Lưu Sưởng (chữ Hán: 刘昶, 436 – 497), tự Hưu Đạo, hoàng tử nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Sưởng lưu vong ở Bắc Ngụy đến 32 năm – quá nửa cuộc đời của ông.
Vinh hoa ở Lưu Tống
Sưởng là con trai thứ 9 của Lưu Tống Văn đế, mẹ là Tạ dung hoa. Năm Nguyên Gia thứ 22 (445), Sưởng lên 10 tuổi, được phong tước Nghĩa Dương vương, thực ấp 2000 hộ. Năm thứ 27 (450), Sưởng được làm Phụ quốc tướng quân, Nam Bành Thành, Hạ Bi 2 quận thái thú.
Anh trai Lưu Thiệu giết cha để lên ngôi, tức là Nguyên Hung (453), Sưởng được gia chức Tán kỵ thường thị. Hiếu Vũ đế lật đổ Nguyên Hung, Sưởng được thăng Thái thường, ra làm Đông trung lang tướng, Hội Kê thái thú, ít lâu sau được làm Giám Hội Kê, Đông Dương, Lâm Hải, Vĩnh Gia, Tân An 5 quận chư quân sự. Năm Hiếu Kiến đầu tiên (454), triều đình lập ra Đông Dương Châu, Sưởng được bái làm thứ sử, Đông trung lang tướng như cũ, tiến hiệu Hậu tướng quân.
Cừ Pháp Sanh về đến, Sưởng lập tức tập hợp lực lượng để dấy binh, nhưng các quận dưới quyền không nghe lệnh, đều chém sứ giả của ông, còn tướng tá văn vũ đều sanh lòng khác. Sưởng biết việc không xong, bèn trong đêm cùng vài mươi kỵ binh, mở cửa chạy đường tắt sang Bắc Ngụy, bỏ lại mẹ, vợ, chỉ đem theo 1 ái thiếp là Ngô thị, cho mặc trang phục đàn ông, cũng cưỡi ngựa mà đi . Sưởng đem theo hơn 60 người, giữa đường phần nhiều bỏ trốn; tháng 11 ÂL, ông đến được Bắc Ngụy, bên mình chỉ còn chừng 20 người. nhưng giáng chiếu mệnh Sưởng gởi thư cho Minh đế (vốn là hoàng tử thứ 11 của Văn đế), nhằm nối tình anh em. Minh đế không trả lời, cho rằng Sưởng chỉ là con vợ lẽ, đòi ông phải theo lối Tuân Oanh đối đáp với Sở Cung vương, xưng là ngoại thần với mình. Ít lâu sau, triều đình Bắc Ngụy là giáng sắc mệnh Sưởng tiếp tục gởi thư cho Minh đế, ông từ chối, lấy cớ Minh đế không kính trọng anh trai thì gởi thư cũng vô ích, triều đình nghe theo. Ở Ngụy, Sưởng được bái làm Ngoại đô tọa đại quan. Đến khi trưởng công chúa mất, Sưởng lại được lấy Bình Dương trưởng công chúa.
Mùa xuân năm thứ 17 (493), Nam Tề Vũ đế điều động vật lực, ý đồ giành lại Từ Châu, Sưởng mấy lần khóc lóc cầu xin Hiếu Văn đế cho mình ra giữ biên thùy, tập hợp di dân, rửa mối thù mất nước; Hiếu Văn đế cũng rơi nước mắt, đãi ngộ thêm nồng hậu. Trong tháng ấy, Hiếu Văn đế tổ chức đại nghị nam phạt ở điện Kinh Vũ, giáng chiếu cho nhiều nơi chuẩn bị rơm rạ cho ngựa. Sau đó Ung Châu thứ sử Tào Hổ của Nam Tề trá hàng, Sưởng được nhận chiếu đem binh ra Nghĩa Dương, vô công mà về. Sưởng dự tính xây mộ ở tây nam Bành Thành, sẽ chôn người vợ công chúa thứ 3 của mình cùng mồ nhưng khác huyệt. Trong lúc xây dựng, mồ lở, đè chết hơn 10 người; sau đó Sưởng dời vị trí mồ, hao tốn tiền của. Hiếu Văn đế đến Bành Thành, Sưởng được vào gặp, nhận tội không làm được gì, đế vỗ về ông.
Gia đình
Nữ quyến
- Mẹ là Tạ dung hoa, sau khi Sưởng được phong Nghĩa Dương vương thì được gọi là Nghĩa Dương quốc Thái phi. Sau khi Sưởng bỏ lại cả nhà để chạy sang Bắc Ngụy, gia đình của ông bị đưa về kinh thành Kiến Khang. Lưu Tống Minh đế lên ngôi, đổi phong tước của Sưởng là Tấn Hi vương, đồng thời đổi Tạ thị làm Xạ thị, cắt bỏ tước trật của bà. Năm Thái Thủy thứ 6 (470), Xạ thị được trả về nhà mẹ đẻ. Năm Nguyên Huy đầu tiên (473) thời Lưu Tống Hậu Phế đế, Xạ thị được khôi phục làm Tấn Hi quốc Thái phi, được đổi lại làm Tạ thị, trở về Bành Thành. Bắc Ngụy chiếm được Từ Châu, cho Sưởng trấn thủ Bành Thành, nên hai mẹ con được đoàn tụ.
- Vợ đầu của Sưởng ở Lưu Tống là con gái sĩ tộc họ Si. Trong chiếu thư cho Lưu Tiếp kế tự Sưởng, Minh đế đã tiết lộ rằng Si thị bị Tạ thái phi hành hạ nên mất sớm. Ở Bắc Ngụy, Sưởng lần lượt được cưới 3 công chúa: Vũ Ấp, Kiến Hưng và Bình Dương.
- Ngoài ra, Sưởng có ít nhất 3 người thiếp ở Lưu Tống: Ngô thị được ông mang theo sang Bắc Ngụy, 2 người đã sanh con trai cho ông sau đó; ở Bắc Ngụy, những người thiếp lại sanh cho ông 2 con trai khác, 1 trong 2 người trở thành con kế tự của Sưởng.
Hậu nhân
Sử cũ ghi nhận Sưởng có ít nhất 5 con trai.
Ở Lưu Tống
Sau khi Sưởng chạy sang Bắc Ngụy, gia đình bị đưa về kinh sư, ở đây có 2 người thiếp của ông đã sanh ra con trai. Đến khi Minh đế lên ngôi, đặt tên cho 2 đứa trẻ là Tư Viễn và Hoài Viễn, ít lâu sau đều mất. Minh đế truy phong Hoài Viễn làm Trì Dương huyện hầu, thực ấp 1000 hộ.
Năm Thái Thủy thứ 6 (470), Minh đế lấy cớ chuộc Sưởng không xong, bèn chọn con trai thứ 6 của mình là Lưu Tiếp còn ẵm ngữa làm người kế tự của Sưởng, nối tước Tấn Hi vương. Sau khi Nam Tề soán ngôi Lưu Tống, Tiếp bị giết hại cũng như các thành viên khác của hoàng tộc.
Ở Bắc Ngụy
- Đích tử của Sưởng là Lưu Thừa Tự, do công chúa sanh ra, từ nhỏ đã gầy bệnh. Thừa Tự được lấy Bành Thành trưởng công chúa làm vợ (con gái của Hiến Văn đế, em gái của Hiếu Văn đế), nhận chức Phò mã đô úy; mất trước Sưởng, được tặng Viên ngoại Thường thị. (Về sau Bành Thành trưởng công chúa được đổi làm Trần Lưu trưởng công chúa, tái giá với Vương Túc.)
- Trưởng tử là Lưu Văn Viễn, tính cách có chút rồ dại, nên Sưởng cho rằng anh ta không thể kế tự. Văn Viễn từng được làm Bộ binh hiệu úy, Tiền tướng quân, đầu thời Tuyên Vũ đế được làm Thống quân. Ở Thọ Xuân, Văn Viễn bị thứ sử Vương Túc kết tội mưu sát ông ta, hòng chiếm thành làm phản, rồi chịu chết. Đây có thể là án oan. Khi Sưởng trấn thủ Bành Thành, triều đình lấy Vương Túc làm phó cho ông. Bởi tính khí thất thường và tài năng kém cỏi của Sưởng khiến cho quân Ngụy và cá nhân Vương Túc nhiều lần hỏng việc.
- Thứ tử là Lưu Huy, cũng là con kế tự của Sưởng. Lưu Huy được gả Lan Lăng trưởng công chúa (con gái của Hiếu Văn đế, chị gái thứ 2 của Tuyên Vũ đế), đả thương khiến công chúa sảy thai rồi chết.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Sưởng** (; 943-980), hay **Nam Hán Hậu Chủ** (南漢後主), là vua thứ tư và là vua cuối cùng của nước Nam Hán thời Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở
**Lưu Sưởng** (chữ Hán: 刘昶, 436 – 497), tự **Hưu Đạo**, hoàng tử nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Sưởng lưu vong ở Bắc Ngụy đến 32 năm
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Lưu Khiêm** (chữ Hán: 劉謙, 950 – 1009), người huyện Đường Ấp, phủ Bác Châu, lộ Hà Bắc , tướng lãnh nhà Bắc Tống. ## Thân thế Ông cụ là Lưu Trực, nhờ thuần hậu
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
nhỏ|SzungSu **Tống thư** (宋書) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Thẩm Ước (沈約) (441 - 513) người nhà Lương thời Nam triều viết và biên soạn.
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Lưu Khiêm** (chữ Hán: 刘谦, ? – ?), tự Hán Tông, người phủ Khai Phong , tướng lãnh nhà Bắc Tống. ## Sự nghiệp Thời trẻ Khiêm được bổ làm Vệ sĩ, qua vài lần
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Phan Mỹ** (chữ Hán: 潘美, 925 – 991), tên tự là **Trọng Tuân**, người phủ Đại Danh , là tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là nguyên mẫu của
**Mạnh Sưởng** () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh **Mạnh Nhân Tán** (孟仁贊), tự **Bảo Nguyên** (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là **Sở Cung Hiếu Vương** (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai
**Mạnh Sưởng** (chữ Hán: 孟昶, ? – 22 tháng 6, 410), người huyện An Khâu, quận Bình Xương, là tướng cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Sưởng là hậu
** Chế độ tổng tài** (tiếng Pháp: _Le Consulat_) là chính phủ cấp cao nhất của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp kể từ sự sụp đổ của Chế độ đốc chính trong cuộc Đảo chính
**Lưu Huy** (chữ Hán: 刘晖, ? – 523), tự **Trọng Xương**, là phò mã nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con kế tự của Tề quận công
**Lưu Mục Chi** (刘穆之), tên tự là **Đạo Hòa**, tên lúc nhỏ là Đạo Dân , là kiều dân ở Kinh Khẩu , mưu sĩ thân cận của quyền thần Lưu Dụ cuối đời Đông
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張俊, 1086 - 1154), tên tự là **Bá Anh** (伯英), nguyên quán ở Thành Kỉ, phủ Phượng Tường, là tướng lĩnh dưới thời Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
**Chân Dung Tông Diễn** (chữ Hán: 真融宗演, 1638–1709 hoặc 1640–1711), còn có hiệu là **Đại Tuệ Quốc sư**, là Thiền sư Việt Nam đời Lê trung hưng. Ông thuộc đời pháp thứ 32 tông Tào
Lâm Xuyên Liệt Võ Vương **Lưu Đạo Quy** (chữ Hán: 劉道規, 370 – 25 tháng 7, 412), tên tự là **Đạo Tắc**, người Tuy Lý, Bành Thành , tướng lãnh nhà Đông Tấn, hoàng thân
**Lưu Kỹ** (chữ Hán: 刘锜, ? – 1162), tên tự là **Tín Thúc**, là tướng lĩnh nhà Nam Tống. Ông là danh tướng của chiến thắng Thuận Xương, có cùng tên thụy Vũ Mục với
**Trần Vĩ** (chữ Hán: 陈韡, 1179 – 1261), tên tự là **Tử Hoa**, người Hầu Quan, Phúc Châu , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất thân tiến sĩ, từng
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
nhỏ|Hình ảnh của nhà máy nhựa đường để làm đường nhựa. **Bê tông nhựa** là hỗn hợp cấp phối gồm: đá, cát, bột khoáng và nhựa đường, được sử dụng chủ yếu làm kết cấu
**Tống Minh Vương** (_chữ Hán_:宋明王) có thể là: ## Danh sách *Bắc Ngụy Tống Minh Vương Lưu Sưởng (trước đó từng làm Đan Dương Minh Vương, khi còn ở Nam triều được nhà Lưu Tống
**Tống Cảnh công** (chữ Hán: 宋景公, ?-469 TCN, trị vì 516 TCN-453 TCN hay 516 TCN-469 TCN), tên thật là **Tử Đầu Mạn** (子頭曼), là vị vua thứ 28 của nước Tống - chư hầu
**Lưu Diệu** () (?-329), tên tự **Vĩnh Minh** (永明), là hoàng đế thứ năm của nước Hán Triệu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trở thành hoàng đế vào năm 318 sau khi hầu hết
**Lưu Bành Tổ** (chữ Hán: 刘彭祖, mất năm 92 TCN), tức **Triệu Kính Túc vương** (赵敬肃王), là vị vua đầu tiên của nước Quảng Xuyên và thứ 9 của nước Triệu, chư hầu nhà Hán
**Nguyệt Am Tông Quang** (zh. 月菴宗光, ja. _gettan sōkō_), 1326-1389, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Lâm Tế, dòng Nam Phố Thiệu Minh (ja. _nampo jōmyō_), hệ phái Diệu Tâm tự (ja.
**Vượt quá đối lưu** là một hiện tượng đối lưu mang vật liệu vượt ra ngoài một vùng không ổn định của khí quyển đến một vùng ổn định, phân tầng. Hiện tượng này được
**Nam Đường Hậu Chủ** (chữ Hán: 南唐後主; 937 - 978), tên thật là **Lý Dục** (李煜), thông gọi **Lý Hậu Chủ** (李後主), là vị vua cuối cùng nước Nam Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc
**Thẩm Khánh Chi**, tự **Hoằng Tiên**, người Vũ Khang, Ngô Hưng, là danh tướng nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Thẩm Khánh Chi từ nhỏ đã
Son kem Focallure Màu Nhung Sương Lì Mịn 16g Son môi mới nhất của Focallure sắp ra mắt !! [Đôi môi quyến rũ, mềm và mịn như nhung] Son kem dạng nhung lì mới, giúp
Thời gian giao hàng dự kiến cho sản phẩm này là từ 7-9 ngày Son môi mới nhất của Focallure sắp ra mắt !! [Đôi môi quyến rũ, mềm và mịn như nhung] Son kem
**Viên Sùng Tổ** (; 440 – 483), tên tự là **Kính Viễn**, sinh quán Hạ Bi , nguyên quán Hoàn Đạo, Lược Dương, là tướng lĩnh nhà Lưu Tống, nhà Nam Tề trong lịch sử
**Hậu Hán Thư** () là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và
Mua viên nang sáng da Sương Mai Học Viện Quân Y tại LAZA MALL giá tốt, nguyên tem mác, hạn sử dụng dài, dùng đạt hiệu quả cao làm trắng và chăm sóc da.Dung tích:
Bạn có muốnTHỔI BAYnhững cáimụn đầu đenđáng ghét trên khuôn mặt bạn mà chỉ để lại nhữngvết li titrên mặt và đến sáng hôm sau làbiến mất?Bạn có muốn những em mụn ra đi một
Xông hơi thải độc da mặt là một bước quan trọng trong việc chăm sóc da và làm đẹp. Để có được làn da đẹp bạn cần phải đến các spa, trung tâm thẩm mỹ,
Xông hơi thải độc da mặt là một bước quan trọng trong việc chăm sóc da và làm đẹp. Để có được làn da đẹp bạn cần phải đến các spa, trung tâm thẩm mỹ,
**Đáo Ngạn Chi** (chữ Hán: 到彦之, ? - 433), tự **Đạo Dự**, người Vũ Nguyên, Bành Thành là một viên sủng tướng nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ##
MÁY PHUN SƯƠNG, MÁY XỊT KHOÁNG, MÁY PHUN SƯƠNG XỊTKHOÁNG, MÁY PHUN SƯƠNG NANOMÁY PHUN SƯƠNG NANO D.S WHITE Để chấm dứt tình trạng da khô, D.S White chúng tôixin giới thiệu cho bạn một
Kem tuyết sương sa forencos wonderwerk marula tone up cream mini cho da mềm mịn tươi trẻ*Thành Phần Forencos Wonderwerk Marula Tone Up Cream.Thành phần chính của sản phẩm này là tinh dầu được chiết
Kem tuyết sương sa forencos wonderwerk marula tone up cream 50ml cho da mềm mịn tươi trẻ*Thành Phần Forencos Wonderwerk Marula Tone Up Cream.Thành phần chính của sản phẩm này là tinh dầu được chiết
Kem tuyết sương sa forencos wonderwerk marula tone up cream mini cho da mềm mịn tươi trẻ*Thành Phần Forencos Wonderwerk Marula Tone Up Cream.Thành phần chính của sản phẩm này là tinh dầu được chiết
Kem tuyết sương sa forencos wonderwerk marula tone up cream 50ml cho da mềm mịn tươi trẻ*Thành Phần Forencos Wonderwerk Marula Tone Up Cream.Thành phần chính của sản phẩm này là tinh dầu được chiết