✨Nguyên Thành Tông

Nguyên Thành Tông

Nguyên Thành Tông (tiếng Hán: 元成宗) hay Hoàn Trạch Đốc Khả hãn (; tiếng Hán: 完澤篤可汗)(1265- 1307) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên. Ông làm hoàng đế Trung Hoa từ năm 1294 đến năm 1307, đồng thời là Khả hãn trên danh nghĩa của đế quốc Mông Cổ. Ông là con trai thứ ba của Hoàng thái tử Chân Kim (真金) và là cháu nội của Đại hãn Hốt Tất Liệt. Tên của ông có nghĩa là "Khả hãn sắt phước lành " trong tiếng Mông Cổ.

Thiết Mộc Nhĩ là một vị hoàng đế tài ba của nhà Nguyên. Ông giữ đế chế này theo cách mà Hốt Tất Liệt đã thực hiện dù ông không đạt được thành tựu lớn nào. Ông đã tiếp tục nhiều cải cách kinh tế của Hốt Tất Liệt, duy trì hòa bình với các Hãn quốc phía tây và các nước láng giềng như Đại Việt và Chiêm Thành, những quốc gia công nhận quyền tối cao của ông trên danh nghĩa.

Sự nghiệp thời kỳ đầu

Ông nguyên tên là Thiết Mộc Nhĩ hay Thiết Mục Nhĩ (; tiếng Hán: 鐵木耳 / 鐵穆耳), sinh năm 1265. Ông là con thứ ba của Chân Kim, thuộc gia tộc Bột Nhi Chỉ Cân. Mẹ ông là Khoát Khoát Chân, người bộ tộc Hoằng Cát Lạt thị. Bởi vì con trai đầu tiên của Hốt Tất Liệt, Đóa Nhân Chỉ đã qua đời sớm, Chân Kim, con trai thứ hai của ông, cũng là cha của Thiết Mộc Nhĩ trở thành Hoàng thái tử. Tuy nhiên, Chân Kim mất năm 1285 khi Thiết Mộc Nhĩ 21 tuổi. Hốt Tất Liệt vẫn thân thiết với mẹ của ông, Khoát Khoát Chân, người vợ mà Chân Kim sủng ái. Giống như ông nội, Thiết Mộc Nhĩ là tín đồ của Phật giáo.

Hốt Tất Liệt giao nhiệm vụ cho ông bảo vệ khu vực Liêu Hà và Liêu Đông ở phía đông khỏi Nayan (Naiyan) và các họ hàng kình địch khác năm 1287. Ông đã đẩy lui họ với sự hỗ trợ của các tướng của Hốt Tất Liệt. Sau đó ông được chỉ định làm tổng binh trấn thủ Mạc Bắc Karakorum (Cáp Lạp Hòa Lâm hay Hòa Lâm) và khu vực xung quanh vào năm 1293, sau khi được phong làm Hoàng thái tôn. Khi bị các lực lượng của Hải Đô (trị vì Hãn quốc Sát Hợp Đài) bao vây, ông đã được người Kypchak (Khâm Sát) bảo vệ. Ba Hoàng tử của Hãn quốc Sát Hợp Đài đã quy phục ông trong khi ông phòng thủ Đông Mông Cổ (họ đã chạy tới Hãn quốc này ngay sau đó và lại quay trở lại nhà Nguyên một lần nữa trong thời gian trị vì của ông).

Trị vì

Hoàng đế nhà Nguyên

Thiết Mộc Nhĩ ban đầu không phải người kế vị do Hốt Tất Liệt chỉ định, nhưng ông đã trở thành người kế vị năm 1293 sau khi cha của ông, Thái tử Chân Kim, mất năm 1285. Ông lên ngai vàng với sự ủng hộ của mẹ ông Khoát Khoát Chân và của các quan lại có tài của Hốt Tất Liệt, như Üs Temür, thừa tướng Bá Nhan (Bayan), Bukhumu, Öljei. Những quan lại cao cấp này đã bảo đảm cho việc lựa chọn của Hốt Tất Liệt trở thành sự thật sau cuộc tranh giành ngai vàng của người anh là Cam Ma Lạt (Gamala). left|thumb|Nhà thờ Hồi giáo Đại Nam ở [[Tế Nam được hoàn thành dưới thời của Thành Tông.]] Nhiều vị trí cao trong đế quốc của ông do những người với nguồn gốc khác nhau nắm giữ, như người Mông Cổ, người Hán, người theo Hồi giáo và một ít người theo Kitô giáo. Về tư tưởng, chính quyền của Thiết Mộc Nhĩ tuân theo Nho giáo và dành sự tôn trọng cho các học giả Nho giáo. Sau khi kế vị ông đã ban hành chỉ dụ bày tỏ lòng sùng kính Khổng Tử. Cụ thể, hữu thừa tướng Harghasun là một người gần với các học giả Nho giáo. Tuy nhiên, triều đình của ông không chấp nhận mọi nguyên tắc của đạo Khổng. Thiết Mộc Nhĩ ban tặng vệ sĩ và tài sản mới cho mẹ mình và đổi tên thành ordo (lều hoặc cung điện lớn) cung điện Longfugong, nơi trở thành trung tâm quyền lực của Khunggirad trong vài thập kỷ tới. Các chính khách Mông Cổ và phương Tây được hỗ trợ bởi một loạt các quan cai trị Trung Quốc và các nhà tài chính Hồi giáo. Chính khách Hồi giáo nổi bật nhất là Bá Nhan, cháu chắt của Saiyid Ajall Shams al-Din, người phụ trách Bộ Tài chính. Dưới thời các quan cai trị người Mông Cổ Oljei và Harghasun, triều đình đã thông qua các chính sách được thiết kế để đảm bảo sự ổn định chính trị và xã hội. Các yêu cầu vẽ chân dung của các khả hãn được thông qua trong thời trị vì của Thành Tông.

Số lượng người Tạng trong lãnh thổ quốc gia dần dần tăng lên. Gia đình Khon của Tây Tạng đã được vinh danh, và một trong số họ đã trở thành con rể hoàng gia vào năm 1296. Thiết Mộc Nhĩ đã đảo ngược chính sách chống Đạo giáo của ông nội và biến Đạo sư Zhang Liusun trở thành đồng chủ tịch của Học viện Học thuật. Năm 1304, Thiết Mộc Nhĩ bổ nhiệm chủ nhân Thiên thể của "Núi Rồng và Hổ" làm người đứng đầu Trường Thống nhất Chính thống. Ông cấm chưng cất và buôn bán rượu tại lãnh thổ nhà Nguyên năm 1297. Sử gia người Pháp Rene Grousset tán thưởng hành động này của ông trong cuốn sách The Empire of Steppes.

Thiết Mộc Nhĩ đã phản đối việc áp đặt thêm bất kỳ gánh nặng tài chính nào cho người dân. Miễn giảm thuế má đã được cấp nhiều lần cho một phần hoặc toàn bộ lãnh thổ đế quốc. Sau khi lên ngôi, Thiết Mộc Nhĩ đã miễn Khanbaliq (Đại Đô, Bắc Kinh hiện đại) và Thượng Đô khỏi thuế trong một năm. Ông cũng miễn giảm thuế cho thường dân Mông Cổ trong hai năm. Năm 1302, chính sách mà ông muốn áp dụng để cấm thu thập bất cứ thứ gì ngoài hạn ngạch thuế được thiết lập. Tuy nhiên, tình trạng tài chính của triều đình trở nên xấu đi và việc cạn kiệt nguồn dự trữ tiền tệ làm suy yếu đáng kể uy tín của hệ thống tiền giấy. Tham nhũng giữa các quan lại cũng trở thành một vấn đề.

Thiết Mộc Nhĩ là một vị hoàng đế tài năng của nhà Nguyên. Ông giữ cho đế quốc theo con đường mà Hốt Tất Liệt để lại mặc dù ông không đạt được nhiều thành tựu lớn. Ông tiếp tục duy trì nhiều cải cách kinh tế của Hốt Tất Liệt và cố gắng khôi phục nền kinh tế sau những chiến dịch tốn kém của Hốt Tất Liệt trước đó. Ông đã để cho đế chế phục hồi vết thương thất bại đặc biệt sau chiến dịch tấn công nhưng thảm bại ở Đại Việt. Một trong số các vấn đề là các quan lại tham nhũng bắt đầu xuất hiện trong thời gian trị vì của ông, nhưng về tổng thể, đế quốc mà ông cha ông dựng lên vẫn còn hùng cường.

Chiến dịch quân sự

Ngay sau khi lên ngôi năm 1294, Thiết Mộc Nhĩ đã ra lệnh chuẩn bị cho công cuộc tiếp tục mở rộng lãnh thổ sang Nhật Bản và Đại Việt, do những vị vua của hai nước này không chịu sang chầu năm 1291. Các vị vua của Đại Việt, Myanmar và Sukhothai sau đó đã liền cử sứ giả tới Khanbaliq (Đại Đô) để công nhận ông như là hoàng đế thiên triều vào các năm 1295, 1297 và một lần nữa vào năm 1300. Ông đã cho phóng thích các sứ giả của Đại Việt đang bị bắt giam cũng như sai sứ giả của mình sang giao hảo để thể hiện thiện chí của mình, và triều đình nhà Trần bắt đầu gửi các phái bộ triều cống. Sau khi nhận được đồ triều cống từ Đại Việt, ông đã từ bỏ ý tưởng tấn công quốc gia này nhưng ông đã cho quân đội đàn áp những cuộc nổi dậy trong khu vực miền núi phía tây nam, do các thủ lĩnh các bộ lạc miền núi như Song Longji và Shejie cầm đầu năm 1296. Các tướng Liu Shen và Liu Guojie phải mất nhiều tháng mới dẹp yên những cuộc nổi dậy này. Theo yêu cầu của Hoàng tử người Mon, ông đã cử một đội quân tiến vào nước này năm 1297. Đội quân này đã thành công trong việc đuổi người Shan ra khỏi Miến Điện.

Quân đội nhà Nguyên cũng dập tắt các tàn tích của Naiyan dưới sự chỉ huy của Khadan (hậu duệ của Dã Tốc Cai (Yesugei) tại Mãn Châu và Altai trong thời gian trị vì của ông.

Thiết Mộc Nhĩ cũng cử sứ giả tới Nhật Bản và Chiêm Thành để đòi triều cống. Chiêm Thành chấp nhận nhưng Liêm Thương mạc phủ (Kamakura shogunate) thì không. Và nụy khấu của Nhật Bản đã đưa quân tấn công vào Ninh Ba vào cuối triều đại của ông. Năm 1300, một đội quân của nhà Nguyên đã tràn vào Myanmar để bảo vệ chư hầu của mình trước cuộc xâm lăng của người Thái nhưng không thành công. Cũng trong năm đó, ông đã cho quân đội tấn công Hải Đô. Hãn Buyan của Bạch Trướng Hãn quốc cũng đề nghị Thiết Mộc Nhĩ hỗ trợ để chống lại Hải Đô và những người anh em họ nổi loạn của mình. Nhưng mẹ của hoàng đế đã cảnh báo ông là không nên đem quân truy kích kẻ thù. Hải Đô và Duwa bị quân Nguyên đánh bại và Hải Đô chết năm sau đó. Ngay sau đó, tình hình chính trị tại Trung Á đã thay đổi.

Đại hãn của đế quốc Mông Cổ

thumb|Sắc lệnh của hoàng gia liên quan đến việc bảo vệ đền thờ [[Nhan Hồi ở Khúc Phụ, năm Đại Đức thứ 11 (1307). Văn bản có cả tiếng Trung và tiếng Mông Cổ.]] Hãn Mahmud Ghazan của Hãn quốc Y Nhi đã cải sang Hồi giáo ngay sau khi lên ngôi năm 1295. Ông ủng hộ tích cực việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Hồi giáo trong đế quốc của mình và không thừa nhận các mối quan hệ với nhà Nguyên "tà giáo". Nhưng ba năm sau, ông này đã thay đổi chính sách và cử sứ thần tới Đại Đô cùng nhiều quà tặng quý giá như quần áo, ngọc ngà, vàng để chúc mừng Thiết Mộc Nhĩ, người được tôn kính nhất trong gia đình nhà Đà Lôi vào thời gian đó. Đáp lại, Thiết Mộc Nhĩ nói rằng "Các hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn luôn luôn là huynh đệ của nhau" và gửi tặng Ghazan một con dấu khắc chữ "王府定國理民之寶" ("Vương phủ định quốc lý dân chi bảo"). Ghazan cũng nhận được phần của mình từ các thái ấp mà nhà Nguyên phong cho cụ tổ của ông là Húc Liệt Ngột (Hulegu). Đoàn sứ thần của Ghazan ở lại triều đình của Thiết Mộc Nhĩ trong 4 năm.

Năm 1304, Duwa của Hãn quốc Sát Hợp Đài, con trai của Hải Đô là Chapar, Tokhta của Kim Trướng Hãn quốc và Oljeitu của Hãn quốc Y Nhi đã thỏa thuận hòa bình với ông nhằm duy trì các mối quan hệ thương mại và ngoại giao và chấp nhận ông là vị chúa tể tối cao của họ. Theo tập quán cổ, được thừa hưởng từ thời Húc Liệt Ngột, Thiết Mộc Nhĩ phong cho Oljeitu như là hãn mới của Hãn quốc Y Nhi và gửi cho ông này con dấu có khắc chữ "真命皇帝和順萬夷之寶" ("Chân mệnh hoàng đế hòa thuận vạn di chi bảo"), sau này được Oljeitu sử dụng trong thư từ gửi cho vua Pháp Philip IV của Pháp năm 1305. Ngay sau đó cuộc tranh giành giữa Duwa và Chapar đã nổ ra. Thiết Mộc Nhĩ quyết định hỗ trợ Duwa bằng cách gửi đến một đội quân lớn và Chapar cuối cùng đã đầu hàng. Hãn Tokhta của Kim Trướng Hãn quốc công nhận địa vị chúa tể của Thiết Mộc Nhĩ bằng cách gửi 2 tumen (khoảng 20.000 quân) tới củng cố biên giới nhà Nguyên.

Ông qua đời tại Khanbaliq năm 10 tháng 2 năm 1307.

Gia đình

  • Vợ:

Thất Liên Đáp Lý (失怜答里; ? - ?), người của bộ lạc Hoằng Cát Lạt thị. Mất sớm trước khi Thành Tông đăng cơ. Tháng 10 năm 1299 được truy phong Hoàng hậu. Năm 1310 được Nguyên Vũ Tông tôn thụy hiệu Trinh Từ Tĩnh Ý hoàng hậu (贞慈静懿皇后).

Bốc Lỗ Hãn hoàng hậu (卜鲁罕皇后; ? - 1307), người của bộ lạc Bá Nhạc Ngô thị. Ban đầu lập làm hoàng hậu năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295). Tháng 10 năm 1299 nhận sách phong.

Hốt Thiếp Ni hoàng hậu (忽帖尼皇后; ? - ?), người của bộ lạc Khất Nhi Cát Tư thị.

  • Con trai:

Hoàng thái tử Đức Thọ (德寿; ? - 1306), con của Trinh Từ Tĩnh Ý hoàng hậu.

3 người con trai không rõ tên.

  • Con gái:

Xương Quốc Công chúa Ích Lý Hải Nha (益里海雅), hạ giá lấy A Thất Xương vương (阿失昌王).

Triệu Quốc Công chúa Ái Nha Mê Thất (爱牙迷失), hạ giá lấy Triệu vương Khoát Lý Cát Tư (闊里吉思).

Lỗ Quốc Công chúa Phổ Nạp (普纳), hạ giá lấy Tang Ca Bất Lạt (桑哥不剌).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyên Thành Tông** (tiếng Hán: 元成宗) hay **Hoàn Trạch Đốc Khả hãn** (; tiếng Hán: 完澤篤可汗)(1265- 1307) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên. Ông làm hoàng đế Trung Hoa từ năm 1294
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ
**Nguyên Nhân Tông** (chữ Hán: 元仁宗; 1285 - 1320) tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt **(Borijin Ayurbarwada Buyantu Khan), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà
**Nguyên Vũ Tông** (元武宗, 1281 - 1311), trị vì từ năm 1307 - 1311, hay **Khúc Luật Hãn** (, Külüg Khan, хүлэг хаан), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyên, đồng thời là
[[Tập_tin:Periodic_table,_good_SVG.svg|phải|nhỏ|432x432px| ]] **Nguyên tố tổng hợp** bao gồm 24 nguyên tố hóa học không xuất hiện tự nhiên trên Trái Đất: chúng được tạo ra bởi sự điều khiển của con người đối với các
Hình vệ tinh NASA chụp phần phía nam cao nguyên Thanh Tạng **Cao nguyên Thanh Tạng** (gọi tắt trong tiếng Trung Quốc của **cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng**) hay **cao nguyên Tây Tạng** (25~40 độ
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng** (1868–1949) là Giám mục người Việt đầu tiên của Giáo hội Công giáo La Mã, được cử hành nghi thức tấn phong giám mục vào năm 1933. Ông đảm nhiệm
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Nguyên Minh Tông** hay **Hốt Đô Đốc hãn** (chữ Hán: 忽都篤汗, ; 22 tháng 12, 1300 - 30 tháng 8 1329), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Hòa Thế Lạt** (孛兒只斤和世㻋, Borjigin Küsele, ),
**Phaolô Nguyễn Thanh Hoan** (1932–2014) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam Ông từng đảm nhận nhiệm vụ giám mục tại Giáo phận Phan Thiết trong hai giai đoạn
**Nguyễn Thanh Bình** (4 tháng 5 năm 1918 - 19 tháng 3 năm 2008) là một chính trị gia Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Bí
nhỏ|phải|Mặt tiền nhà nguyện **Nhà nguyện Tòa tổng Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh** là một ngôi nhà cổ tọa lạc trong khuôn viên tòa tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ
**Nguyễn Thanh Hà** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Bộ Công an Việt Nam. Ông từng là Phó Tổng cục trưởng Tổng
**_Thánh Tông di thảo_** (chữ Hán: 聖宗遺草; tạm dịch là "Bản thảo để lại của [Lê] Thánh Tông") là một tác phẩm viết bằng chữ Hán, nhưng lấy đề tài ở Việt Nam, tương truyền
**Nguyễn Chí Thành** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Công an nhân dân Việt Nam. ## Sự nghiệp Ngày 4/6/2008, Thủ tướng
**Nguyễn Kính phi** (chữ Hán: 阮敬妃; 1444 - 1485), không rõ tên thật, là một phi tần được sủng ái của hoàng đế Lê Thánh Tông, vị minh quân nổi tiếng của triều đại nhà
**Nguyễn Thanh Hóa** (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1958 tại tỉnh Bình Định) từng là một sĩ quan cao cấp của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam, mang quân hàm Thiếu tướng.
**Thanh Tòng** (22 tháng 4, 1948 – 22 tháng 9 năm 2016) là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng Việt Nam. Ông được báo chí mệnh danh là "Vua cải lương Hồ quảng". Là vị
**Nguyễn Thành Lê** (1920 – 2006) tại làng Tiên Tân, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Từ nhỏ Nguyễn Thành Lê đã có chí ham học, sớm tốt nghiệp bậc cao đẳng tiểu học (trung
**Nguyễn Thanh Nam** (sinh ngày 2 tháng 3 năm 1958) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Phó Tổng cục trưởng Phụ trách
nhỏ|ông Nguyễn Thành Thơ (1925 - 2015) **Nguyễn Thành Thơ** (Sinh ngày 03/10/1925 - từ trần 0 giờ 15 phút ngày 21/04/2015 âm lịch ngày 03 tháng 03 năm Ất mùi), bí danh **Mười Thơ,
**Nguyễn Thành Trung** (sinh ngày 9 tháng 10 năm 1947) là một cựu Đại tá Không quân Nhân dân Việt Nam. Ông là người đã lái máy bay F-5E ném bom vào Dinh Độc Lập
**Nguyễn Thành Ý** (chữ Hán: 阮誠意, 1820-1897), tự là **Thiện Quan**, hiệu là **Túy Xuyên**, là một quan đại thần triều Nguyễn. Ông được xem là vị lãnh sự ngoại giao đầu tiên của Đại
**Nguyễn Thành Nam** (_sinh_ 17 tháng 8 năm 1961 tại Nam Định) là một doanh nhân Việt Nam, cựu Tổng Giám đốc FPT và hiện là Phó Chủ tịch HĐQT trường Đại học FPT. Ông
**Nguyễn Thành Phát** (; sinh tháng 10 năm 1957), người Hán, là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa. Ông nguyên là Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung
**Henri Nguyễn Thành Giung** (1894 – 1959), là nhà giáo dục người Việt Nam từng giữ chức Tổng trưởng Bộ Giáo dục trải qua ba chính phủ Nguyễn Văn Thinh, Trần Văn Hữu và Nguyễn
**Nguyễn Thành Nam** (sinh ngày 13 tháng 8 năm 1966) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu
**Nguyễn Thành Phong** (sinh năm 1962) là một chính trị gia người Việt Nam. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông từng là Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương, nguyên là
**Nguyễn Nguyên Thành** (1825-1887), tự **Uẩn Phủ**, hiệu **Hương Phong**, là một danh sĩ Việt Nam và cũng là một trong những lãnh tụ của Phong trào Văn thân cuối thế kỷ 19. ## Thân
**Nguyễn Thanh Nghị** (sinh năm 1976) là một chính khách Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Phó Bí thư Thường trực Thành
**Thánh Tông** (chữ Hán: 聖宗) là miếu hiệu của một số vua chúa trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên. Thánh Tông thường là những vị vua có năng lực, cai trị
**Thành Tông** (chữ Hán: 成宗) là miếu hiệu của một số vị vua của Trung Hoa và Triều Tiên. ## Trung Hoa *Thương Thành Tông *Ngô Việt Thành Tông *Nam Đường Thành Tông (truy tôn)
**Nguyễn Thanh Bình** (sinh năm 1964) là cựu chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang. Ngày 25/12/2023, ông
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Thái Nguyên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Nguyên, nằm bên bờ sông Cầu, là một trong những thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam. Thành phố Thái Nguyên là trung
**Triều Tiên Thành Tông** (chữ Hán: 朝鮮成宗; Hangul: 조선 성종, 20 tháng 8, 1457 - 20 tháng 1, 1495), là vị quốc vương thứ 9 của nhà Triều Tiên. Ông ở ngôi từ năm 1469
**Lý Thánh Tông** hay **Lý Thánh Tôn** (chữ Hán: 李聖宗 30 tháng 3 năm 1023 – 1 tháng 2 năm 1072) là vị Hoàng đế thứ ba của hoàng triều Lý nước Đại Việt, trị
**Chiến tranh Mông Nguyên- Đại Việt** hay **Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên** (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt
**Nguyên Thái Định Đế** (28 tháng 11, 1293 - 15 tháng 8 1328), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Dã Tôn Thiết Mộc Nhi** (;phiên âm: Borjigin Yesun Temur), là vị Hoàng đế thứ
**Nguyên Thành Vương hậu** (Hangul: 원성왕후, chữ Hán: 元成太后; ? – 15 tháng 8 năm 1028) là một Vương hậu thứ ba của Cao Ly Hiển Tông. Người ta cho rằng Kim Ân Phó là
**Hoàn Trạch** (chữ Hán: 完泽, 1246 – 1303), người thị tộc Thổ Biệt Yến (Tǔbiéyān), bộ tộc Khắc Liệt (Keraites), dân tộc Mông Cổ, thừa tướng nhà Nguyên. ## Thân thế Ông nội là Thổ
**Nguyễn Thành Phương** (1912-?) là một chỉ huy quân sự cao cấp trong Đạo Cao Đài. Ông từng là Tổng chỉ huy Quân đội Cao Đài, giữ vai trò như một quân phiệt cát cứ
**Diệc Liên Chân Bát Lạt** (tiếng Hoa: 亦怜真八剌; ? - ?) là một Hoàng hậu của Nguyên Thái Định Đế hay Nguyên Tấn Tông Dã Tôn Thiết Mộc Nhi, Hoàng đế thứ sáu của triều
**Thủy Nguyên** là một thành phố cũ thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Thủy Nguyên nằm ở cửa ngõ phía bắc của thành phố Hải Phòng, nằm cách trung
**Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu** (chữ Hán: 元聖天感皇后, ? - tháng 1, 1287), tên **Thiều** (韶), là Hoàng hậu của Trần Thánh Tông, mẹ ruột của Trần Nhân Tông. ## Tiểu sử Nguyên Thánh
**Cao Ly Thành Tông** (Hangul: 고려 성종, chữ Hán: 高麗 成宗; 15 tháng 1 năm 961 – 29 tháng 11 năm 997; trị vì 981 – 997) là vị quốc vương thứ sáu của vương