✨Lý Tùng Kha
Lý Tùng Kha () (11 tháng 2 năm 885 – 11 tháng 1 năm 937), sử gọi là Hậu Đường Mạt Đế (後唐末帝) hay Hậu Đường Phế Đế (後唐廢帝) là hoàng đế cuối cùng của triều Hậu Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc. Ông là con nuôi của Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên, đoạt lấy ngôi vua sau khi lật đổ Hậu Đường Mẫn Đế Lý Tùng Hậu - con đẻ của Minh Tông. Sau đó, ông lại bị em rể là Thạch Kính Đường lật đổ với sự hỗ trợ của Khiết Đan. Khi liên quân của Thạch Kính Đường và Khiết Đan đánh bại quân Hậu Đường, Lý Tùng Kha cùng hoàng thất và các triều thần trung thành tự thiêu tập thể tại kinh thành.
Thân thế
Lý Tùng Kha sinh ngày 23 tháng 1 năm Ất Tị (11 tháng 2 năm 885, thời Đường Hy Tông) tại Bình Sơn. Ông vốn mang họ Vương, mẹ mang họ Ngụy, cả hai đều là người Bình Sơn.
Đến thời gian niên hiệu Cảnh Phúc (892-893) thời Đường Chiêu Tông, khi Lý Tự Nguyên- đang là bộ tướng dưới quyền cha nuôi Hà Đông tiết độ sứ Lý Khắc Dụng- đang lược đoạt khu vực dưới sự chỉ huy của Lý Khắc Dụng, Lý Tự Nguyên bắt mẹ con Ngụy thị đem về làm thiếp. Lý Tự Nguyên nhận nuôi và đặt tên ông là Tùng Kha. (Lý Tùng Kha có lẽ lớn tuổi hơn tất cả các con đẻ của Lý Tự Nguyên, do độ tuổi của Lý Tùng Thẩm (李從審) và Lý Tùng Vinh không được ghi lại, còn Lý Tùng Hậu và Lý Tùng Ích, được sinh khá lâu sau đó.) Ông có tiểu tự là "Nhị Thập Tam", hay gọi tắt là "A Tam" theo sinh nhật của mình.
Khi còn nhỏ, Lý Tùng Kha được miêu tả là cẩn trọng và ít nói. Theo một tường thuật mà Lý Tự Nguyên nêu ra sau này, gia cảnh của Lý Tự Nguyên đương thời không giàu sang, và thường không đủ tiền sinh hoạt. Lý Tùng Kha giúp đỡ gia đình bằng cách thu lượm vôi và phân ngựa về để dùng hoặc bán. Lý Tự Nguyên là một trong các tướng chính của Lý Tồn Úc, còn Lý Tùng Kha phụng sự dưới quyền cha nuôi. Theo ghi chép, Lý Tùng Kha là người mạnh mẽ và cao hơn bảy xích, má vuông mình lớn, tài mạo hùng vĩ, dũng mãnh cương nghị, được Lý Tự Nguyên rất yêu mến. Lý Tùng Kha theo Lý Tự Nguyên đánh dẹp, do nỗ lực chiến đấu nên có được danh tiếng, khiến Lý Tồn Úc (cùng tuổi với Lý Tùng Kha và là một chiến binh hung mãnh) từng nói "A Tam không chỉ cùng tuổi với ta, [tính] cảm chiến cũng giống nhau." Lý Tùng Kha cùng cha đem 3.000 kỵ binh làm tiền phong đi chiến đấu với Khiết Đan vào năm 917.
Cuối năm 918, Lý Tồn Úc muỗn tiến hành một chiến dịch lớn để tiêu diệt kình địch Hậu Lương ở phía nam, đích thân dẫn quân nam hạ hướng đến kinh thành của Hậu Lương là Đại Lương. Đến tháng 1 DL năm 919, Lý Tồn Úc chạm trán với đại quân của Hậu Lương dưới quyền Bắc diện hành doanh chiêu thảo sứ Hà Côi, tại Hồ Liễu Pha , ở bờ nam Hoàng Hà. Quân Tấn ban đầu giành được thắng lợi, song sau đó do nhầm lẫn về thông tin nên quân Tấn nghĩ rằng mình chiến bại rồi suy sụp. Trong hỗn loạn, đại tướng Chu Đức Uy bị giết, Lý Tự Nguyên mất liên lạc với Lý Tồn Úc, còn Lý Tùng Kha nằm trong một nhóm nhỏ binh sĩ tháp tùng Lý Tồn Úc. Lý Tự Nguyên cho rằng Lý Tồn Úc đã vượt sang bờ bắc Hoàng Hà nên quyết định vượt sông, trong khi Lý Tồn Úc vẫn phải vật lộn tìm đường. Lý Tùng Kha cùng các bộ tướng khác và các bộ tốt sau đó chiếm được một gò đất, cho phép Lý Tồn Úc có được một vị trí cao để tiến hành một cuộc phản công. Quân Tấn phản công thành công, giết được một lượng lớn binh sĩ Hậu Lương, dẫn tới kết quả tổng thể là hai bên đều chịu thiệt hại nặng nề, mất khoảng 2/3 binh sĩ và không thể tiến đánh lẫn nhau trong một thời gian sau đó. Đến cuối trận chiến, Lý Tồn Úc chiếm được Bộc Dương, một lộ điểm để có thể rút lui về lãnh thổ Tấn. Lý Tòng Kha cũng góp công vào thắng lợi của cuộc phản kích. Lý Tự Nguyên hay tin Lý Tồn Úc đang ở Bộc Dương thì quay trở lại Hà Nam và gặp được Lý Tồn Úc. Lý Tồn Úc không hài lòng và nói: Công cho là ta đã chết? vượt sông làm gì? Lý Tự Nguyên cúi đầu sát đất tạ tội. Lý Tồn Úc thấy Lý Tùng Kha có công, nên chỉ ban rượu đại chung cho Lý Tự Nguyên để trách phạt, song từ đó đối xử sảo bạc với Lý Tự Nguyên. tiết độ sứ Đái Tư Viễn, Đái Tư Viễn để Lư Thuận Mật (盧順密), Lưu Toại Nghiêm (劉遂嚴), và Yến Ngung (燕顒) ở lại trấn thủ Vận châu, thủ phủ của Thiên Bình. Tuy nhiên, không lâu sau khi Lý Tồn Úc xưng đế, Lư Thuận Mật trốn thoát sang Hậu Đường và tiết lộ rằng Vận châu chỉ có dưới 1.000 lính phòng vệ, và rằng Lưu Toại Nghiêm và Yến Ngung mất lòng binh sĩ, Hậu Đường có thể tập kích để đoạt lấy. Do Vận châu nằm sâu trong lãnh thổ Hậu Lương ở Hà Nam, hầu hết tướng của Hậu Đường Trang Tông, gồm cả Xu mật sứ Quách Sùng Thao, phản đối đề xuất của Lư Thuận Mật, cho rằng điều này nguy hiểm và vô ích. Tuy nhiên, Lý Tự Nguyên vì muốn lập công để khôi phục quan hệ với Trang Tông, do vậy đề xuất để mình đảm đương nhiệm vụ. Trang Tông chấp thuận, và đến ngày Nhâm Dần (28) tháng 4 nhuận năm Quý Mùi (15 tháng 6 năm 923) cho Lý Tự Nguyên đem theo 5.000 tinh binh từ Đức Thắng đến Vận châu, lợi dung ban đêm nhanh chóng tiến quân. Quân của Lý Tự Nguyên đến dưới thành mà người Vận châu không biết, Lý Tùng Kha cầm quân tiền phong trèo lên tường thành. Sau khi Lý Tự Nguyên chiếm được thành Vận châu, người này được Trang Tông bổ nhiệm làm Thiên Bình tiết độ sứ và giữ thành trong vài tháng, quân Hậu Lương (đương thời dưới quyền Vương Ngạn Chương) thất bại trong việc cắt đường tiếp tế giữa Vận châu với lãnh thổ còn lại của Hậu Đường.
Hoàng đế Hậu Lương là Chu Hữu Trinh sau đó quyết định cho Đoàn Ngưng thay thế Vương Ngạn Chương, Đoàn Ngưng vượt Hoàng Hà và tiến đến Thiền châu và chuẩn bị một chiến dịch tấn công Hậu Đường:.
Vương Ngạn Chương và Trương Hán Kiệt (張漢傑) tiến hướng đến Vận châu.
Đoàn Ngưng cùng với Đỗ Yến Cầu sẽ đối đầu với Hậu Đường Trang Tông.
Tháng 9 ÂL, Vương Ngạn Chương dẫn binh vượt sông Vấn, tương công Vận châu, Lý Tự Nguyên khiển Lý Tùng Kha đem kỵ binh nghịch chiến, đánh bại quân tiền phong của Hậu Lương, bắt được 300 tướng sĩ, giết được 200 người, khiến Vương Ngạn Chương phải triệt thoái về giữ Trung Đô. Hậu Đường Trang Tông thêm quyết tâm sau chiến thắng của Lý Tùng Kha, sau đó đánh vào sườn quân Đoàn Ngưng và tiến đến Vận châu để hội quân với Lý Tự Nguyên. Sau đó, quân Hậu Đường tiến công Trung Đô, đánh bại và bắt được Vương Ngạn Chương và Trương Hán Kiệt, sau đó tiến thẳng về kinh thành của Hậu Lương. Hoàng đế Chu Trấn của Hậu Lương thấy không còn hy vọng nên tự sát vào ngày 18 tháng 11, Hậu Lương diệt vong. Hậu Đường Trang Tông tiến vào Đại Lương và nói với Lý Tự Nguyên, "Ta có Thiên hạ cũng là nhờ công của cha con khanh, cùng các ngươi chung hưởng thiên hạ." Trang Tông sau Lý Tùng Kha đi chiếm vị trí tại Phong Khâu, có vẻ do lo sợ rằng Đoàn Ngưng và Đỗ Yến Cầu có thể tiếp tục kháng cự, song hai người này sau đó lần lượt đến Phong Khâu và đầu hàng Lý Tùng Kha. tiết độ sứ Lý Thiệu Bân chỉ huy kỵ binh phòng thủ. Ngày Đinh Dậu (5) tháng 3 năm Ất Dậu (31 tháng 3 năm 925), Lý Tự Nguyên dâng biểu xin cho Vệ châu thứ sử Lý Tùng Kha được làm Bắc Kinh nội nha mã bộ đô chỉ huy sứ để được gần gia đình, tuy nhiên Hậu Đường Trang Tông tức giận cho là Tự Nguyên quá cả gan, truất Lý Tùng Kha làm Đột kỵ chỉ huy sứ, chỉ huy vài trăm người phòng thủ trấn Thạch Môn. Điều này khiến Lý Tự Nguyên lo sợ, còn cơn giận của Hậu Đường Trang Tông giảm bớt qua thời gian. (Có vẻ như trong khoảng thời gian này, trong một dịp khi Lý Tùng Kha còn ở Trấn châu, thủ phủ của Thành Đức, là nơi Lý Tự Nguyên làm tiết độ sứ, Lý Tùng Kha và thân tín của Lý Tự Nguyên là An Trọng Hối có tranh cãi trong một bữa tiệc. Lý Tùng Kha đánh An Trọng Hối, An Trọng Hối phải chạy trốn. Lý Tùng Kha hết say thì đến tạ tội với An Trọng Hối, An Trọng Hối mặc dù chấp nhận song trong lòng mang mối hận với Lý Tùng Kha.), song các binh sĩ của Lý Tự Nguyên lại tiến hành binh biến và buộc ông phải tham gia nổi dậy cùng binh sĩ tại Nghiệp Đô. Lý Tự Nguyên quyết định quay sang chống Lý Tồn Úc, tiền về phía nam hướng đến Đại Lương và kinh thành đương thời là Lạc Dương. Lý Tùng Kha đem binh sĩ dưới quyền đến hội quân với Ngu hầu tướng Vương Kiến Lập tại Trấn châu, sau đó tiến tiếp về phía nam tăng viện cho Lý Tự Nguyên. Lý Tự Nguyên nhanh chóng tiến vào Đại Lương rồi tiến hướng đến Lạc Dương. Trước khi Lý Tự Nguyên đến Lạc Dương, Lý Tồn Úc bị sát hại trong một cuộc binh biến tại Lạc Dương, Lý Tự Nguyên vào Lạc Dương và xưng là giám quốc, do khi đó còn lưỡng lự về việc có nên ủng hộ con cả của Trang Tông là Ngụy vương Lý Kế Ngập hay không (người này đang trở về sau khi chinh phục Tiền Thục).
Thời Minh Tông
Tuy nhiên, Lý Tự Nguyên sau đó quyết định chống lại Lý Kế Ngập, cử Lý Tùng Kha đến Hộ Quốc vào ngày Kỷ Hợi (13) tháng 4 (27 tháng 5 năm 926) và cử Thạch Kính Đường đến Bảo Nghĩa để làm lưu hậu và phòng thủ trước khả năng bị Lý Kế Ngập tiến công. Tuy nhiên, Lý Kế Ngập bị binh sĩ bỏ rơi nên quyết định tự sát. Lý Tự Nguyên sau đó xưng đế. và cho người báo lại sự việc cho Minh Tông. Minh Tông biết tin thì ngờ vực, song An Trọng Hối chối việc có bất cứ liên lạc nào với Dương Ngạn Ôn và nói rằng Dương Ngạn Ôn là gian nhân. Minh Tông khiển các tướng Sách Tự Thông (索自通) và Dược Ngạn Trù (藥彥稠) đem quân thảo phạt Dương Ngạn Ôn, với lệnh rằng Dương Ngạn Ôn phải bị bắt sống để Minh Tông có thể gặp mặt tra hỏi. Tuy nhiên, khi Sách Tự Thông và Dược Ngạn Trù chiếm được Hà Trung vào ngày Tân Hợi (18) tháng 4 (18 tháng 5), họ lại chém Dương Ngạn Ôn, Minh Tông rất tức giận song không trừng phạt họ.
An Trọng Hối sau đó xúi giục các tể tướng Phùng Đạo và Triệu Phượng tấu với Minh Tông rằng Lý Tùng Kha không kiểm soát được trấn, cần phải bị trừng phạt. Tuy nhiên, Minh Tông từ chối ngay cả khi đích thân An Trọng Hối đề cập đến vấn đề này, song lệnh cho Lý Tùng Kha quay trở về phủ tại kinh thành. Sau khi Sách Tự Thông được bổ nhiệm làm Hộ Quốc tiết độ sứ, An Trọng Hối xúi giục người này vu cáo Lý Tùng Kha tự tạo vũ khí. Theo ghi chép, nhờ có ái phi của Minh Tông là Vương đức phi bảo hộ nên Lý Tùng Kha mới được miễn. Các sĩ đại phu không dám qua lại với Lý Tùng Kha, ngoại trừ Lã Kỳ sống gần đó, mỗi khi tấu thỉnh, Lý Tùng Kha thường bàn bạc trước với Lã Kỳ. tiết độ sứ. Ngày Mậu Dần (3) tháng 5 năm Quý Tị (29 tháng 5 năm 933), Minh Tông lập Lý Tùng Kha làm Lộ vương, đồng thời cũng phong vương cho hoàng tử Lý Tùng Ích và các tụng tử Lý Tùng Ôn (李從溫), Lý Tùng Chương (李從璋), và Lý Tùng Mẫn (李從敏).
Cũng trong năm 933, Minh Tông lâm bệnh nặng, hoàng tử Lý Tùng Vinh sợ rằng sẽ không thể kế vị nên cố dùng vũ lực đoạt quyền, song thất bại và bị giết. Sau khi Minh Tông mất, Lý Tùng Hậu đăng cơ kế vị vào ngày Quý Mão (1) tháng 12 (20 tháng 12)., và chuyển Thành Đức tiết độ sứ Phạm Diên Quang đến Thiên Hùng. Họ làm vậy mà không cần Lý Tùng Hậu giáng chế thư, mà chỉ cứ sứ thần đem lệnh từ Xu mật viện đến trấn. Lo sợ trước những tác động, đặc biệt là khi triều đình mệnh Dương vương Lý Tùng Chương tạm quyền cai quản Phượng Tường, mà Lý Tùng Chương lại có tiếng là thô thiển, từng chính tay giết An Trọng Hối. Lý Tùng Kha thảo luận với tướng tá của mình, họ đều khuyên ông nổi dậy. Lý Tùng Kha nghe theo, tuyên bố rằng Chu Hoằng Chiêu và Phùng Vân giết trưởng lập thiếu, chuyên chế triều quyền. giết Lý Tùng Hậu, nơi phế đế đang ở, Khổng hoàng hậu và bốn hoàng tử của Lý Tùng Hậu cũng bị giết. tiết độ sứ Triệu Diên Thọ và cha là Lư Long tiết độ sứ Triệu Đức Quân cảm thấy lo sợ. Do Thạch Kính Đường khi đó có thể trạng yếu (sau một thời giam ốm đau kéo dài), Lý Tùng Kha cho rằng Thạch Kính Đường không còn là mối đe dọa sau này, và do đó cử Thạch Kính Đường quay trở lại Hà Đông.
Trong năm 935, hoàng đế Gia Luật Đức Quang của Đại Khiết Đan quốc nhiều lần phái quân Khiết Đan xâm nhập lãnh thổ Hậu Đường,. Trong lãnh thổ Hậu Đường lại xảy ra nhiều trận lụt và hạn hán, do vậy xảy ra nạn đói và tình trạng dân lưu tán. Thạch Kính Đường và Triệu Đức Quân nhiều lần yêu cầu tăng viện để chống Khiết Đan, người dân Hậu Đường bị quá sức. Hơn nữa, trong một lần khi một sứ thần của triều đình đưa quân phục đến cho binh sĩ của Thạch Kính Đường, binh sĩ của Thạch Kính Đường nhiều lần hô vạn tuế. Thạch Kính Đường cho xử tử 36 binh sĩ đề xướng, song Lý Tùng Kha vẫn ngờ vực Thạch Kính Đường, và do đó đến ngày Ất Tị (13) tháng 7 (14 tháng 8) thì bổ nhiệm Vũ Ninh tiết độ sứ Trương Kính Đạt làm phó của Thạch Kính Đường, tức Bắc diện hành doanh phó tổng quản, nhằm phân tán quyền lực của Thạch Kính Đường.
Tổng diện tích của hai hình vuông có cạnh là hai cạnh vuông của tam giác vuông (_a_ và _b_) bằng diện tích của hình vuông có cạnh là cạnh huyền (_c_). Trong