Lưu Khiêm (chữ Hán: 劉謙, 950 – 1009), người huyện Đường Ấp, phủ Bác Châu, lộ Hà Bắc , tướng lãnh nhà Bắc Tống.
Thân thế
Ông cụ là Lưu Trực, nhờ thuần hậu mà có tiếng ở quê nhà. Trong làng có kẻ trộm áo của Trực, Trực biết mà không hỏi. Châu tướng dò biết, sai người giành lại chiếc áo ấy; Trực cũng không tố cáo kẻ trộm, mà gọi hắn ta đến để trao lại chiếc áo. Trực nói trớ rằng: "Áo bị lạc mất từ xưa, chẳng cần lấy lại." Châu tướng cảm động, muốn tặng vàng lụa, Trực từ chối mà bỏ về.
Cha là Lưu Hãn, tính hào hiệp trượng nghĩa, dám làm dám chịu. Cuối đời Ngũ Đại, giặc cướp rất nhiều, Hãn đưa bộ hạ chặt đứt cầu nổi ở Thiều Châu khiến bọn giặc tan vỡ, thừa cơ dụ bắt vài mươi người, còn chu cấp lương thảo cho quan quân, nên được bổ làm Nội Hoàng trấn tướng. Hãn nhân có việc đến quán rượu, đúng lúc bọn cướp tụ tập cướp bóc, bèn dùng kế giết hết bọn chúng, đem đầu đến gặp Tây Kinh lưu thủ Hướng Củng, được bổ làm Tỷ Thủy trấn tướng, ít lâu sau được làm Tán đô đầu. Đầu đời Bắc Tống, Hãn được thăng làm Hứa Châu Long Vệ phó chỉ huy sứ. Gặp dịp quân Tống đánh Nam Hán, Hãn được làm tiền phong. Sau khi trở về, Hãn được đổi làm Đồng Châu đô hiệu. Không rõ Hãn mất khi nào.
Sự nghiệp
Khiêm từ nhỏ có tính khẳng khái, không câu nệ tiểu tiết. Ban đầu Khiêm đến Lĩnh Biểu (tức Lĩnh Nam) thăm cha, nhân đó được Lưu Hãn giao cho vàng lụa, đem về phương bắc để buôn bán. Khiêm quay về quê cũ Đường Ấp, bị ác thiếu ở hương lý làm nhục, không nén được giận, đánh chết hắn ta. Khiêm bỏ trốn đến kinh sư, rồi ứng mộ tòng quân, được bổ làm Vệ sĩ, dần được thăng đến Nội điện Trực đô tri.
Năm Chí Đạo đầu tiên (995), hoàng tử Triệu Hằng được lập làm thái tử, Khiêm được tăng bổ làm Cung vệ; Tống Thái Tông đích thân tuyển chư hiệu, thụ Khiêm làm Tây đầu Cung phụng quan, Đông cung Thân vệ đô tri, ban bào hốt (áo và hốt), ngoa đái (giày và đai), khí tệ (lễ khí bằng ngọc và lụa). Tống Chân Tông nối ngôi, Khiêm được trạc thụ làm Lạc Uyển sứ. Khiêm xuất thân quân ngũ, không quen chức vụ trong cung cấm, xin đổi trật, nên được đổi làm Điện tiền Tả ban chỉ huy sứ, còn được cấp cho bổng lộc như chư Tư sứ.
Năm Hàm Bình đầu tiên (998), Khiêm được thăng làm Ngự tiền Trung tá Mã bộ quân Đô quân đầu, lĩnh Cần Châu thứ sử, gia Điện tiền Hữu ban Đô ngu hầu. Tống Chân Tông thăm Đại Danh, đến Bắc Uyển, gặp lúc Khiêm có bệnh, được cho phép quay về chữa trị, nhưng ông khẩn khoản xin đi theo. Khiêm được đem hai con trai theo hầu, có thể nhờ cậy thầy thuốc của hoàng đế, còn được ngự trù chia thức ăn. Khỏi bệnh, Khiêm gỡ bộ yên cương của mình để tặng cho trung sứ, Chân Tông nghe được, ban cho 200 lạng bạc. Xa giá trở về, Khiêm được đổi làm Phủng Nhật Tả sương Đô chỉ huy sứ, lĩnh bổn châu Đoàn luyện sứ.
Năm thứ 4 (1001), Khiêm được thăng làm Phủng Nhật, Thiên Vũ Tứ sương Đô chỉ huy sứ, lĩnh bổn châu Phòng ngự sứ, quyền Điện tiền Đô ngu hầu. Bấy giờ Cao Hàn là Thiên Vũ Tả sương đô hiệu, có tên lính quịt nợ giết người, vùi thây trong doanh của Hàn, vài ngày sau thì bại lộ. Tống Chân Tông giận Cao Hàn mất kiểm soát, bắt ông ta vào gặp ở tiện điện. Khiêm lập tức bước ra tâu rằng: "Chức trách của Hàn là tuần tra và dạy dỗ chư quân, không thường xuyên ở doanh, việc xảy ra tại bản doanh nên trách quân đầu." Chân Tông tha tội cho Hàn.
Năm Cảnh Đức đầu tiên (1004), Khiêm được gia Thị vệ Mã quân Đô ngu hầu, đổi lĩnh Tầm Châu phòng ngự sứ, ít lâu được làm quyền Bộ quân Đô chỉ huy sứ. Mùa đông năm sau (1005), Khiêm được chế thụ chức Điện tiền Phó đô chỉ huy sứ, Chấn Vũ quân Tiết độ . Trước đó Khiêm ở chức quyền Điện tiền Đô ngu hầu đã lâu, bất chợt Tào Xán được cất nhắc chánh thụ chức này, khiến ông rất đỗi tức giận than thở. Đến nay Tào Xán được làm phó của Mã quân tư, còn Khiêm được thăng làm phó của Điện tiền tư. Triều đình thường cấp áo ấm cho lính đóng đồn ở Hà Bắc vào tháng 8 ÂL, Khiêm dâng lời rằng mùa đông ở biên thành đến sớm, xin cấp vào tháng 6 ÂL, từ đây về sau trở thành thông lệ. Ít lâu sau, Khiêm lấy cớ đau chân xin ra coi quận; Tống Chân Tông triệu kiến, vỗ về khích lệ ông.
Năm Đại Trung Tường Phù đầu tiên (1008), Tống Chân Tông làm lễ phong thiện ở Thái Sơn (sử cũ gọi là Đông phong), giáng chiếu cho Khiêm làm Đô tổng sơn hạ mã bộ chư quân, cùng Tây Kinh tả tàng khố phó sứ Triệu Thủ Luân tra xét cửa núi; bọn họ sắp xếp hợp lý, nên những người ghi chép về sự kiện mới lên núi được. Lễ xong, Khiêm được tiến thụ Đô chỉ huy sử, dời lĩnh Bảo Tĩnh quân Tiết độ.
Tháng 8 ÂL năm sau (1009), Khiêm mất, hưởng thọ 60 tuổi, được tặng Thị trung.
Dị sự
Khi xưa Khiêm sắp tòng quân, đi xem bói với người ứng mộ cùng lúc với mình là Vương Nhân Đức, thầy bói trỏ Khiêm mà nói với Nhân Đức: "Mày chỉ đáng làm tên chăn ngựa của người này." Đến khi Khiêm nắm Điện tiền tư, Nhân Đức vẫn chỉ là tên lính phục vụ trong chuồng ngựa.
Hậu nhân
Con trai là Lưu Hoài Ý, được làm đến Đông Nhiễm viện phó sứ, Lưu Hoài Thuyên được làm đến Nội điện sùng ban, Cáp môn chi hậu.
👁️
4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
**Lưu Khiêm** (chữ Hán: 劉謙, 950 – 1009), người huyện Đường Ấp, phủ Bác Châu, lộ Hà Bắc , tướng lãnh nhà Bắc Tống. ## Thân thế Ông cụ là Lưu Trực, nhờ thuần hậu
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
Các tiểu vùng địa lý tự nhiên
của miền Bắc Việt Nam nhỏ|Tây Bắc Bộ (đỏ) trong Việt Nam **Tây Bắc Bộ** là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường **Lưu Nghị** (, ? – 412), tự **Hi Nhạc**, tên lúc nhỏ là **Bàn Long**, người huyện Bái, nước (quận) Bái , tướng lĩnh Bắc phủ binh nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Lưu Khiêm** (chữ Hán: 刘谦, ? – ?), tự Hán Tông, người phủ Khai Phong , tướng lãnh nhà Bắc Tống. ## Sự nghiệp Thời trẻ Khiêm được bổ làm Vệ sĩ, qua vài lần
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Đào Khiêm** (chữ Hán: 陶謙; 132–194), tên tự là **Cung Tổ** (恭祖), là tướng cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Dẹp Khăn Vàng Đào Khiêm là người huyện Đan Dương thuộc
**Tên người Việt Nam** được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 TCN và càng ngày càng đa dạng hơn, trong khi có ý kiến khác cho rằng: "sớm
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Lý Nhân Tông** (chữ Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại
**Tống Cung Đế** (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là **Doanh Quốc công**, **Tống Đế Hiển** (宋帝㬎), tên thật là **Triệu Hiển** (趙㬎), là vị
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Ông Ích Khiêm** (翁益謙, 1829 - 1884) tự **Mục Chi**, là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Ông Ích Khiêm** sinh ngày 21 tháng 12 năm
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Dặc Khiêm** (tiếng Trung: 弋謙, ? - 1451), người Đại Châu, phủ Thái Nguyên , quan viên nhà Minh, nổi tiếng cương trực, từng 2 lần làm việc ở Việt Nam (nhà Minh gọi là
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
:_Về ngôn ngữ hay phương ngữ, xem Tiếng Khách Gia._ **Khách Gia**, hay **Hakka**, còn gọi là **người Hẹ** (chữ Hán: 客家; bính âm: _kèjiā_; nghĩa đen là "nhà khách") là một tộc người Hán
**Lưu Mục Chi** (刘穆之), tên tự là **Đạo Hòa**, tên lúc nhỏ là Đạo Dân , là kiều dân ở Kinh Khẩu , mưu sĩ thân cận của quyền thần Lưu Dụ cuối đời Đông
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
**Phan Mỹ** (chữ Hán: 潘美, 925 – 991), tên tự là **Trọng Tuân**, người phủ Đại Danh , là tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là nguyên mẫu của
Lâm Xuyên Khang vương **Lưu Nghĩa Khánh** (chữ Hán: 刘义庆, 403 – 444), người Tuy Lý, Bành Thành, quan viên, nhà văn, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thăng tiến
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 张昭, 894 – 972), tự **Tiềm Phu**, người huyện Phạm, Bộc Châu . Ông là sử quan đã hoạt động gần trọn đời Ngũ Đại cho đến đầu đời Tống, phục
**Hàng Châu** (chữ Hán: 杭州, bính âm: Hángzhōu, Wade-Giles: Hang-cho) là một thành phố nằm trong đồng bằng châu thổ sông Trường Giang của Trung Quốc, và là thủ phủ tỉnh Chiết Giang. Hàng Châu
**Châu Kiệt Luân** (, nghệ danh tiếng Anh: **Jay Chou**, sinh ngày 18 tháng 1 năm 1979) là một ca sĩ, nhạc sĩ, rapper, nhà sản xuất âm nhạc, diễn viên, đạo diễn, doanh nhân
**Lưu** là một họ của người Trung Quốc (), Việt Nam và cũng tồn tại ở Triều Tiên (Hangul: 류, Romaja quốc ngữ: Ryu hoặc Yu). Họ Lưu được biết đến nhiều nhất vì đây
**Lưu Trạch Thanh** (chữ Hán: 劉澤清, ? – 1645 hoặc 1649), tự Hạc Châu, người Tào Châu (nay là huyện Tào, Sơn Đông) tướng lĩnh nhà Minh, trấn thủ Lư Châu (nay là Hợp Phì,
**Trần Vĩ** (chữ Hán: 陈韡, 1179 – 1261), tên tự là **Tử Hoa**, người Hầu Quan, Phúc Châu , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất thân tiến sĩ, từng
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1982** không có giới hạn chính thức, nó diễn ra suốt năm 1982. Trung bình, hầu hết xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên Tây
**Toàn Tông** (chữ Hán: 全琮, 198 – 249) là tướng lãnh Đông Ngô thời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông được xếp vào nhóm tướng lãnh có nhiều công trạng trấn áp nội
**Lý Tòng Bá** (1931 – 2015), nguyên là một tướng lĩnh gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu ở trường Võ
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Trần Thiện Khiêm** (1925-2021) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân
**Lưu Ẩn** (, 874–911) là một quân phiệt vào cuối thời nhà Đường và thời nhà Lương. Ông từng giữ chức vụ Thanh Hải quân Tiết độ sứ, trị sở nay thuộc Quảng Châu, Quảng
**Người Chăm**, **người Chăm Pa** hay **người Degar-Champa** (tiếng Chăm: ꨂꨣꩃ ꨌꩌꨛꨩ, اوراڠ چامفا, _Urang Campa_; tiếng Khmer: ជនជាតិចាម, _Chónchèat Cham_; ; ), còn gọi là **người Chàm**, **người Chiêm**, **người** **Chiêm Thành**, **người Hời**,
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
thumb|Biểu tượng thường dùng cho người khuyết tật **Người khuyết tật** là người **khiếm khuyết** về mà vì thế gây ra **suy giảm đáng kể** và **lâu dài** đến khả năng thực hiện các hoạt
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Bắc phủ binh** (chữ Hán: 北府兵) hay **Bắc phủ quân** (北府军) là đội quân do danh tướng nhà Đông Tấn là Tạ Huyền chủ trì việc thành lập, vào buổi đầu giai đoạn nắm quyền
**Lưu Lao Chi** (chữ Hán: 劉牢之, ? - 402), tên tự là **Đạo Kiên** (道堅), nguyên quán ở huyện Bành Thành, là đại tướng dưới thời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Xuất thân
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Bắc sử** (北史) là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử do Lý Đại Sư viết về giai đoạn lịch sử từ năm 386 tới 618. Sau khi Lý Đại Sư mất, Lý Diên
**An Phong**, thường được biết đến với nghệ danh **Lưu Diệc Phi** (; , sinh ngày 25 tháng 8 năm 1987), là một nữ diễn viên, người mẫu kiêm ca sĩ người Mỹ gốc Hoa.