✨Tống Cung Đế
Tống Cung Đế (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là Doanh Quốc công, Tống Đế Hiển (宋帝㬎), tên thật là Triệu Hiển (趙㬎), là vị hoàng đế thứ 16 của triều đại nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông nối ngôi sau cái chết của cha Tống Độ Tông vào năm 1274. Trong thời gian Cung Đế trị vì, triều đại nhà Tống luôn bị điên đảo trước cuộc xâm lược mạnh mẽ của binh đoàn Mông - Nguyên. Lúc này, đội quân Mông Cổ đã vượt qua dòng sông Dương Tử (Trường Giang), và trên đường tiến chiếm lấy vùng Hàng Châu. Bị giặc ép buộc phải đầu hàng, Thái hoàng Thái hậu nhà Nam Tống phải buộc sang chầu Mông - Nguyên. Sau đó, tuy chính quyền Nam Tống ra sức tìm cách kháng Nguyên, nhưng trước thế mạnh đối phương, Tống Cung Đế bị bắt.
Sau khi bị bắt, đối phương không giết ông, mà giáng phong ông làm Doanh quốc công, và đến năm 1289, Khả hãn Mông Cổ là Hốt Tất Liệt (Khubilai Khan, sau này là Nguyên Thế Tổ, chiếm trọn Trung Hoa) đưa Tống Cung Đế đến sống ở miền Tây Tạng, bắt ông phải cắt tóc đi tu. Trong thời gian làm nhà sư, Cung Đế đã có nhiều đóng góp to lớn với Phật giáo Trung Quốc, đặc biệt trong nửa cuộc đời còn lại của mình, ông chuyên tâm vào con đường dịch sách kinh của Phật giáo Tây Tạng thành tiếng Hoa để truyền bá cho dân tộc Trung Hoa về những giáo lý mới trong Phật giáo Lạt Ma Tây Tạng.
Ngày Quý Mùi tháng 7 ÂL năm thứ 10 (12 tháng 8 năm 1274), Độ Tông băng hà ở điện Gia Phúc. Quyền thần Giả Tự Đạo vào cung bàn chuyện lập vua mới. Quần thần đề nghị lập hoàng tử trưởng là Kiến Quốc công Triệu thị, nhưng Giả Tự Đạo muốn lập vua nhỏ tuổi để dễ khống chế, bèn lấy lý do lập đích tử, tôn Gia quốc công lên ngôi. Năm đó Triệu Hiển mới 4 tuổi, hoàng thái hậu Tạ thị lâm triều xưng chế.
Hoàng đế Nam Tống
Sự thất thế của Giả Tự Đạo
Ngày Giáp Thân (13 tháng 8), Tạ thái hậu phong vương cho các con của Độ Tông; Triệu Thị làm Cát vương; Triệu Bính làm Tín vương. Ngày Bính Tuất (15 tháng 8), tôn Tạ thái hậu là thái hoàng thái hậu, Toàn hoàng hậu trở thành hoàng thái hậu.
Đầu năm 1275, thành Giang châu thất thủ, Phạm Văn Hổ ở An Khánh quân hàng giặc. Giả Tự Đạo nấn ná chưa dám ra trận; đến lúc Lưu Chỉnh chết, Tự Đạo nghĩ quân Nguyên không còn người dẫn đường bèn ra quân đánh giặc. Tập trung 13 vạn tinh binh cùng lên đường, có sự trợ giúp của Hạ Quý và Uông Lập Tín. Tự Đạo sau đó cử Tống Kinh đến doanh trại quân Nguyên xin xưng thần, triều cống nhưng Bá Nhan không cho.
Sau đó quân Nguyên tiếp tục tiến quân, vây khốn Trì châu, tướng Triệu Mão tuẫn tiết. Giả Tự Đạo sai Hạ Quý, Tôn Hổ Thần đi trước, còn mình ở phía sau. Tôn Hổ Thần ra trận thất lợi, Hạ Quý ngồi nhìn không cứu. Quân Tống bị đại bác bắn phá ác liệt, bị rối loạn và thảm bại. Giả Tự Đạo cũng thu quân, giữa đường bị quân Nguyên đuổi riết, thương vong vô số. Tự Đạo bèn cùng Tôn Hổ Thần lui về Dương châu, cho treo cờ triệu tập ba quân mà chả ai thèm đến. Lúc này hai tể tướng xin từ chức, thái hoàng thái hậu cố lưu lại, phong Vương Dược là Bình chương quân quốc trọng sự, một tháng hai lần tới Kinh diên, năm ngày lên triều một lần; Trần Nghi Trung, Lưu Mộng Viêm đổi làm Tả, Hữu thừa tướng. Vương Dược đề nghị cho hai tể tướng ra đốc sư Ngô Môn, Trần Nghi Trung tìm cớ trì hoãn. Lúc này đại thần Lưu Cửu Cao dâng sớ kể tội Nghi Trung là bè đảng của Giả Tự Đạo và làm hỏng việc nước, Nghi Trung tức giận bỏ đi. Lưu Cử Cao liền bị tống vào ngục, thái hoàng thái hậu bảo mẹ Nghi Trung là Dương thị gọi Nghi Trung về. Còn Vương Dược xin bãi chức Bình chương, được đổi phong thiếu bảo, Quan Văn điện học sĩ, Lễ tuyền quan sứ, ít lâu sau thì qua đời.
Nước mất nhà tan
Trương Thế Kiệt được cử làm Tổng đô đốc phủ chư quân, chống cự với quân Nguyên, Hạ Quý làm Xu mật phó sứ, Lưỡng Hoài tuyên phủ đại sứ; Chu Hoán hỗ trợ, Lý Đình Chi được lệnh về triều. Hạ Quý không phụng chiếu, Đình Chi không về. Trần Văn Long trở thành đồng Thiêm thư Xu mật viện sự thay cho Cao Tư Đắc, Văn Thiên Trường là Binh bộ thượng thư. Quân Nguyên lúc này đã tới rất gần. Khi đó quân Tống có thu phục lại một số đất đai nhưng chẳng thấm tháp vào đâu so với các phần đã bị mất.
Triều đình cử Văn Thiên Trường ra trấn thủ Bình Giang. Các tướng Tôn Hổ Thần, Khương Tài lần lượt bị chết; quân Nguyên chiếm Thái châu, Lữ Thành, Thường châu, chia quân vào Lâm An. Triều đình dùng Trương Thế Kiệt, Lưu Sư Dũng ra trận. Vào tháng 10 ÂL, Lưu Mộng Viêm và Trần Nghi Trung được phong làm Tả, Hữu thừa tướng Lúc đó các châu quận Giang Tây lần lượt thất thủ; Văn Thiên Trường và Trương Thế Kiệt tính kế, coi Hoài đông là tường chẳn, quyết giữ bằng được Mân, Quảng để tính kế khôi phục. Trần Nghi Trung lại không chấp nhận. Tả thừa tướng Lưu Mộng Viêm lúc này bỏ trốn luôn, triều đình dùng Ngô Kiên lên thay chức.
Đầu năm 1276, Bá Nhan tiến chiếm Bình Giang, Trương Thế Kiệt đưa quân về triều hộ vệ. Triều đình bắt đầu tính việc nghị hòa. Trần Nghi Trung sai Lục Tú Phu, Lã Sư Mạnh cùng Liễu Nhạc đến trại quân Nguyên xin nghị hòa, xưng nước bác nước cháu, nếu không thì là nước ông nước cháu chỉ xin bãi binh, Bá Nhan không nghe. Nghi Trung lại xin thái hoàng thái hậu dâng biểu cầu phong, xưng thần, cắt đất nộp thuế là 25 vạn, thái hậu đành phải chấp nhận. Khi đó Đàm châu đã thất thủ, Hồ Nam trấn phủ đại sứ Lý Phất tử tiết, quân Nguyên đã ở trước thành Lâm An. Trần Văn Long, Hoàng Dung cùng nhau bỏ trốn, triều đình lúc này chẳng còn bao nhiêu người.
Thái hoàng thái hậu sai Giám sát ngự sử Lưu Ba sang gặp Bá Nhan xin xưng thần, dâng tôn hiệu cho Nguyên chủ, cống nạp bạc lụa mỗi thứ 25 vạn, Bá Nhan không chịu, đòi vua tôi nhà Tống ra hàng. Văn Thiên Trường xin dùng Cát vương, Tín vương ra trấn giữ Mân Quảng để tính việc khôi phục. Ban đầu thái hoàng thái hậu không chịu, đến đây tông thất nhiều người cầu xin nên mới chấp nhận, đổi Cát vương Thị là Ích vương giữ Phúc châu, Tín vương Bính làm Quảng vương giữ Tuyền châu. Năm Chí Nguyên 19 (1289), Nguyên Thế Tổ theo lời tấu của Trung thủ tỉnh, dời Doanh quốc công đến Thượng Đô. Nguyên Thế Tổ muốn bảo toàn tông tộc triều Tống, vào tháng 10 ÂL năm 1288 đã hạ lệnh Doanh quốc công đến sống ở đất Thổ Phiên, có thuyết cho rằng ông tự muốn đến Thổ Phiên để nghiên cứu Phật giáo. Tháng 12 ÂL, ông được đến Thoát Tư Ma và sống trong chùa Tích Tát Tư Ca, hiệu là Mộc Ba giảng sư, sau trở thành trụ trì ở chùa này, pháp hiệu là Hợp Tôn. Trong thời gian làm nhà sư, Doanh quốc công đã có nhiều đóng góp to lớn với Phật giáo Trung Quốc, đặc biệt trong nửa cuộc đời còn lại của mình, ông chuyên tâm vào con đường dịch sách kinh của Phật giáo Tây Tạng thành tiếng Hoa để truyền bá cho dân tộc Trung Hoa về những giáo lý mới trong Phật giáo Lạt Ma Tây Tạng. Các sử gia thời nhà Minh cho rằng cái chết này là do văn thơ của ông kích động lòng tự tôn dân tộc ở người Hán, đánh động đến sự thống trị của chính quyền nhà Nguyên, do vậy ông bị khép tội xúi giục dân chúng mưu phản và bị chém đầu. Sách Sơn Am tạp lục dẫn thơ :''Ký ngữ Lâm Hòa tĩnh :''Mai khai kỉ độ hoa :''Hoàng kim đài thượng khách :''Vô phục đắc hoàn gia.
Sau đó Doanh quốc công đem những lời thơ này trao đổi với Uông Nguyên Lượng và cuối cùng bài thơ lọt vào tay vua Nguyên. Cũng trong tháng 4 năm 1323, Nguyên Anh Tông lại hạ lệnh điều tra các sư tăng trong nước để tìm ra những người có lời lẽ kích động như vậy mà trị tội.
Hậu duệ
Triệu Hoàn Phổ
Tống Cung Đế có với công chúa nhà Nguyên một con trai, đặt tên là Triệu Hoàn Phổ. Nhờ mẹ là công chúa mà Hoàn Phổ được triều Nguyên bảo toàn tính mệnh, kể cả sau khi Cung Đế bị Nguyên Anh Tông bức chết. Khi Hồng cân quân khởi nghĩa, triều đình không muốn Hoàn Phổ lọt vào tay nghĩa quân Hán tộc nên đã cho dời đến Đôn Hoàng gần biên cương và canh phòng cẩn mật. Sau này có Paul Pelliot và John Andrew Boyle đọc chương "Người kế thừa của Thành Cát Tư Hãn" trong sách Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani thấy ghi chép về một "hoàng thân" người Trung Hoa được gọi là "Tống chủ" (宋主) bị nhà Nguyên truất ngôi, được làm phò mã của Hãn Mông Cổ.
Nghi vấn về huyết thống với Nguyên Thuận Đế
Hậu thế có lời lan truyền về việc Nguyên Thuận Đế Thỏa Hoàn Thiếp Mộc Nhĩ chính là con trai nhỏ của Tống Cung Đế. Theo Thuận Đế kỉ trong Nguyên sử thì vào năm 1330, Thỏa Hoàn đã từng bị chú là Nguyên Văn Tông đày đến Cao Ly rồi Tĩnh Giang. Có lời đồn rằng việc Thuận Đế bị lưu đày là do ông ta không phải là dòng dõi triều Nguyên. Nguyên Văn Tông dẫn lời người chồng của nhũ mẫu Thỏa Hoàn rằng Thỏa Hoàn không phải là con của Nguyên Minh Tông Hòa Thế Lạt rồi bố cáo trong ngoài về việc này, sau đó lưu đày Thỏa Hoàn.
Sử gia Nhân quyền Hành vào cuối thời Nguyên, đầu thời Minh viết quyển Canh Thân ngoại sử, trong đó kể lại rằng lúc Doanh Quốc công ở chùa Thập Tự (tức Trương Dịch Đại tự) đã thành thân với một cô gái người Hồi Hồi. Tháng 4 ÂL năm Diên Hựu thứ 7 đời Nguyên Anh Tông (tức 25 tháng 5 năm 1320), Hồi Hồi nữ tử sinh một người con trai chính là Thỏa Hoàn Thiếp Mục Nhĩ. Lúc này con trai trưởng của Nguyên Vũ Tông là Chu vương Hòa Thế Lạt, tức Nguyên Minh Tông về sau, lưu vong ở miền Tây Bắc có ghé qua chùa này và gặp được người con trai nhỏ của Doanh Quốc công, cảm thấy vui mừng nên nhận làm con mình, sau đó lấy luôn người mẹ.
Vào thời Minh người ta bàn luận rất nhiều về sự việc này. Quyển Tứ Khố đề yếu viết vào thời nhà Thanh cho rằng việc Nguyên Thuận Đế là con của Tống Cung Đế thực ra chỉ là câu chuyện bịa đặt của những người dân Tống mất nước, họ níu giữ một hi vọng rằng người ngự trên ngai vàng vẫn mang dòng máu họ Triệu, còn bọn người thời Minh lại ra sức làm cho câu chuyện lan truyền rộng hơn. Các học giả cận đại lập luận rằng nếu câu chuyện có thật thì Doanh quốc công có lẽ trước lúc đến sống tại Cam châu đã từng đến địa giới Cát Tư, Cát Lợi của Khiêm Châu và lúc đó Chu vương Hòa Thế Lạt từ Thiểm Tây đến A Nhĩ Thái Sơn (Kim Sơn) lưu vong tại đất phong của Sát Hợp Đài là vùng tiếp cận với Khiêm châu.
Các Tể tướng thời Cung Đế
Giả Tự Đạo: 1274
Vương Dược: 1274 - 1275
Trần Nghi Trung, Lưu Mộng Viêm: 1275
Văn Thiên Tường: 1275 - 1276
Gia đình
- Cha: Tống Độ Tông Triệu Kì
- Mẹ: Toàn hoàng hậu
- Vợ: ** Bột Nhi Chỉ Cân thị, con gái Hốt Tất Liệt, công chúa nhà Nguyên (ghi chép trong Sử tập của Lạp Thi Đặc phần kỷ Hốt Tất Liệt hãn, Lưỡng sơn mặc đàm của Trần Đình và Quốc các của Đàm Thiên).
- Con trai: ** Triệu Hoàn Phổ. Đi tu, không rõ sinh mất. Thời kỳ thuộc niên hiệu Chí Chính sống ở Sa Châu.