✨Nguyên Minh Tông

Nguyên Minh Tông

Nguyên Minh Tông hay Hốt Đô Đốc hãn (chữ Hán: 忽都篤汗, ; 22 tháng 12, 1300 - 30 tháng 8 1329), tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Hòa Thế Lạt (孛兒只斤和世㻋, Borjigin Küsele, ), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Nguyên (một phần chia cắt của Đế quốc Mông Cổ, thuộc Trung Quốc ngày nay) với miếu hiệu Nguyên Minh Tông, cũng là Đại hãn thứ 13 của Đế quốc Mông Cổ.

Ông là Hoàng trưởng tử của Nguyên Vũ Tông. Đăng cơ năm 1329, ông bị chính đệ đệ mình là Nguyên Văn Tông, Hoàng đế tiền nhiệm ám sát đoạt ngôi. Do ân hận việc này, Văn Tông quyết truyền ngôi cho hậu duệ của Minh Tông, nhờ vậy mà 2 người con trai của ông là Nguyên Ninh Tông và Nguyên Huệ Tông đều được làm Hoàng đế sau đó.

Trước khi lên ngôi

Cuộc sống trong cung

Ông tên thật là Hòa Thế Lạt, thuộc hoàng tộc Bột Nhi Chỉ Cân. Ra đời năm (1300), là Trưởng tử của Nguyên Vũ Tông Hải Sơn và phi tần Diệc Khất Liệt thị. Vũ Tông lên ngôi, hầu hết việc triều chính đều giao cho em trai là Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt phụ giúp. Nhờ Bát Đạt, đất nước trở nên hùng mạnh và thái bình, Vũ Tông sớm xác định phong Bát Đạt làm Hoàng thái đệ với điều kiện sau khi Bát Đạt mất phải truyền ngôi cho Hòa Thế Lạt.

Lưu lạc ở Trung Á

Năm 1311 Vũ Tông mất, Bát Đạt kế vị, tức Nguyên Nhân Tông. Tuy nhiên thừa tướng Thiếp Mộc Điệp và gian thần Đảo Thích Sa gièm pha với Nhân Tông, khiến Nhân Tông làm trái lời hứa, phong con ruột là Thạc Đức Bát Thích làm Hoàng thái tử. Hòa Thế Lạt và hoàng đệ cùng cha khác mẹ là Đồ Thiếp Mục Ni bị đuổi khỏi cung bởi Hoàng thái hậu Đáp Kỷ (Dagi), tổ mẫu của họ. Lý do Thái hậu thông đồng Nhân Tông là vì mẹ Thạch Đức Bát Thích, A Nạp Thất Thất Lý Hoàng hậu xuất thân Hoằng Cát Lạt thị, vốn là thị tộc của Thái hậu. Mẹ Hòa Thế Lạt và Đồ Thiếp Mục Nhi đều không phải, nếu truyền ngôi cho một trong hai, thế lực ngoại thích sẽ rơi vào tay người ngoài, Thái hậu không thể tùy tiện can chính.

Năm 1316, Hòa Thế Lạt được phong làm Chu vương (诸王) rồi đày đên Vân Nam.

Thế nhưng Hòa Thế Lạt đã trốn sang Hãn quốc Sát Hợp Đài do Esen Bukha cai trị ở Trung Á. Esen Bukha nghe nói Hòa Thế Lạt đang sống gần Vương quốc của mình, bèn sang chào đón Thế Lạt. Sau đó, Hòa Thế Lạt được hậu thuẫn bởi các Thân vương Chaghadayid nên sống sót qua nhiều cuộc thanh trừng chính trị. Trong thời gian lưu vong ở Trung Á, ông thành thân với Mại Lai Địch, con gái Thiết Mộc Điệp Nhi, thuộc Hãn Lộc Lỗ thị.

Mở rộng vây cánh

Thái tử Thạc Đức Bát Thích lên ngôi, tức Nguyên Anh Tông, 3 năm sau (1323) bị ám sát. Nguyên Thái Định Đế nắm quyền cai trị, khi đó tình hình của Hòa Thế Lạt dần được cải thiện. Tuy vẫn ở Trung Á, ông mở rộng ảnh hưởng trong thành trì của mình nằm ở phía tây của dãy núi Altay.

Năm 1328, Thái Định đế qua đời, Nguyên Thiên Thuận Đế kế vị tại Thượng Đô. Khi này, Yên Thiếp Mộc Nhi ủng lập em trai Hòa Thế Lạt là Đồ Thiếp Mục Ni lên ngôi Hoàng đế, ý đồ muốn truất ngôi Thiên Thuận Đế. Lễ đăng cơ diễn ra ở Đại Đô, điều này dấy lên một cuộc nội chiến với phe Thượng Đô, sử gọi là chiến tranh hai đô, mục đích giành quyền thống trị cho một Hoàng đế duy nhất. Phe Đại Đô, dẫn đầu bởi Yên Thiếp Mộc Nhi và Bá Nhan - một thống đốc ở Hà Nam, lại có được sự ủng hộ từ hầu hết các Thân vương, quý tộc và lãnh chúa ở phía nam sa mạc Gobi, nên đã chiến thắng và thành công trong việc đoạt ngôi của Thiên Thuận Đế. Sau khi Thiên Thuận Đế mất tích hoặc bị giết, Đồ Thiếp Mục Nhi lên ngôi, tức Nguyên Văn Tông, triệu tập Hòa Thế Lạt đến kinh đô.

Hoàng đế ngắn ngủi

Lên ngôi

Khi đó, Hòa Thế Lạt được các lãnh đạo Chaghadayid, Khả hãn Sát Hợp Đài Eljigidey và Duwa Temür hộ tống vào Mông Cổ từ vùng Tarbagatai (ở dãy núi Khangai). Vì là Trưởng tử nên ông được ủng hộ bởi các Thân vương, tướng lĩnh Mông Cổ, cũng như Hãn quốc Sát Hợp Đài. Khi xuất hiện ở Karakorum, ông mang theo lực lượng quân đội hùng hậu, áp đảo Văn Tông. Văn Tông yếu thế, bèn dùng kế thoái vị nhường ngôi cho Hòa Thế Lạt.

Hòa Thế Lạt đăng cơ ngày 27 tháng 2, 1329 ở phía bắc Karakorum, tức Nguyên Minh Tông. Yên Thiếp Mộc Nhi mang con dấu của đế quốc đến Mông Cổ, tuyên đọc ý chỉ của Đồ Thiếp Mộc Nhi và chào đón Thế Lạt. Minh Tông theo cách của vua cha, xuống chiếu phong Đồ Thiếp Mộc Nhi làm Hoàng thái đệ, phong trung thần của mình những tước quan lớn trong triều, ngoài ra truy thụy mẫu phi quá cố là Diệc Khất Liệt thị làm Nhân Hiến Chương Thánh Hoàng hậu (仁獻章聖皇后).

Bị sát hại

Do muốn kế vị sớm, Đồ Thiếp Mộc Nhi và Yên Thiếp Mộc Nhi tiếp tục bày mưu, sai người kiểm soát chặt Nguyên Minh Tông, khi có cơ hội sẽ trừ khử ông. Nhưng Minh Tông vừa lên ngôi đã thiết lực thế lực riêng của mình, khiến Đồ Thiếp Mục Nhi trở nên lo sợ, càng mong đến ngày lật đổ ông.

Tháng 8 năm 1329 tại Onggachatu, Đồ Thiếp Mộc Nhi đã tổ chúc sinh thần lần thứ 29 cho Minh Tông, khi đó Minh Tông đi cùng đội quân 1,800 tướng sĩ. Sau 4 ngày Minh Tông đột ngột băng hà. Nhiều sử gia cho rằng Đồ Thiếp Mộc Nhi đã cùng Yên Thiếp Mộc Nhi đầu độc ông. Ngay sau đó Đồ Thiếp Mục Nhi công khai phục vị vào ngày 8 tháng 9 cùng năm.

Hậu sự

Nguyên Minh Tông mất, Bốc Đáp Thất Lý, Hoàng hậu của Văn Tông luôn chèn ép gia quyến của ông. Đặc biệt, sau khi sinh Hoàng thái tử A Lạt Thắc Nạp Đáp Lạt, bà liền xử tử kế thê ông là Bát Bất Sa, đày con trưởng là Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhi đến Cao Ly để bảo toàn ngôi vị con mình. Thế nhưng tháng sau Thái tử chết yểu. Người con khác là Bảo Ninh (宝宁, Baoning) cũng mất sớm, dù được gửi cho một nông dân nhận nuôi và đổi tên Thái Bình Nột. Tin đây là điềm gở, Đế-Hậu bắt đầu ám ảnh tội ác năm xưa, quyết truyền ngôi cho hậu duệ của Minh Tông để chuộc tội.

Về sau, con trai của Minh Tôn, Ý Lân Chất Ban và Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhi đều trở thành Hoàng đế, tức Nguyên Ninh TôngNguyên Huệ Tông, trở thành hai vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại.

Gia quyến

Hòa Thế Lạt có hai chính thất là Mại Lai Địch, hậu duệ của Quận vương A Nhi Tư Lan, sinh ra Thành Cát Tư Hãn; và Bát Bất Sa của tộc Nãi Mã Chân thị. Họ sinh ra 2 Hoàng đế sau này của nhà Nguyên là Nguyên Huệ Tông và Nguyên Ninh Tông.

  • Phụ mẫu:

Nguyên Vũ Tông Khúc Luật hãn (4 tháng 8, 1281 - 27 tháng 1, 1311)

Diệc Khất Liệt thị, con gái của Công chúa Nô Ngột Luân. Được truy phong Nhân Hiến Chương Thánh Hoàng hậu (仁獻章聖皇后).

  • Thê thiếp:

Mại Lai Địch (邁來迪, Malaidi; ? - 1320), Hãn Lộc Lỗ thị, nguyên phối. Mất sớm, chưa kịp tại ngôi Hoàng hậu, được truy phong Trinh Dụ Huy Thánh Hoàng hậu (貞裕徽聖皇后).

Bát Bất Sa Hoàng hậu (八不沙, Babusa; ? - 1330), Nãi Mã Chân thị, kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên. Bị Bốc Đáp Thất Lý - Hoàng hậu của Văn Tông sai Thái giám giết hại.

Thoát Hốt Tư Hoàng hậu (脱忽思皇后;Tohusi) , Trữ Huy thị , được Minh Tông ban Oát Nhi Đóa bốn vạn hộ Thang Mộc ấp (汤沐邑). Văn thư đương thời gọi bà là Nương tử (娘子). Địa vị đứng thứ hai sau Bát Bất Sa Hoàng hậu.

Nguyệt Lỗ Sa Hoàng hậu

Bất Nha Hốt Lỗ Đô Hoàng hậu

Dã Tô Hoàng hậu

Án Xuất Hãn Hoàng hậu

  • Con trai

Nguyên Huệ Tông Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ (1320 - 1370), Đích trưởng tử, mẹ là Mại Lai Địch. Hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyên.

Nguyên Ninh Tông Ý Lân Chất Ban (1326 - 1332), con trai thứ hai, mẹ là Bát Bất Sa Hoàng hậu. Hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyên, tuy nhiên lên ngôi 2 tháng thì chết yểu.

  • Con gái:

Xương Quốc Công chúa (昌国公主), mẹ là Nguyệt Lỗ Sa hoàng hậu. Hạ giá lấy Xương vương Sa Lam Đóa Nhi Chỉ.

Minh Huệ Trinh Ý Công chúa (明慧貞懿公主), tên khác là Bất Đáp Thác Nhĩ (不答昔你), mẹ không rõ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyên Minh Tông** hay **Hốt Đô Đốc hãn** (chữ Hán: 忽都篤汗, ; 22 tháng 12, 1300 - 30 tháng 8 1329), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Hòa Thế Lạt** (孛兒只斤和世㻋, Borjigin Küsele, ),
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Nguyên Vũ Tông** (元武宗, 1281 - 1311), trị vì từ năm 1307 - 1311, hay **Khúc Luật Hãn** (, Külüg Khan, хүлэг хаан), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyên, đồng thời là
**Nguyên Ninh Tông** (), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Ý Lân Chất Ban** (; ; tiếng Tây Tạng cổ: རིན་ཆེན་དཔལ་, _rin chen dpal_) (1326-1332), là vị hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyên,
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Nguyên Nhân Tông** (chữ Hán: 元仁宗; 1285 - 1320) tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt **(Borijin Ayurbarwada Buyantu Khan), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà
**Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng** (1868–1949) là Giám mục người Việt đầu tiên của Giáo hội Công giáo La Mã, được cử hành nghi thức tấn phong giám mục vào năm 1933. Ông đảm nhiệm
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ
**Nguyễn Minh Triết** (sinh ngày 8 tháng 10 năm 1942) là nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 2006 cho đến năm 2011. Trước khi trở thành Chủ
**Nguyên Thành Tông** (tiếng Hán: 元成宗) hay **Hoàn Trạch Đốc Khả hãn** (; tiếng Hán: 完澤篤可汗)(1265- 1307) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên. Ông làm hoàng đế Trung Hoa từ năm 1294
nhỏ|phải|Mặt tiền nhà nguyện **Nhà nguyện Tòa tổng Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh** là một ngôi nhà cổ tọa lạc trong khuôn viên tòa tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ
**Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật** (1926–2007) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa của Giáo phận Xuân Lộc (1988 –2004) và nguyên Chủ
**Nguyễn Minh Quang** (sinh ngày 23/2/1960) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá 13 thuộc đoàn đại biểu thành phố Hà Nội. Khi trúng cử thì ông là bí thư Đảng ủy Đảng cộng
**Nguyễn Minh Châu** (1921-23/10/1999) là một tướng lĩnh cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm thượng tướng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông từng giữ
**Nguyễn Minh Đức** (sinh ngày 19 tháng 7 năm 1969) là một Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông là Đại biểu Quốc hội Việt Nam
Ngày 25 tháng 4 năm 2007, ông được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam thăng cấp bậc hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng. Ông giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Xây
**Nguyễn Minh Chính** là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, cấp bậc Trung tướng. Ông hiện là Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội
**Minh Tông** (chữ Hán: 明宗) là miếu hiệu của một số vị vua Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên. ## Việt Nam ### Vua * Trần Minh Tông * Mạc Minh Tông ### Truy
**Nguyễn Minh Đức** (sinh năm 1951) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật. ## Thân thế và sự
**Nguyễn Minh Quang** (15 tháng 10 năm 1953 - 12 tháng 2 năm 2025), quê quán Hà Tĩnh là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
**Nguyễn Minh Thuấn** sinh ngày 08 tháng 8 năm 1959, tại xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp). Ông được biết đến với vai trò là Thiếu tướng,
**Tống Cung Đế** (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là **Doanh Quốc công**, **Tống Đế Hiển** (宋帝㬎), tên thật là **Triệu Hiển** (趙㬎), là vị
**Triều Tiên Minh Tông** (chữ Hán: 朝鮮明宗, Hangul: 조선명종, 3 tháng 7, 1534 – 3 tháng 8, 1567) là vị quốc vương thứ 13 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì trong khoảng từ năm
**Nguyễn Thế Mạnh** (sinh ngày 24 tháng 7 năm 1972) là chính trị gia Việt Nam. Hiện tại ông là Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương. Ông nguyên là Tổng giám đốc
**Nguyễn Minh Triết** (chữ Hán: , 1578–1673) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Minh Triết người làng Dược Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
**Cao Ly Minh Tông** (Hangul: 고려 명종, chữ Hán: 高麗 明宗; 8 tháng 11 năm 1131 – 3 tháng 12 năm 1202, trị vì 1170 – 1197) là quốc vương thứ 19 của Cao Ly.
Ngày 01/4/2025, đoàn Đại sứ quán Việt Nam tại Campuchia do Đại sứ Nguyễn Minh Vũ dẫn đầu đã đến chúc mừng Tết truyền thống Khmer (Chol Chnam Thmay) Tổng tư lệnh Quân đội Hoàng
**Diệc Liên Chân Bát Lạt** (tiếng Hoa: 亦怜真八剌; ? - ?) là một Hoàng hậu của Nguyên Thái Định Đế hay Nguyên Tấn Tông Dã Tôn Thiết Mộc Nhi, Hoàng đế thứ sáu của triều
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
Thiếu tướng **Nguyễn Minh Kha** (sinh năm 1958) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, thuộc đoàn đại biểu Cần Thơ., ông Kha là nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh
**Nguyễn Minh Trí** là một nhà ngoại giao Việt Nam, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Ukraina và Moldova từ năm 2014 đến 2017. Nguyễn Minh Trí sinh ngày 2 tháng 12
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Giuse Nguyễn Năng** (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1953) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn, Chủ
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Nguyễn Phú Trọng**, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, từ trần vào hồi 13 giờ 38 phút, ngày 19 tháng 7 năm
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Dương Văn Minh** (16 tháng 2 năm 1916 – 6 tháng 8 năm 2001), là một trong những nhân vật chính trị và quân sự quan trọng của Việt Nam Cộng hòa trong thời kỳ
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi