✨Tống đế Bính

Tống đế Bính

Tống đế Bính (chữ Hán: 宋帝昺; 12 tháng 2, 1271 - 19 tháng 3, 1279), đôi khi gọi là Tống Thiếu Đế (宋少帝) là vị hoàng đế thứ 9 và là hoàng đế cuối cùng của triều đại Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai thứ của hoàng đế Độ Tông triều Nam Tống, mẹ là Du tu dung. Sau khi kinh thành Lâm An thất thủ về tay quân Nguyên, Triệu Bính cùng anh là Tống Đoan Tông chạy ra Mân, Quảng tiếp tục kháng Nguyên. Vào tháng 5 năm 1278, đế Thị qua đời, Triệu Bính mới 8 tuổi được lập làm hoàng đế ở Phong châu với niên hiệu Tường Hưng để duy trì nhà Tống. Lúc này quân Nguyên tiếp tục tiến về phía nam hòng diệt hẳn triều đình lưu vong và thống nhất Trung Quốc. Ngày 19 tháng 3 năm 1279, quân Nguyên do Trương Hoằng Phạm chỉ huy tiến công vào lãnh địa cuối cùng của Tống là Nhai Sơn, Tả thừa tướng Lục Tú Phu ôm đế Bính nhảy xuống biển tự vẫn, triều Nam Tống diệt vong.

Bỏ chạy ra Mân, Quảng

Triệu Bính là hoàng tử thứ hai của Tống Độ Tông Triệu Kì, mẹ là Du tu dung. Ông chào đời vào ngày 12 tháng 2 năm 1271 tại kinh thành Lâm An. Ba năm sau, năm 1274, Tống Độ Tông băng hà, quyền thần Giả Tự Đạo lấy lý do lập đích tự, bỏ qua hoàng tử trưởng là Triệu Thị mà lập Triệu Hiển con Toàn hoàng hậu làm vua, tức là Tống Cung Đế. Triệu Thị được phong làm Cát vương còn Triệu Bính trở thành Tín vương.

Từ năm 1271, vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt xưng quốc hiệu là Nguyên và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhằm tiêu diệt Nam Tống. Ngay sau khi Cung Đế lên ngôi, quân Nguyên do Bá Nhan chỉ huy đã ồ ạt tiến xuống miền nam, vượt Trường Giang tiến thẳng vào Lâm An. Triều đình nhà Tống lúc đó đã rất suy yếu, không thể chống đỡ nổi quân Nguyên. Vào năm 1275, đại thần Lâm An doãn Văn Thiên Tường thấy thế đã nguy cấp nên thỉnh cầu cho nhị vương ra trấn Mân, Quảng hòng tìm kế khôi phục, triều đình không nghe, nhưng cũng có lệnh để nhị vương xuất các, mở phủ đệ bên ngoài. Đến cuối năm này, quân Đại Nguyên đã tiến sát Lâm An, tông thân một lần nữa cực lực thỉnh cầu, thái hoàng thái hậu Tạ thị (người nhiếp chính) mới để đồng ý, đổi Thị là Ích vương, phán Phúc châu, Phúc Kiến An phủ đại sứ; còn Triệu Bính làm Quảng vương, phán Tuyền châu kiêm phán Nam ngoại tông chánh, đi theo còn có Dương thục phi, Du tu dung mẹ của nhị vương, phò mã đô úy Dương Trấn cùng Dương Lượng Tiết, Du Như Khuê.... Bá Nhan nghe tin nhị vương đã bỏ trốn liền sai Phạm Văn Hổ đưa quân đuổi theo đến Vụ châu để truy bắt, đồng thời yêu cầu Dương Trấn cùng nhị vương phải ra hàng. Dương Trấn nghĩ kế quay lại Lâm An để trì hoãn truy binh Nguyên. Bọn Lượng Tiết phò tá hai vương lánh ở núi Nặc Sơn trong bảy ngày, sau đó đến Ôn châu rồi hạ lệnh triều Trần Nghi Trung ở Thanh Áo, Trương Thế Kiệt ở Định Hải đến hộ giá. Nhớ xưa kia Cao Tông bị người Kim truy đuổi cũng đã phải chạy đến đây, nay tình cảnh còn thậm tệ hơn lúc trước, chúng tướng ai nấy đều than khóc rồi họ tôn Triệu Thị làm Thiên hạ binh mã đô nguyên soái, Triệu Bính làm phó."

Quần thần lại lập Vệ vương Bính làm đế, tôn vua vừa mất Triệu Thị là Dụ Văn Chiêu Vũ Mẫn Hiếu hoàng đế, miếu hiệu Đoan Tông, táng ở lăng Vĩnh Phúc. Dương thái phi vẫn lâm triều nghe chính, cải nguyên là Tường Hưng, đổi Cương châu là huyện Tường Long. Lúc đó tể tướng Trần Nghi Trung đã bỏ trốn, Lục Tú Phu và Trương Thế Kiệt cùng nhau phò chính. Tú Phu được tiến phong làm Tả thừa tướng, dâng sách Đại học chương cú để hướng dẫn cho vua Tống.

Tháng 6 ÂL năm đó, tướng Ứng Khoa tử trận tại Lôi châu, phó tướng Vương Dụng đầu hàng. Lý Tượng Tổ ở Cao châu cũng đầu hàng người Nguyên. Tháng 8 ÂL, lấy Diêu Lương Thần là Hữu thừa tướng, Hạ sĩ Lâm Tham tri chính sự, Vương Đức Đồng tri Xu mật viện sự, tướng Triệu Dữ Lạc đóng quân ở Bạch Sa Khẩu kháng cự, người trong châu bắt Dữ Lạc rồi hàng Nguyên. Quân Nguyên đã tới Quảng châu. Khi Vương Đạo Phu đem quân giao chiến với Nguyên ở Quảng châu thì thất bại và bị bắt, Lăng Chấn cũng thất bại phải lui về Nhai Sơn. Trương Hoằng Phạm đánh tiếp ba châu Chương, Triều, Huệ. Lúc đó Văn Thiên Trường đóng quân ở Triều Dương, Trâu Phượng và Lưu Tử Tuấn được lệnh tấn công hải tặc Trần Ý, Lưu Hưng. Lưu Hưng bị giết, Trần Ý bỏ trốn rồi hàng Nguyên, dẫn đường cho Trương Hoằng Phạm tiến vào Triều Dương, Văn Thiên Trường rút quân về Hải Phong, đến Ngũ Lĩnh thì gặp quân Nguyên do Trương Hoằng Chánh chỉ huy. Quân Tống đại bại, Thiên Trường và Trâu Phượng, Lưu Tử Tuấn, Đổ Hử bị bắt.

Hoằng Phạm dụ Văn Thiên Tường không được, tiếp tục tấn công vào Nhai Sơn.

Nhai Sơn di hận

Trương Thế Kiệt kết thuyền làm lũy hơn ngàn chiếc quyết cố thủ. Cửa bắc của Nhai Sơn là nước cạn không thể tiến lên, Hoằng Phạm bèn đổi hướng sang cửa nam, nhập Đại Dương, giao chiến với quân của Thế Kiệt. Thuyền của Thế Kiệt liên kết thành một khối bất động. Hoằng Phạm bèn dùng kế tưới dầu vào cỏ khô, nhân gió thổi mà phóng hỏa đốt thuyền. Nam Tống đến đó là dứt. Tính từ Tống Cao Tông đến Tống đế Bính là 152 năm trải 7 đời 9 vua, nếu tính cả Bắc Tống thì tổng cộng là 320 năm, 18 triều vua.

Giai thoại

Tại Cửu Long thuộc Hồng Kông có một giai thoại kể rằng: :Khi Lâm An thất thủ, Tống đế Bính chạy trốn tới Cửu Long. Đêm nằm ngủ, vua Tống mơ thấy một vị thần đến nói rằng: "Hãy dừng chân lại ở Thập Long, chỉnh đốn lại quân ngũ thì có thể lập nên nghiệp lớn". Tống đế Bính tỉnh dậy nghĩ rằng đây mới là Cửu Long, cần thêm 1 Long nữa, nên lại tiếp tục chạy trốn đến miền nam, cuối cùng đến Nhai Sơn thì bị quân Nguyên ép chết. Đế Bính quên mất rằng, chính mình là một "long" còn thiếu đó, nếu cộng thêm vào thì Cửu Long sẽ thành Thập Long.

An táng và thờ tự

Tại Xích Loan, có Tống Thiếu Đế lăng, theo truyền thuyết thì di hài của Thiếu Đế Bính trôi dạt tới vùng phụ cận Xích Loan, được tăng nhân phát hiện, sau khi xem xét trang phục thì chính là Tống Thiếu Đế, bèn đem táng ở đó. Năm 1984 khu công nghiệp Xà Khẩu và hội đồng tộc họ Triệu tại Hồng Kông đã bỏ tiền của tu tạo Tống Thiếu Đế lăng. Hiện nay Tống Thiếu Đế lăng là đơn vị bảo hộ trọng điểm văn vật ở Thâm Quyến.

Tống đế Bính là vị vua cuối của nhà Tống, sau khi mất, nhà Nguyên đã thống trị Trung Hoa. Nhưng đến cuối đời Nguyên, do các vua người Mông Cổ vô đạo, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổi dậy, trong đó cuộc khởi nghĩa của Tiểu Minh Vương tự xưng là hậu duệ của nhà Tống. Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn đền thờ Tống Đế Bính, Lục Tú Phu và Trương Thế Kiệt tại đền Cờn ngoài, Nghệ An

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tống đế Bính** (chữ Hán: 宋帝昺; 12 tháng 2, 1271 - 19 tháng 3, 1279), đôi khi gọi là **Tống Thiếu Đế** (宋少帝) là vị hoàng đế thứ 9 và là hoàng đế cuối cùng
alt=Painted image of a portly man sitting in a red throne-chair with dragon-head decorations, wearing white silk robes, black shoes, and a black hat, and sporting a black mustache and goatee|Chân dung [[Tống Thái Tổ
**Dương Thục phi** (chữ Hán: 杨淑妃; ? - 1279), là một phi tần của Tống Độ Tông Triệu Mạnh Khải và là sinh mẫu của Tống Đoan Tông Triệu Thị. ## Tiểu sử **Dương Thục
Thông tin sản phẩm:Thương hiệu: Revlon.Xuất xứ thương hiệu: USA (Mỹ).Sản xuất tại: USA (Mỹ).Trọng lượng: 71g.Tông màu: Số 20 tông Trung Bình Sáng (Light Medium).SKU (Mã Vạch): 309973157026.Phấn phủ Revlon Photoready Powder Fair Light
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Jean Joseph Marie Gabriel de Lattre de Tassigny** (, 2 tháng 2 năm 1889 – 11 tháng 1 năm 1952) là đại tướng Pháp trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến
_Đối với các định nghĩa khác, xem_ _Ninh Bình (định hướng)._ **Ninh Bình** là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, miền Bắc,
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Tống Bình công** (chữ Hán: 宋平公, ?-532 TCN, trị vì: 575 TCN-532 TCN), tên thật là **Tử Thành** (子成), là vị vua thứ 26 của nước Tống - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Tống Cung Đế** (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là **Doanh Quốc công**, **Tống Đế Hiển** (宋帝㬎), tên thật là **Triệu Hiển** (趙㬎), là vị
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1864** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 20, được tổ chức vào thứ Ba, ngày 8 tháng 11 năm 1864. Diễn
**Đường Chiêu Tông** (chữ Hán: 唐昭宗, 31 tháng 3 năm 867 – 22 tháng 9 năm 904), nguyên danh **Lý Kiệt** (李傑), sau cải thành **Lý Mẫn** (李敏), rồi **Lý Diệp** (李曄), là hoàng đế
**Tùy Văn Đế** (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu **Tùy Cao Tổ**, tên Hán là **Dương Kiên** (楊堅), tên Tiên Ti là **Fuluruqen** (普六茹堅, Phổ Lục Như
thumb|[[David Hurley và Patsy Reddy, lần lượt là toàn quyền của Úc và New Zealand, với vợ hoặc chồng của họ, năm 2021]] **Tổng đốc** hay **Toàn quyền** (chữ Hán: 總督; tiếng Anh: _Governor-general_; tiếng
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Tống Đoan Tông** (chữ Hán: 宋端宗; 10 tháng 7 năm 1268 - 8 tháng 5 năm 1278), còn gọi là **Tống đế Thị** (宋帝昰), thụy hiệu **Dụ Văn Chiêu Vũ Mẫn Hiếu hoàng đế** (裕文昭武愍孝皇帝),
**Chiến tranh Kim-Tống (1206-1208)** hay **Khai Hi bắc phạt** là một phần của cuộc chiến chiến tranh Tống - Kim, kéo dài 3 năm từ 1206 đến 1208, do triều Tống phát động, tấn công
**USS _Burrows _(DE-105)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Trương quý phi** (chữ Hán: 張貴妃; 1024 - 1054), còn gọi **Ôn Thành Hoàng hậu** (溫成皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Cuộc đời Trương quý phi
**USS _William Seiverling_ (DE-441)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
Bình Định là quê hương của các loại hình nghệ thuật như tuồng, bài chòi... với bờ biển dài, nhiều vũng vịnh với những bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh như:Quy Nhơn, Tam
nhỏ|trái|Sơ đồ bê tông ứng suất trước **Kết cấu bê tông cốt thép ứng suất trước**, còn gọi là **kết cấu bê tông cốt thép ứng lực trước**, hay **bê tông tiền áp**, hoặc **bê
**Nguyễn Ngọc Tương** (1881 - 1951) là một trong những chức sắc quan trọng của tôn giáo Cao Đài trong thời kỳ hình thành và là Giáo tông thuộc Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh
**Tống Văn công** (chữ Hán: 宋文公, ?-589 TCN, trị vì 611 TCN-589 TCN), tên thật là **Tử Bão Cách** (子鮑革) hay **Tử Bão** (子鮑), là vị vua thứ 24 của nước Tống - chư hầu
**USS _Alvin C. Cockrell_ (DE-366)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu