✨Nguyên Anh Tông

Nguyên Anh Tông

Nguyên Anh Tông (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ chín của đế quốc Mông Cổ. Ông là con của vị hoàng đế tiền nhiệm Nguyên Nhân Tông Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt. Tên của ông có nghĩa là "Khả hãn giác ngộ/tươi sáng" trong tiếng Mông Cổ.

Trong thời gian cầm quyền, ông được đánh giá là một Hoàng đế chuyên tâm vào chính sự, tiếp tục cai trị theo lối Hán pháp Nho giáo giống như thời vua cha, giúp duy trì sự thịnh trị của nhà Nguyên. Tuy nhiên, ông cũng đưa ra những luật lệ rất tàn bạo, hà khắc với người Hán, tạo ra mầm mống diệt vong cho triều Nguyên sau này.

Trước khi lên ngôi

right|thumb|Vua [[Cung Mẫn Vương (1330-1374) và Nhân Đức Vương hậu, đã ủng hộ sự kế vị của Nguyên Anh Tông]] Thạc Đức Bát Thích sinh ngày 22 tháng 2 năm 1302, dưới thời của Nguyên Thành Tông Thiết Mộc Nhĩ. Cha ông là Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt, cháu gọi Thành Tông bằng chú. Mẹ là A Nạp Thất Thất Lý thuộc bộ tộc Hoằng Cát Lạt thị.

Năm 1307, Thành Tông băng hà. Hải Sơn, bác ruột của ông, anh trai Bát Đạt lên ngôi, tức Nguyên Vũ Tông. Bát Đạt rất được vua anh trọng dụng, phong làm Hoàng thái đệ với điều kiện sau này khi đăng cơ phải cho con cái của Vũ Tông làm người nối ngôi.

Năm 1311, Vũ Tông qua đời. Bát Đạt kế vị, tức Nguyên Nhân Tông. Tuy đã hứa với tiên đế nhưng năm 1316, thừa tướng Thiếp Mộc Điệp lấy lòng Nhân Tông bằng cách ủng hộ lập con trưởng là Thạc Đức Bát Thích làm Hoàng thái tử. Mẹ Nhân Tông là Hoàng thái hậu Đáp Kỷ (Dagi) thấy cháu nội còn nhỏ, lại trông có vẻ nhút nhát yếu đuối, sẽ dễ thao túng nên rất tán thành. Vài tuần sau, Thạc Đức Bát Thích được phong làm Thái tử ở tuổi 14.

Năm 1320, Nhân Tông qua đời. Thạc Đức Bát Thích lên kế vị ở Đại Đô, tức Nguyên Anh Tông. Ông tôn mẹ là A Nạp Thất Thất Lý làm Hoàng thái hậu, tổ mẫu Đáp Kỷ làm Thái hoàng thái hậu.

Trị vì

Con rối không bị thao túng

Đáp Kỷ nhanh chóng nhận ra mình đã lầm. Vị hoàng đế mà bà luôn muốn kiểm soát không hề yếu đuối như bà nghĩ. Thạc Đức Bát Thích thực ra là một người mạnh mẽ, có nhiều tham vọng lớn dù còn ít tuổi. Sau nhiều nỗ lực thao túng không thành, Thái hoàng thái hậu than:"Biết thế ta chẳng lập thằng oắt con cứng đầu này" rồi bỏ cuộc. Thực tế, dù thừa tướng Thiếp Mộc Điệp nắm quyền hành lớn trong triều, thường xuyên đàn áp các đối thủ của mình trong những cuộc thanh trừng, nhưng Hoàng đế đã tái khôi phục quyền lực sau cái chết của ông ta.

Ngay từ đầu triều đại, Nguyên Anh Tông đã cho thấy sự độc lập chính trị và nghị quyết vươn lên nhiều năm. Mùa hè năm 1320, một trong những động thái chống đối Đáp Kỷ và Thiếp Mộc Điệp là bổ nhiệm Bái Trú, người của bộ lạc hiển hách Jalayir làm quan lớn ở cánh tả, điều này đã mang lại cho Hoàng đế một số lợi thế chính trị. Tuy Thiếp Mộc Điệp có quyền lực tối cao nhưng Bái Trú, chỉ huy của kheshig, hậu duệ của Mộc Hoa Lê (vị tướng nổi tiếng của Thành Cát Tư Hãn) được giáo dục tốt về Nho giáo nên dù chỉ mới 21 tuổi đã được Hoàng đế chú trọng hơn cả. Ông dần thay thế cả vị trí của Thiếp Mộc Điệp.

Vừa lên ngôi, Nguyên Anh Tông thực hiện rất nhiều cải cách. Một mặt duy trì lối cai trị kiểu Hán pháp, mặt khác khắc phục vấn đề tài chính của đế quốc đang rơi vào khủng hoảng. Ông cũng cải cách mạnh mẽ đối với chế độ chọn Đại hãn Mông Cổ. Tuy vậy, giới quý tộc Mông Cổ vô cùng bất mãn với chính sách xóa bỏ quốc lễ của Anh Tông để tiết kiệm quốc khố nên chưa được bao lâu sau khi đăng cơ, Nguyên Anh Tông đã nhanh chóng bị cô lập và bị nhiều người phản đối.

Ngai vàng của ông nhanh chóng trở thành tâm điểm để các quan chức học giả Nho giáo bảy tỏ lòng trung thành trong cuộc đấu tranh chống lại thế lực hùng mạnh của Thiếp Mộc Điệp. Thạc Đức Bát Thích luôn trong tâm thế chuẩn bị kĩ lưỡng, vì vậy ông được giáo dục tốt tiếng Trung như cha mình. Bị ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo và Phật giáo, Thạc Đức Bát Thích có thể trích dẫn những bài thơ Đường và được đánh giá là một nhà thư pháp có tài.

Bên cạnh Nho giáo, Nguyên Anh Tông cũng có nhiều hoạt động liên quan đến Phật giáo. Năm 1321, Anh Tông đã xây dựng một ngôi chùa Phật giáo để vinh danh "Lạt-ma Phags-pa" trên vùng núi phía tây Đại Đô, và khi bị pháp quan chỉ trích, ông đã xử tử vài người trong số họ, trong đó có một sĩ quan nổi tiếng tên là Soyaoelhatimichi, người có tổ tiên trung thành với Hoàng gia Mông Cổ. Mặt khác, Hồi giáo phải chịu sự phân biệt đối xử vô cùng nghiêm khắc suốt thời gian trị vì của Anh Tông. Nhiều thông tin dẫn chứng việc hoàng đế ra lệnh phá hủy một ngôi đền được xây dựng bởi người Hồi giáo tại Thượng Đô và cấm họ mua nô lệ từ người Mông Cổ và bán lại cho người Trung Quốc.

Để dân giàu nước mạnh, Nguyên Anh Tông đã thực hiện nhiều cải cách khác nhau. Về kinh tế, ông thực thi tiết kiệm chi tiêu, tinh giản cơ cấu. Với những người dân lưu tán khắp nơi, ông vỗ về an ủi bằng cách ban thêm cho họ ruộng đất, lương thực, trâu ngựa. Đối với những nơi gặp nạn đói và thiếu lương thực trầm trọng, ông ra lệnh cấm người dân uống rượu và giết trâu, bò, ngựa. Về chính trị, Anh Tông thực hiện một loạt biện pháp nhằm tập trung quyền lực tại trung ương. Ông cấm giáo sĩ giao du với chư vương, cấm trung thư tỉnh không được tiết lộ cơ mật, dân chúng không được nói năng hồ đồ về chính sách cai trị của ông.

Khác hẳn vua cha Nhân Tông trước đó, Nguyên Anh Tông đưa ra nhiều chính sách hà khắc đối với người Hán, nhóm dân tộc chiếm đa số trên lãnh thổ Trung Quốc. Ông cấm người Hán dùng binh khí đi săn, cấm họ không được luyện tập võ nghệ và không được họp chợ đêm. Cựu hoàng đế Tống Cung Đế từng ngâm thơ thể hiện sự căm thù đối với người Mông Cổ, liền bị ông hạ lệnh xử tử. Tuy nhiên, ông lại rất chú trọng việc học văn hoá của người Hán, hạ lệnh đãi ngộ đặc biệt cho những người là con cháu của Khổng Tử và tôn sùng họ.

Nguyên Anh Tông được ghi nhận là biết tiếp thu ý kiến người khác. Ông từng bổ nhiệm Bột La Đài làm Thái thường sở lệnh, còn viên quan Bái Trú từng là một phe của Anh Tông cũng được trọng dụng. Có lần vào dịp Tết Nguyên Đán, Anh Tông muốn kết hoa, giăng đèn trang trí Đại Đô trong ngày Tết. Tuy vậy, trung thư sảnh sự Trương Dưỡng Hạo khuyên đất nước đang khó khăn, xin hoàng đế thực hiện chủ trương tiết kiệm, thế là Anh Tông đã khen thưởng Trương Dưỡng Hạo và huỷ bỏ ý định này.

Nắm đại quyền

Năm 1322, Thái hoàng thái hậu Đáp Kỷ và thừa tướng Thiếp Mộc Điệp Nhi qua đời. Anh Tông cuối cùng đã thâu tóm mọi quyền hành trong triều và nhanh chóng triệt tiêu phe Hoằng Cát Lạt thị ra khỏi chính quyền mới do mình lãnh đạo. Sự đàn áp khắc nghiệt đối với các phe phái đối lập bao gồm tước quyền sở hữu và tài sản của Thiếp Mộc Điệp, đày con trai Thiếp Mộc Điệp vào ngục và xử tử. Mặt khác, ông thăng Bái Trú làm thừa tướng, xem Bái Trú là đồng minh mạnh mẽ của mình. Ngoài ra, họ loại bỏ khá nhiều hạ nhân có bổn phận hầu hạ Hoàng thái hậu và Hoàng hậu. Việc gia tăng thực thi chủ nghĩa Tống Nho đã giúp nới rộng giới hạn của phụ nữ Mông Cổ, họ được phép di chuyển tự do hơn ở nơi công cộng.

Sau khi chính thức nắm trọn quyền lực, Thạc Đức Bát Thích tiếp tục thực hiện một loạt chính sách nữa dựa trên nguyên tắc Nho giáo, tiếp tục các chính sách của cha để tích cực thúc đẩy văn hóa Trung Quốc. Thứ nhất, ông trọng dụng một lượng lớn Nho thần và quan lại địa phương người Hán, nhiều người đã từ chức khi Thiếp Mộc Điệp nắm quyền. Đứng đầu danh sách này, Trương Quế, một viên quan kỳ cựu, được bổ nhiệm lại làm quản lý các vấn đề chính phủ và trở thành đối tác chính của Bái Trú trong việc tiến hành cải cách. Ngoài ba học giả cao tuổi được bổ nhiệm làm ủy viên Hội đồng Cố vấn, bảy học giả nổi tiếng đã được bổ nhiệm vào Hàn Lâm Viện. Thứ hai, ông bãi bỏ viện Huy chính và những quan lại vô dụng. Thú ba ông thực thi chính sách trợ dịch. Thú tư ông cho giảm bớt lao dịch. Thứ năm ông thẩm định và ban ra [Đại Nguyên thông chế; 大元通制] bao gồm các tổ chức toàn diện của Đại Nguyên. Bộ sưu tập khổng lồ gồm nhiều quy tắc và quy định của nhà Nguyên do cha ông định ra, đã được sửa đổi để hợp lý hóa chính quyền và tạo điều kiện để thực thi công lý.

Hơn nữa, để giảm bớt gánh nặng lao động của các địa chủ nhỏ, chính quyền của Anh Tông đã quy định rằng các địa chủ dành một phần đất nhất định được đăng ký thuộc quyền sở hữu của họ từ đó có thể thu tiền để trang trải chi phí.

Bị hại

Bất chấp những thành tựu của triều đại Nguyên Anh Tông, nó đã kết thúc một cách bi thảm ngày 4 tháng 9 năm 1323 trong cuộc đảo chính ở Nanpo do sự thiếu cảnh giác của hoàng đế. Ngự sử Thiết Thất (Tegshi), con nuôi của Thiếp Mộc Điệp, khi thấy hoàng đế liên tục bắt giam và giết hại con cái của cha nuôi mình thì vô cùng sợ hãi, lo sợ mình cũng sẽ chung số phận. Do đó, Thiết Thất quyết định lên kế hoạch ám sát Anh Tông, nhằm lập con trưởng của tướng Cam Ma Thích là Tấn Vương Dã Tôn Thiết Mộc Nhi lên ngôi.

Một âm mưu được hình thành giữa phe cánh còn sót lại của Thiếp Mộc Điệp - những kẻ luôn lo sợ bị Hoàng đế báo thù, được lãnh đạo bởi Thiết Thất. Bên cạnh các bậc công thần, có năm Thân vương tham gia là: Altan Bukha, em trai của cựu hoàng tử An-si; Ananda, người bị phe của Nhân Tông trước đây xử tử; Bolad, cháu trai của A Lý Bất Ca; Yerutömor, con trai của Ananda; Kulud Bukha; và Ulus Bukha, hậu duệ của Khả hãn Mông Kha.

Tháng 9 năm 1323, khi Nguyên Anh Tông ngủ lại ở Nanpo trên đường từ cung điện mùa hè Thượng Đô trở về Đại Đô. Thiết Thất cùng các phe cánh của Thiếp Mộc Điệp đột nhập vào phòng ngủ của Anh Tông và giết chết Hoàng đế ngay trên giường. Bái Trú cũng bị giết theo. Thiết Thất cho đón Dã Tôn Thiết Mộc Nhi về để đăng cơ, tức Nguyên Thái Định Đế. Tuy nhiên, chính Dã Tôn Thiết Mộc Nhi về sau đã thanh trừng phe cánh của Thiết Thất trước khi ông vào Đại Đô vì lo sợ bản thân mình sẽ trở thành con rối của họ.

Như vậy Nguyên Anh Tông chỉ ở ngôi được ba năm, thọ 21 tuổi. Triều đại của Anh Tông khá ngắn, giai đoạn nắm thực quyền của ông chỉ tồn tại trong một năm sau cái chết của Thái hoàng thái hậu Đáp Kỷ, nhưng ông đã được tôn vinh trong các ghi chép của các sử gia Trung Quốc kể từ khi ông và vua cha Nhân Tông nỗ lực mạnh mẽ dưới sự trợ giúp bởi các học giả Trung Quốc để thay đổi đáng kể diện mạo nhà Nguyên theo dòng Nho giáo truyền thống. Từ quan điểm đó, vụ ám sát Nguyên Anh Tông đôi khi được giải thích là cuộc đấu tranh giữa phe thân Khổng giáo và phe trung thành với văn hóa Mông Cổ, vì Nguyên Thái Định đế đã cai trị vùng đất Mông Cổ trước khi kế vị ngai vàng và các chính sách của ông có vẻ tương đối bất lợi cho các quan lại người Hán.

Gia quyến

  • Cha: Nguyên Nhân Tông Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt.
  • Mẹ: Trang Ý Từ Thánh Hoàng hậu A Nạp Thất Thất Lý, Hoàng Cát Lạt thị.
  • Vợ/thiếp thất:

Trang Tĩnh Ý Thánh hoàng hậu Tốc Ca Bát Lạt (? -1327), Diệc Khải Liệt thị;

Nha Bát Hốt Đô Lỗ Hoàng hậu , Đệ nhị Hoàng hậu. "Tân Nguyên sử" cho rằng bà là em gái của Ngự sử Thiết Thất (铁失) - kẻ đã hành thích chính Anh Tông. Sau sự kiện Anh Tông bị hành thích , quần thấn kiến nghị Nguyên Thái Định đế phế truất bà , không rõ kết cục.

Đóa Nhi Chỉ Ban Hoàng hậu.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Nguyên Nhân Tông** (chữ Hán: 元仁宗; 1285 - 1320) tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt **(Borijin Ayurbarwada Buyantu Khan), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà
**Nguyên Minh Tông** hay **Hốt Đô Đốc hãn** (chữ Hán: 忽都篤汗, ; 22 tháng 12, 1300 - 30 tháng 8 1329), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Hòa Thế Lạt** (孛兒只斤和世㻋, Borjigin Küsele, ),
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Louis Nguyễn Anh Tuấn** (hoặc **Luy Nguyễn Anh Tuấn**, sinh 1962) là một giám mục Công giáo người Việt, hiện là giám mục chính tòa Giáo phận Hà Tĩnh, và là giám mục hiệu tòa
**Tống Anh Tông** (chữ Hán: 宋英宗, 16 tháng 2, 1032 - 25 tháng 1, 1067), thụy hiệu đầy đủ **Thể Càn Ứng Lịch Long Công Thịnh Đức Hiến Văn Túc Vũ Duệ Thánh Tuyên Hiếu
**Nguyên Vũ Tông** (元武宗, 1281 - 1311), trị vì từ năm 1307 - 1311, hay **Khúc Luật Hãn** (, Külüg Khan, хүлэг хаан), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyên, đồng thời là
**Nguyên Thành Tông** (tiếng Hán: 元成宗) hay **Hoàn Trạch Đốc Khả hãn** (; tiếng Hán: 完澤篤可汗)(1265- 1307) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên. Ông làm hoàng đế Trung Hoa từ năm 1294
**Nguyễn Anh Tuấn** (sinh ngày 23 tháng 9 năm 1962) là một kỹ sư, nhà báo Việt Nam, quê ở Phổ Thuận, Đức Phổ, Quảng Ngãi. Ông được biết đến rộng rãi ở Việt Nam
**Nguyễn Anh Vũ** (1442 - ?) tên thật là **Nguyễn Tạc Tổ** hiệu **Anh Vũ**, là con của Nguyễn Trãi và người vợ thứ tư Phạm Thị Mẫn, còn sống sót sau Vụ án Lệ
**Anh Tông** (chữ Hán: 英宗) là miếu hiệu của một số vua chúa trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc, và Triều Tiên. ## Việt Nam ### Hoàng đế *Lý Anh Tông *Trần Anh Tông
**Nguyên Ninh Tông** (), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Ý Lân Chất Ban** (; ; tiếng Tây Tạng cổ: རིན་ཆེན་དཔལ་, _rin chen dpal_) (1326-1332), là vị hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyên,
**Nguyễn Bá Tòng** (1946 - 2019) là Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu. Ông nguyên là Phó Tư lệnh về chính trị Binh đoàn 12 kiêm Phó Tổng giám đốc
thumb|[[Jean-Baptiste Chaigneau với trang phục Pháp-Việt là một nhân vật có vai trò quan trọng trong cuộc can thiệp của Pháp ở Việt Nam.]] **Quan hệ giữa Nguyễn Ánh và người Pháp** đề cập tới
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Tống Cung Đế** (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là **Doanh Quốc công**, **Tống Đế Hiển** (宋帝㬎), tên thật là **Triệu Hiển** (趙㬎), là vị
**Nguyên Thái Định Đế** (28 tháng 11, 1293 - 15 tháng 8 1328), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Dã Tôn Thiết Mộc Nhi** (;phiên âm: Borjigin Yesun Temur), là vị Hoàng đế thứ
**Lê Anh Tông** (chữ Hán: 黎英宗 1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là **Lê Duy Bang** (黎維邦), là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ
**Diệc Liên Chân Bát Lạt** (tiếng Hoa: 亦怜真八剌; ? - ?) là một Hoàng hậu của Nguyên Thái Định Đế hay Nguyên Tấn Tông Dã Tôn Thiết Mộc Nhi, Hoàng đế thứ sáu của triều
**Cao Ly Anh Tông** (Hangul: 고려 영종, chữ Hán: 高麗 英宗; tháng 8 năm 1223 – ?), tên thật là **Vương Xương** (왕창, 王淐) hay **Vương Khản** (왕간, 王侃), là một vị vua lâm thời
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1262 – 1357), tự **Bang Kiệt**, xước hiệu Đao vương, người Ích Đô , tướng lãnh nhà Nguyên. ## Thiếu thời Anh tính cứng rắn, quả cảm, có tiết tháo,
Trung Sơn Hiến Vũ vương **Thác Bạt Anh** (chữ Hán: 拓跋英, ? – 9 tháng 12 năm 510), còn gọi là **Nguyên Anh** (元英), tên tự là **Hổ Nhi**, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà
**Nguyễn Ảnh Thủ** (1821-1871) là một thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp trong phong trào Cần Vương. Ông xuất thân trong một gia đình giàu có tại làng Tân Sơn Nhì, Bà Quẹo, huyện Tân
**Nguyên triều Công chúa Bột Nhi Chỉ Cân thị** (元朝公主孛儿只斤氏; ? - ?) là Công chúa Mông Cổ nhà Nguyên, con gái của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, hoàng đế sáng lập ra triều
**Hiếu Túc Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝肅周皇后; 30 tháng 10, 1430 - 16 tháng 3, 1504), là một phi tần của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là sinh mẫu của Minh Hiến
**Nguyễn Anh Biên** (18 tháng 12, 1937 - 26 tháng 11, 2019) quê Thanh Hóa, là nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm
**Nguyễn Anh Hùng** (sinh ngày 8 tháng 6 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam đang chơi ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Hải Phòng. ##
**Nguyễn Anh Đệ** (1925-1985), tên thật **Nguyễn Văn Tí**, là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Tham mưu trưởng Quân khu 4, Tư lệnh Mặt
Tân toàn tướng Tam quốc chí bình thoại Bình thoại về Tam quốc chí, bản tranh minh họa đầy đủ, bộ mới là tác phẩm viết về đề tài Tam quốc được khắc in vào
**Nguyễn Anh Tuấn** là một nhà ngoại giao Việt Nam. Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Ukraina và Moldova kiêm nhiệm (từ năm 2017). ## Sự nghiệp Ông từng theo học tại
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Nguyễn Phú Trọng**, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, từ trần vào hồi 13 giờ 38 phút, ngày 19 tháng 7 năm
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Thừa Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 承天高皇后, 19 tháng 1 năm 1762 - 22 tháng 2 năm 1814), tên thật là **Tống Thị Lan** (宋氏蘭), là người vợ nguyên phối và Chánh cung Hoàng
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Giuse Nguyễn Năng** (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1953) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn, Chủ
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Phêrô Nguyễn Văn Khảm** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1952) là một Giám mục Công giáo người Việt. Ông hiện đảm nhận vai trò Giám mục Chính tòa Giáo phận Mỹ Tho, Chủ tịch