ của Cao Hành Chu, nhưng Cao từ chối và vẫn ở trong quân của Lý Tự Nguyên.)
Đối phó với Hậu Lương và Khiết Đan
Năm 916, khi tướng nhà Hậu Lương là Lưu Tuân tìm cách giành lại Ngụy châu ), vùng đất này không lâu về trước đã đầu hàng Tấn - Lý Tồn Húc đã tiên liệu được viện này và có quyết định ngay lập tức - Lý Tự Nguyên và em nuôi của ông là Lý Tồn Thẩm làm tướng chỉ huy. Trong trận chiến diễn ra sau đó, quân Tấn đại phá quân Lương, làm cho hi vọng đánh bại Lý Tồn Húc của Lưu Tuân tan thành mây khói. Khi Tiết độ sứ Chiêu Đức (昭德, trị sở nay thuộc Hàm Đan) chạy trốn sau thất bại của Lưu Tuân, Lý Tồn Húc sáp nhập ba châu của trấn này, nguyên trước kia thuộc Thiên Hùng quân cho trở lại Thiên Hùng, và phong Lý Tự Nguyên làm thứ sử của thủ phủ trấn Thiên Hùng là Tương châu (相州). Khi quân Tấn tiếp cận Thương châu (滄州, Thương Châu ngày nay), tiết độ sứ Thuận Hóa của Hậu Lương (順化, trị sở đặt tại Thương châu), Đái Tư Viễn, bỏ trốn về phía nam Hoàng Hà. Tướng của Đái là Mao Chương dẫn người trong châu hàng Tấn. Lý Tồn Húc cử Lý Tự Nguyên đến bình định vùng đất này, và Lý Tự Nguyên đưa Mao đến xưng thần với Lý Tồn Húc. Lý Tự Nguyên được phong làm Tiết độ sứ An Quốc. Cũng từ đây, một trong số những tướng dưới quyền ông, An Trọng Hối, trở thành người được ông rất tin tưởng.) – thủ phủ nước Yên và khi đó là thủ phủ trấn Lư Long (盧龍), nơi Chu là Tiết độ sứ. Chu gửi thư xin quân cứu viện, nhưng Lý Tồn Húc cho rằng cần phải tiếp tục chiến dịch với Hậu Lương nên tỏ ra do dự. Tuy nhiên, Lý Tự Nguyên, Lý Tồn Thẩm và Diêm Bảo đều chủ trương cứu Yên. Lý Tồn Húc đồng ý, và cử Lý Tự Nguyên là người chỉ huy quân cứu viện, Diêm Bảo theo sau,
Mùa thu năm 918, Lý Tồn Húc phát động chiến dịch phạt Lương, và tập hợp toàn bộ quân đội dưới trướng của mình tại đất Ngụy. Chu Đức Uy, Lý Tồn Thẩm, và Lý Tự Nguyên, đều đem quân đến hội, ngoài ra còn có quân của Vương Xử Trực. Ông vượt sông Hoàng Hà đến lãnh thổ triều Lương, với ý định nhanh chóng tiêu diệt nhà Lương. Sau đó, quân Tấn giáp chiến với quân Lương do Hà Côi chỉ huy tại Hồ Liễu Bi ). Trận chiến đó quân Tấn thảm bại, Chu Đức Uy bị giết trên chiến trường. Khi đó Lý Tự Nguyên tính toán sai lầm, cho rằng Lý Tồn Húc đã lui quân về bờ bắc Hoàng Hà, nên cũng rút quân. Tuy nhiên, Lý Tồn Húc, tập hợp lại quân mã và lại đánh bại quân của Hà Côi. Tổng cộng trong chiến dịch đó, hai bên đều bị thiệt hại đến hai phần ba quân số, và Lý Tồn Húc cuối cùng rút quân về bờ bắc. Khi Lý Tự Nguyên đến yết kiến, Lý Tồn Húc tỏ ra không hài lòng vì cho rằng việc ông vượt sông là do nghĩ rằng chủ tướng đã chết và do vậy từ bỏ chiến trận. Tuy nhiên, vì Lý Tùng Kha không đi theo Lý Tự Nguyên và tiếp tục phục vụ Lý Tồn Húc trong giai đoạn thứ hai của trận chiến, lập được đại công, nên Lý Tồn Húc không xử phạt Lý Tự Nguyên, mà từ đó đối xử với ông một cách bạc bẽo. ở bờ nam Hoàng Hà gặp thất bại dưới tay Lý Tự Nguyên và Lý Tồn Thẩm. Sau đó Lý Tồn Húc phong Lý Tự Nguyên làm phó chỉ huy của các lực lượng Hán và Sa Đà, cùng danh hiệu Đồng Trung thư môn hạ bình chương sự. Sau đó ông ta để Lý Tự Nguyên và Lý Tồn Thẩm giữ Đức Thắng, còn bản thân đến tham chiến ở đất Triệu. Khi Đái tìm cách tấn công Vệ châu, Lý Tự Nguyên dẫn quân chặn đánh. Sau đó Đái Tư Viễn quyết định đổi hướng sang bao vây Đức Thắng, nhưng cuối cùng phải lui quân vì Lý Tồn Húc biết được tin khẩn, và đưa quân trở lại.
Mùa xuân năm 922, Khiết Đan dẫn quân xâm phạm, Lý Tồn Húc cử Lý Tồn Thẩm làm Lữ Long tiết độ sứ để chống lại người Khiết Đan, Lý Tự Nguyên được phong làm Tiết độ sứ Hoành Hải (trước đây nhà Hậu Lương gọi là Thuận Hoa), nơi mà trước đây Lý Tồn Thẩm từng đảm nhận, nhưng thực ra ông vẫn ở trong quân doanh của Lý Tồn Húc.
Chiến dịch diệt Lương
Mùa hạ năm 923, Lý Tồn Húc tức hoàng đế vị ở Ngụy châu với quốc hiệu Đại Đường - sử gọi là nhà Hậu Đường. Tuy nhiên, cùng thời điểm đó, Hậu Đường phải đối mặt với rất nhiều mối đe dọa từ nhiều phía - Đế quốc Khiết Đan tiếp tục đe dọa Lư Long; Hậu Lương vừa mới đây đã nắm giữ được Vệ châu , trước kia thuộc quyền quản lý của Lý Tự Chiêu. Từ sau khi Tự Chiêu tử trận, con ông ta là Lý Kế Thao nổi loạn chống lại Hậu Đường và xưng thần với Hậu Lương. Tuy nhiên, vào thời điểm này, một viên tướng của nhà Hậu Lương ở trấn Thiên Bình , Lư Thuận Mật đã chạy trốn sang Hậu Đường, và tiết lộ với Hậu Đường rằng Đái Tư Viễn, đang là Tiết độ sứ Thiên Bình, để để hai tướng bị mất lòng dân, Lưu Toại Nghiêm và Yến Ngung trấn giữ thủ phủ của trấn là Vận châu (鄆州), chỉ cần tấn công bất ngờ là có thể thắng lợi. Khi Lý Tồn Húc hỏi ý Lý Tự Nguyên, do ông từ lâu đã muốn lấy lại danh tiếng sau trận Hồ Liễu Bi, chủ trương tấn công và tình nguyện dẫn quân đi tiên phong. Lý Tồn Húc đồng ý, và Lý Tự Nguyên dẫn 5000 binh sĩ bất ngờ tấn công vào cứ điểm gần bờ sông Hoàng Hà, khiến Lưu và Yến không hề hay biết. Khi ông nhanh chóng tiến quân vào thành, Lưu Toại Nghiêm chạy trốn đến kinh đô Hậu Lương là Khai Phong. Lý Tồn Húc sau đó ủy nhiệm Lý Tự Nguyên là Tiết độ sứ Thiên Bình. Sau đó, hoàng đế Hậu Lương Chu Hữu Trinh (con trai Chu Ôn) thay thế Đái bằng Vương Ngạn Chương, người này tìm cách cắt đứt đường chuyển lương giữa Vận châu và phần còn lại của Hậu Đường ở bờ bắc dòng sông bằng cách chiếm giữ những chỗ cạn ở Đức Thắng và Dương Lưu . Ông nhanh chóng lấy được Đức Thắng, nhưng Dương Lưu vẫn ở trong tình trạng thủ thành chặt chẽ dưới sự chỉ huy của Lý Chu (李周), và Lý Tồn Húc sau đó xua quân bao vây Dương Lưu, đảm bảo duy trì liên lạc giữa Vận châu với phần còn lại của Hậu Đường.). Lý Tồn Húc cử Lý Tự Nguyên thuyết phục Vương Ngạn Chương quy phục, nhưng Vương thực sự muốn chết, nói với Lý Tự Nguyên một cách vô lễ, "Ngươi chẳng phải Mạt Cát Liệt đó sao?" Lý Tồn Húc biết rằng Vương Ngạn Chương thà chết bất phục, bèn xử tử ông ta.. Trang Tông cử Lý Tự Nguyên dẫn quân chống lại Khiết Đan, cùng Hoắc Ngạn Uy (khi ấy đã hàng Đường) làm phó. Tuy nhiên, lực lượng Khiết Đan của hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ đã sớm rút lui, nhà vua triệu Lý Tự Nguyên về kinh - và để lại Đoàn Ngưng - lúc này được ban tên Lý Thiệu Khâm - trấn giữ quan. Không lâu sau đó, lại nhận được tin quân Khiết Đan của hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ xâm phạm nhà Hậu Đường lần nữa, nhưng Lý Tự Nguyên được lệnh giữ quân ở Hưng châu để dò xét động tĩnh của Khiết Đan, trong khi Lý Tùng Kha và Lý Thiệu Bân chỉ huy kị binh trấn giữ quan ải chống lại Khiết Đan. Trong thời gian đó, Lý Tự Nguyên cũng như các tướng khác, sợ hãi bọn thái giám và con hát gièm pha nói xấu mình trước mặt Trang Tông, nên Lý Tự Nguyên đã dâng biểu xin nghỉ hưu nhưng Trang Tông không theo.
Mùa hạ năm 924, tướng ở An Nghĩa (trước kia là Chiêu Nghĩa) Dương Lập, người vốn được Lý Kế Thao tin tưởng (Lý Tồn Húc đã xử tử Lý Kế Thao sau khi ông ta tiêu diệt Hậu Lương), đã nổi loạn chiếm giữ Lộ châu. Trang Tông cử Lý Tự Nguyên chỉ huy quân đội đánh Dương Lập, cùng với Nguyên Hành Khâm, khi đó đã đổi tên thành Lý Thiệu Vinh, và Trương Đình Uẩn làm phó tướng. Trương Đình Uẩn nhanh chóng vào thành Lộ châu bắt giữ Dương Lập và những kẻ dưới trướng của y, trước khi Lý Tự Nguyên và Lý Thiệu Vinh đến (Bọn Dương Lập đi giải về Lạc Dương - kinh đô nhà Hậu Đường và bị xử tử). Sau chiến dịch này, Lý Tự Nguyên được phong làm Tiết độ sứ Tuyên Vũ và tướng chỉ huy quân đội Hán và phi Hán thay cho Lý Tồn Thẩm vừa qua đời.
Phản quân Hưng Đường
Tuy nhiên sau khi Tiền Thục diệt vong, Trang Tông và vợ là Lưu hoàng hậu nghi ngờ Quách Sùng Thao bí mật phát triển lực lượng và chiếm cứ đất Thục. Lưu hoàng hậu muốn giết Sùng Thao, và sau khi Trang Tông từ chối hạ chiếu, hoàng hậu tự ra lệnh cho Lý Kế Nghiệp giết Quách Sùng Thao. Sự kiện này khiến toàn bộ quân đội Hậu Đường lâm vào rối loạn, Sau đó Đường Trang Tông còn giết một vị tướng khác là Lý Kế Lân khiến tình hình thêm căng thẳng. Khang Diên Hiếu sau đó đã nổi dậy, và trong khi cuộc nổi dậy nhanh chóng bị đàn áp, quân sĩ tiếp tục tỏ ra bất bình, đặc biệt là trong lúc đó, nạn đói đang hoành hành ở Lạc Dương mà Lưu hoàng hậu chẳng chịu cứu tế. Lý Tự Nguyên cũng là mục tiêu của rất nhiều lời đồn đại, và Trang Tông đã cử tướng thân tín của ông ta là Chu Thủ Ân đến úy lạo và dò xét ông. Thủ Ân bí mật nói cho ông biết điều đó và khuyên rằng ông nên trở về đất phong để tránh tại họa. Lý Tự Nguyên đáp lại "Tấm lòng của ta không thẹn với trời đất. Nếu đại họa đến, tất không thể tránh khỏi đó là số phận của ta." Đã từng rất nhiều lần Hậu Đường Trang Tông nghe thấy những tin đồn và có ý giết ông, nhưng người thân cận của nhà vua là Mã Thiệu Hoành luôn tìm cách bảo vệ giúp ông thoát nạn., và Hà Trung, chặn đường về của Lý Kế Nghiệp. Ngay sang đó, đoàn người hộ tống Lý Kế Nghiệp đều quay lưng với anh ta, và anh ta buộc phải tự sát. Tướng Nhâm Viên nắm quyền chỉ huy quân đội, và gặp quân của Thạch Kính Đường, họ tuyên bố ủng hộ Lý Tự Nguyên..
Vào lúc đó, Phùng Đạo và Thôi Hiệp được phong làm tể tướng để thay thế Đậu Lư Cách và Vi Thuyết (Việc Thôi Hiệp được phong tướng vấp phải sự phản đối của Nhâm Viên, và sau việc đó ông này biết rằng Minh Tông đang bực bội vì mình bất hòa với An Trọng Hối, nên mùa hạ năm 927 đã xin từ chức ở ba sở
Trong khi đó, quan hệ giữa An Trọng Hối và Lý Tùng Kha cũng gặp mâu thuẫn, trước đây Tùng Kha trong một lần say rượu đã đánh đập An Trọng Hối, mặc dù sau đó đã xin lỗi, nhưng Trọng Hối vẫn ngầm oán hận trong lòng. Năm 930, Lý Tùng Kha đang là Tiết độ sứ Hộ Quốc, và Trọng Hối thường chỉ trích ông ta trước mặt Minh Tông, nhưng Minh Tông không theo. Trọng Hối bèn tìm kế khác để loại bỏ Tùng Kha. Ông ta bảo thuộc cấp của Tùng Kha là Dương Ngạn Ôn không cho Tùng Kha về thành sau một buổi đi săn. Khi Tùng Kha hỏi tại sao lại làm như vậy, Ngạn Ôn đáp: "Ngạn Ôn không dám phụ ơn, nhận mệnh lệnh của Xu mật viện, mời ông về triều". Lý Tòng Kha quyết định tiến hướng về Lạc Dương và báo việc cho Minh Tông, Minh Tông triệu cả hai về kinh, để điều tra sự việc, nhưng Trọng Hối bí mật sai giết Ngạn Ôn để diệt khẩu. Hậu quả là, Lý Tùng Kha bị cấm túc trong phủ đệ tại kinh thành. An Trọng Hối còn tìm cách buộc tội nữa, nhưng do có Vương Thục phi bảo vệ, nên Tùng Kha được vô sự. Vào cùng lúc đó, Lý Tùng Vinh được phong Tần vương và Lý Tùng Hậu là Tống vương. Cao Quý Hưng, ông này trên thực tế đã từ lâu bán li khai với chính quyền trung ương. Quý Hưng dâng biểu xin lấy đất ba châu Quý, Trùng Vạn.
Sau đó Cao Quý Hưng còn buộc triều đình không được cử người đến làm thứ sử để âm mưu chiếm cứ lâu dài miền đông nam nước Thục, nhưng Minh Tông không đồng ý. Sau đó Quý Hưng phái binh công phá Quỳ châu. Khi Minh Tông bổ nhiệm Tây Phương Nghiệp làm thứ sử Quỳ châu, Quý Hưng tìm cách ngăn cản. Khi áp nha Hàn Củng đem vàng bạc châu báu của triều đình Tiền Thục xuôi dòng Trường Giang để đến Lạc Dương, Cao Quý Hưng sai binh tập kích giết chết Hàn Củng ở cửa Tam Hiệp, cướp lấy tài sản. Minh Tông sai sứ gặng hỏi, Quý Hưng đáp trả một cách vô lễ, khiến Minh Tông đại nộ, quyết định thảo phạt Kinh Nam. Quân đội Hậu Đường do Tiết độ sứ Sơn Nam Đông Đạo Lưu Huấn và tiết độ sứ Trung Vũ Hạ Lỗ Kỳ cùng nhau bao vây thành Giang Lăng, nhưng rồi do thủy thổ không hợp, binh lính sinh bệnh rất nhiều, đường vận chuyển lại bị cắt đứt, quân triều đình phải lui, mặc dù tướng Tây Phương Nghiệp lấy lại được đất ba châu.
Cuối năm 928, Cao Quý Hưng chết, con là Cao Tùng Hối lên kế nhiệm. Tùng Hối không ủng hộ chính sách kháng Đường của phụ thân, và tìm cách thông qua chư hầu của Hậu Đường là Sở vương Mã Ân, cùng Tiết độ sứ Sơn Nam Đông Đạo An Nguyên Tín, ông xin quy phục nhà Đường. Minh Tông chuẩn thuận, phong Tùng Hối là Tiết độ sứ Kinh Nam, và chấm dứt chiến dịch chống Kinh Nam. Tháng 11 âm lịch năm 930, Gia Luật Bội đã đến Đăng Châu của nhà Hậu Đường. Tại đây Gia Luật Bội đã trở thành một khách quý của Minh Tông, thậm chí còn được vị Minh Tông ban cho họ Lý của hoàng tộc.
Năm 931, Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu Thị phái sứ giả từ vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Nguyễn) sang nhà Hậu Đường của Minh Tông để bang giao và triều cống.
Chiến dịch ở Thục và Nghĩa Vũ
Mối lo khác của Minh Tông là một số phiên trấn không ủng hộ ông nắm quyền. Người mà An Trọng Hối để tâm nhất là Mạnh Tri Tường, Tiết độ sứ Tây Xuyên ) và Đổng Chương, Tiết độ sứ Đông Xuyên ) — họ nắm giữ những vùng lãnh thổ trước đây của Tiền Thục. Vì Đổng Chương là một viên kiêu tướng không dễ gì khuất phục, và Mạnh là em rể của Trang Tông. Triều đình bèn tìm cách chia nhỏ Lưỡng Xuyên và thiết lập các trấn mới nhằm hạn chế thực lực của Mạnh Tri Tường và Đổng Chương. Hai người liên kết với nhau, chuẩn bị gây chiến chống lại triều đình.); Phùng Tri Ôn, Tiết đọ sứ Trung Vũ ), người đang chỉ huy quân đội phía bắc chống lại sự xâm lấn của Khiết Đan. Nhưng Vương Yến Cầu báo sự việc về cho triều đình, Minh Tông ra lệnh thảo phạt Vương Đô, quân triều đình trao cho Yến Cầu chỉ huy. Yến Cầu xua quân bao vây Định châu, nhưng chỉ giữ thế bao vây và triệt đường lương thực để cô lập thành chứ không đánh vội. Quân Khiết Đan tìm cách cứu Vương Đô nhưng thất bại. Đầu năm 929, tướng của Vương Đô Mã Nhượng Năng mở cửa thành nghiêng tiếp quân triều đình; Vương Đô tự tử, kết thúc chiến dịch.; Bảo Ninh ); và Vũ Tín . Năm 931, họ chính thức tạo phản. Lý Tự Nguyên triệu tập quân đội, giao quyền chỉ huy cho Thạch Kính Đường, thẳng tiến về Lưỡng Xuyên. Dù cho có những thành công ban đầu, quân đội triều đình bị sa lầy trong cuộc đối đầu với hai trấn, mắc kẹt tại Kiếm châu (Quảng Nguyên hiện nay). Quân đội Lưỡng Xuyên nhanh chóng kiểm soát Chiêu Vũ, Bảo Ninh, Vũ Tín và Vũ Thái ). Cuối năm 930, Trọng Hối đề nghị được ra chiến trường, nhà vua đồng ý. Tuy nhiên, sau khi Trọng Hối đi rồi, thì Thạch Kính Đường, vốn từ đầu đã không ủng hộ chiến dịch, đã dâng biểu nói lên những bất cập của cuộc viễn chinh. Chu Hoằng Chiêu, từng là thân tín của An Trọng Hối, hiện đang là Tiết độ sứ Phượng Tường ), cũng dâng biểu buộc tội Trọng Hối lập mưu chiếm giữ quân đội tây chinh. Nhà vua do đó triệu hồi Trọng Hồi, cách chức thủ tướng của ông ta, và giáng làm Tiết độ sứ Hộ Quốc. Sau đó An xin được trí sĩ, nhà vua cho cháu là Dương vương Lý Tùng Chương thay ông ta là Tiết độ sứ Hộ Quốc, nhưng Lý Tòng Chương sau đó, với sự cho phép của nhà vua, đã giết chết An Trọng Hối và phu nhân của ông ta (Sau khi Trọng Hối thất thế, Minh Tông khôi phục chức tước cho Lý Tùng Kha và Tiền Lưu, đổ lỗi cho Trọng Hối làm điều bậy bạ khiến Tiền Lưu, Đổng Chương và Mạnh Tri Tường bất mãn.) VỀ sau khi Minh Tông mất, Mạnh Tri Tường xưng đế, lập ra nước Hậu Thục.
Thời kì cuối
Năm 933, Tiết độ sứ Định Nan là Lý Nhân Phúc (người Đảng Hạng), vốn cai trị Định Nan một cách bán độc với chính quyền trung ương Hậu Đường, lập liên minh với Đại Khiết Đan quốc (đời vua Gia Luật Đức Quang). Nhưng giữa lúc đó Nhân Phúc chết, quân trung ủng hộ con trai ông ta là Lý Di Siêu làm lưu hậu. Nhà vua quyết định nhân cơ hội này thu phục lại Định Nam, bổ nhiệm An Trọng Tấn, Tiết độ sứ Chương Vũ làm Tiết độ sứ Định Nan, và đổi Lý Di Siêu làm Tiết độ sứ Chương Vũ. Đoán rằng Di Siêu sẽ kháng mệnh, Minh Tông cử Dược Ngạn Trù, tiết độ sứ Phượng Tường chỉ huy quân sĩ hộ tống An Trọng Tấn đến Định Nan. Quả nhiên Lý Di Siêu kháng mệnh, Ngạn Trù bèn xua quân bao vây Hạ châu, thủ phủ Định Nan quân ), nhưng thành phố phòng thủ kiên cố, và quân Định Nan thường xuyên đánh phá đường chuyển lương của quân triều đình. Khi Lý Di Siêu dâng thư xin thần phục, quân Hậu Đường thối lui. Người ta cho rằng từ thời điểm đó, Định Nan ngày càng coi thường chính quyền trung ương. Vì nhà vua lúc này đã mắc bệnh đột quỵ nhẹ, cùng với thất bại ở Định Nan, những tin đồn không tốt lan nhanh trong quân đội. và Minh Tông tìm cách trấn an họ bằng cách ban thưởng hậu hĩnh, hành động này khiến quân sĩ trở nên kiêu ngạo hơn.
Lý Tùng Vinh còn có một kế hoạch khác. Lo sợ rằng ngôi vua sẽ thuộc về Lý Tùng Hậu, người được Minh Tông đánh giá rất cao, Tùng Vinh quyết định ra tay trước nhằm khống chế triều đình. Hôm sau, nhà vua được tin con trai ông đã đem quân đánh vào cửa cung. Ông cảm thấy hoài nghi, chỉ vào ngón tay của mình và khóc rất lâu. Trước mặt Lý Trọng Cát, con trai của con trai nuôi ông là Lý Tùng Kha, ông so sánh hai người con: "Sự thực rằng cha ngươi với ta đều có một quá khứ chẳng mấy nổi bật, nhưng rồi lại nổi lên tranh giành thiên hạ. Nhiều lần nó đã cứu ta thoát khỏi nguy hiểm. Than ôi, cái chuyện tày trời mà Tùng Vinh đã làm thực là nham hiểm!" Ông nói với tả hữu cứ tự xử lý mọi sự.
Thê thiếp
- Ngụy thị (魏氏), người Bình Sơn, Trấn Châu (鎮州平山; nay thuộc Hà Bắc), được đầu kết hôn với một người họ Vương (王) có một con trai. Khi Lý Tự Nguyên tiến công Trấn châu năm 893, ông bắt được Ngụy thị và đứa nhụ tử đó về phủ, đổi tên cậu bé thành Lý Tùng Kha. Ngụy thị qua đời mấy năm sau ở Thái Nguyên.
- Hạ thị (夏氏), mất năm 924, mẫu thân của Lý Tùng Vinh và Lý Tùng Hậu.
- Tào hoàng hậu (曹皇后), mẹ của công chúa Vĩnh Ninh, trở thành hoàng hậu năm 930. Bà cùng với Lý Tùng Kha tự thiêu năm 937 khi Hậu Đường diệt vong.
- Vương Thục phi (王淑妃), người Bân châu , ban đầu làm người hầu cho viên tướng Hậu Lương là Lưu Tầm. Lưu Tầm bị giết, An Trọng Hối nghe danh tiếng về sắc đẹp của bà nên nói với Lý Tự Nguyên. Bà một mặt tôn trọng Tào hoàng hậu và Hoàng đế, do đó được trọng vọng và nắm nhiều ảnh hưởng đến nền chính trị vào những năm cuối đời Minh Tông. Bị giết năm 947 cùng với dưỡng tử là Lý Tùng Ích.
- Nhiều người vợ thứ được phong làm Phu nhân năm 932, gồm có Vương Chiêu nghi, Cát Chiêu dung, Lưu Chiêu viện, Cao Tiệp dư, Thẩm mỹ nhân, Chu Thuận ngự...
Con cái
;Con trai
- Lý Tùng Thẩm, con trai trưởng, đổi từ tên Lý Kế Cảnh trước khi bị giết năm 926. Được Hậu Đường Trang Tông nhận làm con nuôi, nguyên danh Lý Tùng Cảnh.
- Lý Tùng Vinh, con trai thứ hai,
- Lý Tùng Ích chào đời năm 931, không rõ mẹ ruột là ai, nhưng Minh Tông trao cho Vương Thục phi nuôi dưỡng. Được tấn phong Hứa vương năm 933 rồi Tuân quốc công năm 939 dưới Hậu Tấn. Sau khi Hậu Tấn bị Khiết Đan tiêu diệt, Liêu Thái Tông phong Lý Tùng Ích làm vua bù nhìn của Trung Quốc trước khi người Liêu lui về mạn bắc. Vị hoàng đế vắn số không thể triệu tập bất kì lộ chư hầu nào bảo vệ mình và đã bị Lưu Tri Viễn giết chết cùng với mẹ nuôi là Vương Thục phi.
;Cháu trai
- Lý Tùng Xán (李從璨), bị giết năm 929
- Lý Tùng Chương (李從璋), tấn phong Dương vương năm 933.
- Lý Tùng Ôn (李從溫), sinh năm 927, tấn phong Duyện vương năm 933, chết năm 937.
- Lý Tùng Mẫn (李從敏), phong Kính vương năm 933.
|-
|-
|-
|-
Chú thích và tham khảo
Nguồn
Thể loại:Sinh năm 867 Thể loại:Mất năm 933 Thể loại:Vua Hậu Đường Thể loại:Nhân vật quân sự Ngũ đại Thập quốc Thể loại:Người Sơn Tây (Trung Quốc) Thể loại:Danh tướng Trung Quốc Thể loại:Người Trung Quốc thế kỷ 10 Thể loại:Người Trung Quốc thế kỷ 9