Lưu Tống Thiếu Đế (chữ Hán: 劉宋少帝; 406–424), cũng được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế truất là Doanh Dương Vương (營陽王), tên húy Lưu Nghĩa Phù (), biệt danh Xa Binh (車兵), là một hoàng đế của Triều đại Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai cả của vị hoàng đế sáng lập nên Triều đại là Võ Đế, và trở thành hoàng đế sau khi cha của ông qua đời vào năm 422. Tuy nhiên, những bá quan của triều đình lại cho rằng ông không đủ thích hợp để quản lý đất nước, và do đó họ đã lật đổ rồi sát hại ông vào năm 424, và họ lập hoàng đệ có tài hơn của ông là Lưu Nghĩa Long làm hoàng đế (tức Văn Đế).
Dưới thời Đông Tấn
Lưu Nghĩa Phù sinh năm 406, khi đó cha của ông Lưu Dụ đang là một tướng lĩnh tối cao của Đông Tấn và trên thực tế đóng vai trò là người nhiếp chính. Mẹ của ông là một thê thiếp của Lưu Dụ tên là Trương Khuyết (張闕). Ông là con trai cả của Lưu Dụ.
Khi Lưu Dụ củng cố quyền lực của mình, ông ta bắt đầu trao cho người con trai cả thêm nhiều thẩm quyền trên danh nghĩa, song trên thực tế Lưu Dụ lệnh cho các thuộc hạ của mình đảm nhiệm các bổn phận mà lẽ ra Lưu Nghĩa Phù phải thực hiện. Năm 415, Lưu Dụ chính thức lập Lưu Nghĩa Phù làm người kế tự và phong làm thứ sử Duyện Châu (兗州, nay là trung bộ Giang Tô). Năm 416, Lưu Nghĩa Phù được phong làm Dự Châu (豫州, nay là trung bộ An Huy). Cũng trong năm đó, ông lại được phong làm Duyện Châu, song đồng thời cũng là thứ sử của Từ Châu (徐州, nay là bắc bộ Giang Tô). Sau đó, vào mùa thu, khi Lưu Dụ tiến hành một chiến dịch lớn chống lại Hậu Tần, Lưu Nghĩa Phù được cha phong làm người trấn thủ kinh thành Kiến Khang, song quyền lực thực tế nằm trong tay của Lưu Mục Chi (徐州).
Năm 417, sau khi Lưu Dụ tiêu diệt được Hậu Tần rồi thôn tính được lãnh thổ của nước này, Lưu Mục Chi qua đời. Lưu Dụ sau đó rút lui, để cố đô Trường An của Hậu Tần vào tay em trai của Lưu Nghĩa Phù là Quế Dương huyện công Lưu Nghĩa Chân (劉義真), song quyền lực thực tế nằm trong tay một số bá quan văn võ. Năm 418, sau khi Lưu Dụ đến Bành Thành (彭城, nay thuộc Từ Châu, Giang Tô), ông ta đã tính đến việc phong cho Lưu Nghĩa Phù làm thứ sử Kinh Châu (荊州, nay gần tương ứng với Hồ Bắc), song Trương Thiệu (張邵) lại cho rằng Lưu Nghĩa Phù [đang là người kế tự] không nên được đưa đi xa khỏi Kiến Khang, vì thế vị trí này đã được trao cho Lưu Nghĩa Long. Khi Lưu Dụ chấp thuận tước hiệu Tống công vào cùng năm đó, Lưu Nghĩa Phù trở thành thế tử của Tống công, và đến năm 419, sau khi Lưu Dụ trở thành Tống vương, Lưu Nghĩa Phù được ban một tước hiệu vinh dự đặc biệt là Tống vương Thái tử. Cũng trong khoảng thời gian này, Lưu Nghĩa Phù kết hôn với con gái của Tấn Cung Đế là Hải Diêm công chúa Tư Mã Mậu Anh (司馬茂英).
Dưới thời Võ Đế
Sau khi Lưu Dụ cướp ngôi của Cung Đế và lập nên Triều đại Lưu Tống (và trở thành Võ Đế) vào năm 420, Lưu Nghĩa Phù trở thành hoàng thái tử.
Năm 422, Võ Đế lâm bệnh. Quyền thần Tạ Hối (謝晦) đã nhận thấy rằng Hoàng thái tử thường giành nhiều thời gian cùng những người thiếu khả năng và đức hạnh, nên đã cảnh báo Võ Đế về điều này. Võ Đế đã tính đến việc lập Lư Lăng vương Lưu Nghĩa Chân làm thái tử thay thế. Tuy nhiên, Tạ Hối sau khi gặp Lưu Nghĩa Chân, lại đánh giá còn thấp hơn về Lưu Nghĩa Chân, và Võ Đế đã dừng kế hoạch của mình.
Khi bệnh tình của Võ Đế thêm nặng, ông đã giao phó Hoàng thái tử cho Từ Tiện Chi (徐羨之), Phó Lượng (傅亮), Tạ Hối, và Đàn Đạo Tế (檀道濟). Tuy nhiên, cũng trong lúc đó, Võ Đế đã bí bật cảnh báo Hoàng thái tử Lưu Nghĩa Phù rằng không nên quá tin tưởng vào Tạ Hối. Võ Đế băng hà sau đó, Hoàng thái tử Lưu Nghĩa Phù lên ngôi và trở thành Thiếu Đế.
Trị vì
Thiếu Đế phong cho bà kế là Thái hậu Tiêu Văn Thọ (蕭文壽) là Thái hoàng thái hậu, và phong cho Thái tử phi Tư Mã Mậu Anh làm Hoàng hậu. Việc triều chính phần lớn nằm trong tay của Từ Thiện Chi, Phó Lượng và Tạ Hối.
Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế hay tin về cái chết của Võ Đế, đã nhân thờ cơ phát động một cuộc tấn công lớn nhằm vào Lưu Tống và băng qua Hoàng Hà. Đến mùa đông năm 422, quân Bắc Ngụy chiếm được Hoạt Đài (滑台, nay thuộc An Dương, Hà Nam). Đến mùa xuân năm 423, Bắc Ngụy chiếm được Lạc Dương. Đàn Đạo Tế được phái đi để cố gắng ứng cứu các thành miền bắc, và ông ta đã có thể giữ được bán đảo Sơn Đông khỏi bị rơi vào tay Bắc Ngụy. Song đến mùa hè năm 423, tiền đồn chính cuối cùng của Lưu Tống bên Hoàng Hà là Hổ Lao (虎牢, nay thuộc Trịnh Châu, Hà Nam) đã thất thủ cùng với Hứa Xương. Chỉ đến khi này, Bắc Ngụy mới dừng việc tiến quân.
Đến mùa thu năm 423, Thiếu Đế phong cho Trương phu nhân làm thái hậu.
Năm 424, Từ, Phó, và Tạ ngày càng không hài lòng với Thiếu Đế trong vai trò hoàng đế, do Thiếu Đế đã không thực hiện các hành vi thích hợp trong thời gian ba năm để tang cha, song lại giành hầu hết thời gian của mình vào những trò tiêu khiển thay vì nghiên cứu văn hiến hay suy nghĩ việc chính sự, bất chấp lời khích lệ từ quyền thần Phạm Thái (范泰). Do đó, những đại thần này đã xem xét đến việc phế truất Thiếu Đế, song họ cũng không hài lòng với người con trai thứ hai của Võ Đế là Lưu Nghĩa Chân, người này có tài năng song thậm chí còn phù phiếm hơn cả Thiếu Đế, và thường dành thời gian cùng những người cũng thông minh song phù phiếm khác như Tạ Linh Vận (謝靈運) và Nhan Diên Chi (顏延之) và thường yêu cầu triều đình ban cho mình nhiều tiền bạc. Do vậy, bọn họ đã thúc đẩy sự kình địch đã có sẵn Thiếu Đế với Lưu Nghĩa Chân và sau đó cáo buộc Lưu Nghĩa Chân phạm tội, Thiếu Đế đã giáng Lưu Nghĩa Chân làm thường dân và đưa đi lưu đày tại quận Tân An (新安, nay gần tương ứng với Hàng Châu, Chiết Giang).
Lưu Nghĩa Chân đã bị loại bỏ, Từ, Phó và Tạ đã sẵn chuẩn bị để loại bỏ Thiếu Đế. Do họ e ngại về những đội quân hùng mạnh của Đàn Đạo Tế và Vương Hoằng (王弘), họ triệu hai người này về kinh rồi thông báo về âm mưu. Các đại thần này sau đó cử binh lính vào hoàng cung bắt giữ Thiếu Đế sau khi thuyết phục được cận binh hoàng cung không kháng cự. Trước khi Thiếu Đế có thể thức dậy trên giường vào buổi sáng, các binh sĩ đã ở sẵn trong phòng ngủ của hoàng đế, và mặc dù đã thực hiện một nỗ lực vô ích để chống lại song Thiếu Đế đã bị bắt giữ. Thiếu Đế bị đưa trở lại cung Thái tử trước đây. Các đại thần sau đó lấy danh của Trương Thái hậu để bố cáo về lỗi của Thiếu Đế và giáng xuống làm Doanh Dương vương, trao ngai vàng cho Nghi Đô vương Lưu Nghĩa Long.
Sau khi bị phế
Lưu Nghĩa Phù bị đày đến Ngô quận (吳郡, nay gần tương ứng với Tô Châu, Giang Tô) và bị đặt dưới sự canh gác nghiêm ngặt. Một tháng sau đó, Từ Tiện Chi đã cử thích khách Hình An Thái (邢安泰) để ám sát cựu hoàng đế. Lưu Nghĩa Phù là một người khỏe mạnh, ông đã chiến đấu để thoát khỏi thủ phủ của Võ quận song cuối cùng đã bị đuổi kịp rồi bị giết.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Tống Thiếu Đế** (chữ Hán: 劉宋少帝; 406–424), cũng được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế truất là **Doanh Dương Vương** (營陽王), tên húy **Lưu Nghĩa Phù** (), biệt danh **Xa Binh**
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Lưu Thiệu** () (426–453), tên tự **Hưu Viễn** (休遠), thụy hiệu là **Nguyên Hung** (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
**Lưu Sưởng** (chữ Hán: 刘昶, 436 – 497), tự **Hưu Đạo**, hoàng tử nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Sưởng lưu vong ở Bắc Ngụy đến 32 năm
**Tống Thiếu Đế** (_chữ Hán_:宋少帝) có thể là: ## Danh sách *Tống Thiếu Đế Lưu Nghĩa Phù, hoàng đế nhà Tiền Tống thời Nam Bắc triều. *Tống Thiếu Đế Triệu Hiển, hoàng đế áp chót
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
**Lưu Tống Hậu Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋後廢帝; 463–477), tên húy là **Lưu Dục** (), tên tự **Đức Dung** (德融), pháp danh **Huệ Chấn** (慧震), là một hoàng đế của triều đại Lưu Tống trong
**Vương Hoằng** (chữ Hán: 王弘, 379 - 432), tên tự là **Hưu Nguyên**, người Lâm Nghi, Lang Tà , tể tướng, nhà thư pháp nổi tiếng đời Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Thiếu Đế** (chữ Hán: ) là cách gọi của một số vị Hoàng đế Đông Á bị phế truất khi còn nhỏ tuổi, tương đương có Phế Đế, Thương Đế, Mạt Đế, Mạt Chủ, Hậu
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Lưu Nghĩa Tuyên** (chữ Hán: 刘义宣, 413 – 454), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Nghĩa Tuyên là con
**Tống Cung Đế** (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là **Doanh Quốc công**, **Tống Đế Hiển** (宋帝㬎), tên thật là **Triệu Hiển** (趙㬎), là vị
**Nam Tề Cao Đế** (chữ Hán: 南齊高帝; 427–482), tên húy là **Tiêu Đạo Thành** (), tên tự **Thiệu Bá** (紹伯), tiểu húy **Đấu Tương** (鬥將), là hoàng đế sáng lập nên triều đại Nam Tề
**Lưu Tông** (chữ Hán: 劉琮; 191-?) là Châu mục Kinh châu đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông kế nghiệp Lưu Biểu ở Kinh châu trong một thời gian ngắn và quy
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Lưu Khang Tổ** (chữ Hán: 刘康祖, ? - 451), nguyên quán huyện Lư, quận Bành Thành nhưng đã nhiều đời sống ở Kinh Khẩu, tướng lĩnh nhà Lưu Tống. ## Cuộc đời và sự nghiệp
**Nam Tề Vũ Đế** (chữ Hán: 南齊武帝; 440–493), tên húy là **Tiêu Trách** (), tên tự **Tuyên Viễn** (宣遠), biệt danh **Long Nhi** (龍兒), là hoàng đế thứ hai của triều đại Nam Tề trong
**Trần Thiếu Đế** (chữ Hán: 陳少帝; 1396 - 1400?) là vị hoàng đế thứ 13 và là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Lúc Thiếu Đế
Hành Dương Văn vương **Lưu Nghĩa Quý** (chữ Hán: 刘义季, 415 – 15 tháng 9, 447), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. Ông là người duy nhất
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
nhỏ|SzungSu **Tống thư** (宋書) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Thẩm Ước (沈約) (441 - 513) người nhà Lương thời Nam triều viết và biên soạn.
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Viên Tề Quy** (chữ Hán: 袁齊媯) (405–440), thụy hiệu: **Nguyên hoàng hậu** (元皇后) là hoàng hậu của Lưu Tống Văn Đế giai đoạn Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Cha bà
**Tống đế Bính** (chữ Hán: 宋帝昺; 12 tháng 2, 1271 - 19 tháng 3, 1279), đôi khi gọi là **Tống Thiếu Đế** (宋少帝) là vị hoàng đế thứ 9 và là hoàng đế cuối cùng
**Tư Mã Mậu Anh** (chữ Hán: 司馬茂英, 393? – 439) là Hải Diêm công chúa (海鹽公主) của nhà Tấn, và là hoàng hậu của nhà Lưu Tống Thiếu Đế Lưu Nghĩa Phù trong lịch sử
**Trương Khuyết** (chữ Hán: 张阙; ? - 426) là phi tần của Lưu Tống Vũ Đế và là hoàng thái hậu dưới triều Lưu Tống Thiếu Đế Lưu Nghĩa Phù trong lịch sử Trung Quốc.
**Tiêu Văn Thọ** (chữ Hán: 蕭文壽, 343–423), thụy hiệu: **Hiếu Ý hoàng hậu** (孝懿皇后) là hoàng thái hậu dưới triều đại Lưu Tống. Bà là kế mẫu của Lưu Tống Vũ Đế (劉宋武帝) Lưu Dụ
**Lưu Tử Huân** () (456–466), tên tự **Hiếu Đức** (孝德), là một thân vương và người tranh chấp ngôi vua triều Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã nhận được lời tuyên bố
**Lưu Đạo Liên** (chữ Hán: 刘道鄰, 368 - 21 tháng 7, 422), tức **Trường Sa Cảnh vương** (长沙景王), là một vị tướng lĩnh nhà Đông Tấn và tông thất nhà Lưu Tống, em trai của
**Lưu Thiệu** có thể là: * Lưu Thiệu, quan nước Tào Ngụy vào thời Tam Quốc. * Lưu Thiệu, một hoàng đế của triều Lưu Tống vào thời Nam Bắc triều. Thể loại:Sinh năm 426
**Đường Cơ** (chữ Hán: 唐姬) là một nữ quý tộc cuối thời Đông Hán, chính thất phu nhân của Hán Thiếu Đế Lưu Biện. ## Cuộc đời Vương phi Đường thị người quận Dĩnh Xuyên,
**Tống Đoan Tông** (chữ Hán: 宋端宗; 10 tháng 7 năm 1268 - 8 tháng 5 năm 1278), còn gọi là **Tống đế Thị** (宋帝昰), thụy hiệu **Dụ Văn Chiêu Vũ Mẫn Hiếu hoàng đế** (裕文昭武愍孝皇帝),
:_Bài này viết về một môn võ thuật có nguồn gốc từ Trung Hoa. Các nghĩa khác về Thiếu Lâm khác được liệt kê tại Thiếu Lâm (định hướng)_ :_Xem thêm Thiếu Lâm thất thập
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Thẩm Khánh Chi**, tự **Hoằng Tiên**, người Vũ Khang, Ngô Hưng, là danh tướng nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Thẩm Khánh Chi từ nhỏ đã
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Lưu Sưởng** (; 943-980), hay **Nam Hán Hậu Chủ** (南漢後主), là vua thứ tư và là vua cuối cùng của nước Nam Hán thời Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở